Đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ trong phong trào dân tộc, dân chủ 1936-1939

Tác giả: TRẦN VĂN HÙNG
(Trường Đại học Hùng Vương)

RESISTANCE MOVEMENTS OF PEASENTS IN NORTHERN DELTA
BETWEEEN 1936 AND 1939

TÓM TẮT

     Sau thời kỳ chống lại các chính sách khủng bố của thực dân Pháp, phong kiến tay sai, phong trào nông dân Bắc Kỳ bùng nổ trong phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ 1936 – 1939. Phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ diễn ra trên hầu khắp các tỉnh, đạt được những mục tiêu đề ra, thể hiện một bước phát triển mới. Phong trào thời kỳ này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm và ý nghĩa to lớn làm cơ sở tiền đề cho cuộc vận động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp nông dân trong giai đoạn tiếp sau.

Từ khóa: Phong trào; phong trào đấu tranh, nông dân, Bắc Kỳ.

SUMMARY

After the fighting period against persecution of French colonialism and feudal minions, the peasant movement in the north exploded within the national democratic revolution 1936 – 1939. Resistance movement of peasant in the north took place in most provinces, reaching expected targets and representing
a new stage of development. Movements during that period left a lot of lessons, experiences and great meatings to build the foundation for the campaign of the Revolutinonary Communist Party of Vietnam to the peasantry in the next stage.

Keywords: Movements, Resitance movements, Peasant, the North.

x
x x

1. Mở đầu

     Thời kỳ 1936 – 1939, thực trạng đời sống của nông dân Bắc Kỳ ngày càng cực khổ, lầm than dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp và lực lượng tay sai. Sự xuất hiện và lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít, đe dọa hòa bình, an ninh thế giới, nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam thực hiện đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh thế giới. Nông dân Bắc Kỳ sau thời kỳ chống địch khủng bố, đàn áp tiếp tục thực hiện đấu tranh dưới những hình thức, mức độ khác nhau. Phong trào đã đạt được những kết quả và để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc.

2. Phương pháp nghiên cứu

     Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic nhằm đánh giá đúng phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ trong hoàn cảnh lịch sử những năm 1936-1939 của đất nước nói chung và địa bàn các tỉnh Bắc kỳ nói riêng dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp.

     Bên cạnh đó, chúng tôi kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê toán học nhằm thống kê số lượng, quy mô các cuộc đấu tranh trên địa bàn các tỉnh Bắc Kỳ.

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

     3.1. Bối cảnh thế giới và thực trạng đời sống của nông dân Bắc Kỳ những năm 30 của thế kỷ XX

     Chiến tranh thế giới lần thứ hai ngày càng có nguy cơ bùng nổ. Trong bối cảnh đó, nhằm ngăn chặn chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cống sản họp, xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít và đề ra nhiệm vụ cho phong trào cách mạng thế giới lúc này là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hòa bình.

     Tại Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập tháng 1-1936 đã giành thắng lợi lớn trong cuộc Tổng tuyển cử tháng 4.1936 và thành lập chính phủ do Lêông Blum đứng đầu. Chỉnh phủ mới ở Pháp đã thi hành một số chính sách tích cực ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam: tổ chức đoàn kiểm tra tình hình thuộc địa ở Đông Dương, thả tù chính trị, tự do báo chí, lập hội.

     Trong thời kỳ 1936-1939, nông dân là lực lượng chủ yếu trong xã hội Việt Nam nói chung và Bắc Kỳ nói riêng. Bởi vì, thời kỳ này ngoài các tỉnh như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng có sự phát triển nhất định của công nghiệp thì các tỉnh còn lại của Bắc Kỳ đều là thuần nông. Chính vì vậy đối tượng bóc lột chủ đạo của thực dân Pháp và lực lượng tay sai ở Bắc Kỳ là lĩnh vực nông nghiệp và người nông dân.

     Ruộng đất là tư liệu sản xuất, là kế sinh nhai chủ yếu của người nông dân, nhưng bằng các chính sách như chiếm đoạt trực tiếp, tô thuế, nợ lãi thực hiện từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX, thực dân Pháp và lực lượng tay sai đã tước đoạt gần hết ruộng đất của người nông dân Bắc Kỳ. Trong thời kỳ này số dân Bắc Kỳ khoảng hơn 8 triệu người, thì “số dân quê có trên một mẫu là 970.379 người”. Trong khi đó, trong điều kiện sản xuất của nước ta lúc bấy giờ, người nông dân “nếu có từ 5 mẫu trở lên, mới không phải làm thuê, làm mướn”.

     Không có ruộng để duy trì cuộc sống tối thiểu, nhưng người nông dân Bắc Kỳ phải gánh chịu hệ thống tô thuế rất nặng nề của thực dân Pháp và lực lượng tay sai: thuế thân, thuế ruộng, thuế đò, thuế chợ, thuế muối, thuế rượu; thuế thuộc phiện,… Theo số liệu thống kê, những năm 30 của thế kỷ XX, một người nông dân có một mẫu ruộng phải chịu tổng số thuế là: “thuế một mẫu ta ruộng: 2đ; thuế thân và phụ thu: 5đ; thuế đò, thuế rượu, thuế thuốc phiện: 1đ. Tổng cộng người nông dân đó phải đóng là 8đ/ một năm”. Số tiền thuế phải đóng trên tương đương với 400 kg thóc trong thời giá bấy giờ. Trong khi đó tổng số thu nhập của một người nông dân với một mẫu ruộng chỉ có tổng thu nhập là “13đ”. Trừ đi thuế người nông dân đó chỉ còn 5 đồng cho tất cả mọi sinh hoạt. “Số tiền 5đ ấy, có thể đong được 250 kg thóc đủ cho gia đình ăn tạm đủ trong khoảng hơn 3 tháng, hoặc hơn 4 tháng nếu dè xẻn”. Thực tế trong thời kỳ đó “số người đi làm thuê chiếm tới 2/3 nông dân”.

     Chính vì gánh nặng thuế, lại không có ruộng đất cho nên buộc nông dân phải lĩnh canh ruộng đất của tư bản Pháp hay địa chủ hoặc vay lãi. Nhưng cả hai biện pháp trên đều không thể đưa đến sự cải thiện đời sống người nông dân, trái lại còn đưa người nông dân đến chỗ cùng cực hơn. Bởi vì, nếu lĩnh canh ruộng đất thì mỗi vụ phải trả cho chủ ruộng hoa lợi từ 50% đến 70%, nếu vay lãi bằng tiền theo ngày thì lãi xuất “3.650%/năm, theo năm thì 30%/năm”, vay bằng lúa “lợi tức hàng năm phải từ 60 đến 100%”. Chính vì vậy cho nên, “trong rất nhiều trường hợp, người nông dân đã trả cho chủ nợ một số tiền hoặc một số lúa gấp mấy lần số nợ gốc rồi mà nợ gốc vẫn còn nguyên”.

     Thuế, nợ lãi càng khiến người nông dân bần cùng, đưa người nông dân Bắc Kỳ nói riêng, nông dân cả nước ta thời kỳ đó luôn ở trong vòng luẩn quẩn của thuế má, nợ lãi và cuộc sống cực khổ. Thực trạng trên đưa đến mâu thuẫn sâu sắc hơn giữa nông dân với thực dân Pháp và yêu cầu bức thiết cần phải đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ.

     Trong bối cảnh mới, tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định đường lối chung cho cách mạng Việt Nam lúc này là: chưa nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ mà chỉ nêu mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.

     Đồng thời Hội nghị có những chỉ đạo cụ thể đối với giai cấp nông dân. Đảng đã xác định “vấn đề nông dân là vấn đề đặc biệt quan trọng trong công tác Đảng”. Đảng đã rút kinh nghiệm về những thiếu sót trong công tác tổ chức đối với vấn đề nông dân. Trên cơ sở đó, hội nghị chủ trương mở rộng hoạt động của Hội Nông dân, phát triển các tổ chức hội của nông dân dưới hình thức khác, “sử dụng tất cả các hình thức phản đối, đơn kiện… để bảo vệ những quyền lợi cấp thiết”.

     Thực trạng đời sống cực khổ của nông dân và những chủ trương của Đảng đã đưa đến phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ 1936-1939. Trong phong trào chung đó có phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.

     3.2. Nông dân Bắc Kỳ đấu tranh trong phong trào dân tộc, dân chủ 1936-1939

     3.2.1. Đấu tranh trực diện với Pháp và tay sai

    Được tin thực dân Pháp cử đoàn điều tra tình hình thuộc địa Đông Dương, Đảng phát động nhân dân đấu tranh dưới hình thức Đông Dương Đại hội nhằm kiến nghị “12 yêu sách” về tự do, dân sinh, dân chủ, trong đó có những yêu sách về quyền lợi của nông dân: đòi bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác, xóa nạn cho vay nặng lãi, xóa nợ cho những người còn thiếu thuế, bỏ chế độ làm công ích, cấm tịch ký tài sản vì nợ hoặc vì không đóng thuế. Ngay sau chủ trương của Đảng, Ủy ban lâm thời chi nhánh Bắc Kỳ Đông Dương Đại hội được thành lập. Các ủy ban hành động của nông dân được thành lập ở hầu khắp các tỉnh Bắc Kỳ. Mặc dù chính quyền thực dân Pháp cấm tổ chức, nhưng phong trào đấu tranh dưới hình thức Đông Dương Đại hội của nông dân ở đây vẫn phát triển mạnh. Nhiều tỉnh, nông dân đã cử đại diện của mình đón gặp Gôđa đưa những yêu sách, kiến nghị dân sinh, dân chủ.

     Năm 1937, đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ đánh dấu bằng sự tham gia trong cuộc mít tinh đưa dân nguyện 2/1937 ở ga Hàng Cỏ – Hà Nội. Bắt đầu từ tháng 4/1937, liên tiếp có các cuộc đấu tranh của nông dân các tỉnh: nông dân các làng Yên Dũng, Ngãi Cầu, Ngọc Trụ, Yên Lộ, Yên Lãng, Đình Xuyên, Ứng Hòa (Hà Đông); nông dân Lạc Thổ, Ngọc Nội, Lĩnh Mai (Bắc Ninh); nông dân toàn huyện Giao Thủy (Nam Định); nông dân làng Bích Đại (Vĩnh Tường – Vĩnh Yên); nông dân làng La Khê, Cao, Nhân Lý (Sơn Tây); nông dân làng Yên Đội (Lạc Thủy – Hòa Bình); nông dân Phương Ngải (Kiến Xương), làng Cổ Việt (Vũ Tiên), Quang Lang, Tam Đồng (Thụy Anh); Đại Đồng (Thư Trì) thuộc tỉnh Thái Bình; đấu tranh của nông dân các làng Địch Lễ (Nam Trực), Đông An, Hạc Châu, Xuân Bảng (Xuân Trường), Quỹ Thượng, Quỹ Đê (Trực Ninh) thuộc tỉnh Nam Định; đấu tranh của nông dân Lạc Đạo, Lạc Hồng (Văn Lâm – Hưng Yên);

     Sau các cuộc đấu tranh trong phong trào Đông Dương Đại hội năm 1937, phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Năm 1938, đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ được đánh dấu bằng sự tham gia của nông dân trong cuộc mít tinh ở Hà Nội cùng công nhân và các tầng lớp khác. Đấu tranh của hàng nghìn nông dân huyện Thái Ninh (Thái Bình); nông dân Ngô Khê (Bắc Quang – Hà Giang); đấu tranh của 300 nông dân làng La Hiên (Võ Nhai), đưa đến phong trào đấu tranh rộng lớn của nông dân các huyện Phú Bình, Phổ Yên, Đồng Hỉ, Định Hóa (Thái Nguyên); đấu tranh của hàng nghìn nông dân ba huyện Thái Ninh, Tiền Hải, Kiến Xương (Thái Bình) đòi đất ở bãi Tân Bồi trong thời gian từ 1938 đến 1940, đấu tranh của 500 nông dân Răng Thông (Kiến Xương) ngồi bảy ngày để nộp thuế, chống cường hào phù thu; đấu tranh của nông dân làng Phán Thủy, Đa Lộc, gần 100 nông dân xã Tam Nông (Ân Thi) của tỉnh Hưng Yên; đấu tranh của nông dân xã Bình Hà (Thanh Hà – Hải Dương).

     Năm 1939, phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ cũng được bắt đầu bằng cuộc mít tinh nhân ngày Quốc tế lao động. “Trong ngày 1/5, có cuộc đấu tranh của hành nghìn nông dân nội, ngoại thành Hà Nội; đấu tranh của 700 nông dân Hải Phòng; 500 nông dân Thái Bình. Sau ngày 1/5, khí thế đấu tranh của nông dân khu vực Bắc Kỳ lên cao, tiêu biểu như đấu tranh của hơn 1500 nông dân Hải Phòng; đấu tranh của khoảng 100 nông dân Hạ Trì, 300 nông dân Văn Phước (Hà Đông); đấu tranh của 300 nông dân Cao Bằng; đấu tranh của hàng nghìn nông dân huyện Thái Ninh (Thái Bình); đấu tranh của nông dân Dụ Phước (Sơn Tây); đấu tranh của 200 nông dân làng Hải Yên (Tiên Lữ – Hưng Yên); đấu tranh của 400 nông dân Bắc Giang trong cuộc mít tinh ở Phủ Lạng Thương.

     Mỗi cuộc đấu tranh đều có mục tiêu cụ thể, nhưng nhìn chung các cuộc đấu tranh trực diện của nông dân Bắc Kỳ thời kỳ 1936-1939 đều tập trung vào các mục tiêu: chống sưu thuế nặng nề, đòi chia ruộng công, chống chiếm đoạt ruộng đất, chống phù thu, lạm bổ, chống ức hiếp dân nghèo, chống đàn áp các cuộc mít tinh, biểu tình của công nhân, đòi cải cách hương thôn. Đấu tranh của nông dân thời kỳ đã đạt được kết quả tích cực.

     3.2.2. Đấu tranh gián tiếp của nông dân Bắc Kỳ dưới hình thức lập hội, đọc sách báo và nghị trường 

     Một hình thức đấu tranh khác của nông dân phát triển rất mạnh ở Bắc Kỳ trong thời kỳ này là phong trào lập hội. Nếu như ở thời kỳ 1930-1935, tổ chức của nông dân chỉ có Hội Nông dân, thì thời kỳ này các tổ chức hội của nông dân phát triển rất đa dạng: hội cấy, hội gặt, hội hiểu hỉ, hội góp họ, hội chèo, nhóm học quốc ngữ, hội đọc sách báo,… bên cạnh sự phát triển mạnh hơn của Hội Nông dân. Mục đích của Đảng khi vận động thành lập các hội là để tập hợp đông đảo nông dân đoàn kết trong một tổ chức giúp đỡ nhau lúc khó khăn, đấu tranh giành quyền lợi cho giai cấp mình. Hai tổ chức hội tập hợp được đông đảo nông dân nhất là hội hiếu và hội tương tế. Hầu khắp các tỉnh phong trào lập hội đều diễn ra mạnh, tiêu biểu như “Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hà Nam, Nam Định,..”. Tại Thái Bình, “toàn tỉnh có tới 1/4 số làng có tổ chức quần chúng. Riêng huyện Kiến Xương, số làng có tổ chức quần chúng chiếm tới 57%”.

     Lợi dụng triệt để chủ trương cho tự do báo chí của thực dân Pháp, Đảng đã chỉ đạo thực hiện cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí. Nhiều tờ báo cách mạng được ra đời trong thời kỳ này. Nhằm nâng cao dân trí, nhận thức cách mạng, kẻ thù của nông dân, phong trào đưa sách báo về vùng nông thôn trong thời kỳ này như: Tin tức, Nhành lúa, Bạn dân, Thời thế, Đời nay, Dân chúng và các tác phẩm cách mạng như: “Vấn đề dân cày”, “Tư bản luận”, “Trường sơ học của Đảng cộng sản Pháp”, “Tổ chức vô sản”, “Nhật ký tuyệt thực”,… Hầu khắp các tỉnh Bắc Kỳ hoạt động tuyên truyền sách báo cách mạng phát triển mạnh. Nhiều tỉnh có cách làm sáng tạo nhằm đạt hiệu quả tuyên truyền: tổ chức địa điểm đọc sách báo cố định (Hà Nam), thành lập cơ quan “Đại lý sách báo cánh tả” (Nam Định), sử dụng điếm canh làm địa điểm đọc sách báo (Bắc Ninh), tổ chức các buổi hội họp kết hợp đọc sách báo (Thái Bình),…

     Đấu tranh báo chí và việc đưa sách báo về nông thôn nhận được sự ủng hộ, tìm hiểu của đông đảo nông dân. Thông qua sách báo nông dân Bắc Kỳ hiểu được thực trạng đời sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó có giai cấp mình, trình độ nhận thức của nông dân nâng cao, nông dân hiểu sâu sắc hơn nhiều vấn đề cách mạng, mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Măt khác đấu tranh báo chí góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ những hủ tục ở nông thôn, thúc đẩy sự đoàn kết trong giai cấp nông dân và giữa nông dân với công nhân.

     Cùng với đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, Đảng chủ trương phát động đấu tranh nghị trường. Hình thức đấu tranh này cũng có sự tham gia nhất định của nông dân, có ảnh hưởng tích cực đối với nông dân Bắc Kỳ. Do giới hạn về đối tượng bầu cử nên rất ít nông dân được tham gia bầu cử, nhưng nông dân được tham gia trong các hội nghị Mặt trận để giới thiệu người của Mặt trận ra ứng cử các vị trí của Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Thông qua những hội nghị Mặt trận, nông dân được thảo luận nhiều vấn đề, được nêu lên ý kiến về việc lựa chọn người ra ứng cử. Nông dân Bắc Kỳ tham gia sâu rộng trong cuộc vận động bầu cho người của Mặt trận trong cuộc bầu cử này. Kết quả trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ có 15 đại biểu của ta trúng cử. Thông qua cuộc đấu tranh này, lần đầu tiên nông dân Bắc Kỳ nói riêng, nông dân cả nước nói chung đã hiểu được thế nào là bầu cử, vai trò làm chủ của mình, thế nào là đấu tranh nghị trường.

     3.3. Một số nhận xét về đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ trong phong trào dân tộc, dân chủ 1936-1939

     Qua diễn biến tổng thể về các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ thời kỳ 1936-1939 ta thấy phong trào đấu tranh có những đặc điểm sau:

     Thứ nhất, các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ dù biểu hiện dưới hình thức như thế nào thì đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Hầu khắp các thôn, làng, xã có các cuộc đấu tranh của nông dân đều có hoạt động của Đảng do vai trò cá nhân của các đảng viên hay chi bộ. Các cuộc đấu tranh của nông dân đều có sự định hướng chỉ đạo về mục đích đấu tranh, hình thức đấu tranh, đối tượng đấu tranh. Đồng thời, các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ đều bám sát mục tiêu đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ do Đảng đề ra.

     Thứ hai, qua các cuộc đấu tranh nông dân Bắc Kỳ đã thể hiện cho thấy họ là lực lượng có thể đấu tranh độc lập ở những địa bàn thuần nông (Thái Bình, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Bắc Giang), nhưng đồng thời cũng có thể liên minh chặt chẽ với công nhân ở những địa bàn có sự phát triển công nghiệp như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng. Mặt khác, nông dân Bắc Kỳ đã cho thấy sự liên kết chặt chẽ hơn với công nhân, thể hiện qua các cuộc đấu tranh ở Hà Nội, Nam Định trong ngày Quốc tế lao động các năm. Đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân khác ở Hà Nội không chỉ nhận được sự ủng hộ từ nông dân Hà Nội, mà còn nhận được sự tham gia, ủng hộ của nông dân nhiều tỉnh khác: Bắc Ninh, Hưng Yên, Vĩnh Yên, Nam Định.

     Thứ ba, về kết quả, các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ đã đạt được những kết quả cụ thể với các quyền lợi hàng ngày của họ… Nhưng lớn hơn, các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ cùng với nông dân cả nước đã buộc thực dân Pháp phải sửa đổi luật thuế thân. Trước năm 1937, thuế thân được thực dân Pháp thực hiện theo đạo luật thuế năm 1925, trong đó quy định tất cả người dân Việt Nam đều đóng mức thuế chung 2đ50 và khoản phụ từ 10% đến 15%. Do áp lực đấu tranh của nông dân, năm 1937 chính quyền Pháp sửa đổi lại chế độ thuế thân áp dụng ở Bắc Kỳ, chia thành 7 mức đóng thuế. Trong đó nông dân cơ bản phải đóng ở mức 1đ và 2đ50. Sau cải cách này phong trào đấu tranh của nông dân không giảm, năm 1939, thực dân Pháp tiếp tục có sự sửa đổi thuế thân, chia thành 14 hạng, trong đó nông dân phải đóng ở hạng 13 (2đ5/năm) và 14 (1đ/năm). Sự điều chỉnh thuế thân của chính quyền thực dân Pháp là không nhiều đối với nông dân so với mức cũ, nhưng nó cũng cho thấy những kết quả tích cực từ các cuộc đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ.

Kết luận

     Từ thực tế cho ta thấy nông dân Bắc Kỳ trong thời kỳ 1936-1939 đã có phong trào đấu tranh trên phạm vi rộng, liên tục. Phong trào đấu tranh vừa trực tiếp tấn công vào thực dân Pháp và phong kiến tay sai thông qua hình thức mít tinh, biểu tình, vừa gián tiếp thông qua hoạt động đọc sách báo, hội họp và nghị trường nhằm những mục tiêu dân chủ, dân sinh. Phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ thời kỳ này vừa thể hiện sự nối tiếp liên tục truyền thống cách mạng thời kỳ 1930-1931, vừa có sự phát triển thêm một bước cao hơn. Đây chính là tiền đề quan trọng để Đảng ta thúc đẩy phong trào đấu tranh của nông dân Bắc Kỳ trong thời kỳ 1939-1945, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998), Lịch sử Đảng bộ Thái Bình 1927-1954,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Nguyễn Kiến Giang (1958), Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng Tám, NXB Sự Thật, Hà Nội.

3. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

4. Qua Ninh, Vân Đình (1937), Vấn đề dân cày, NXB Sự Thật – tái bản 1959, Hà Nội.

5. Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (1998), Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông
dân Việt Nam 1930-1995, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6 (2000), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Nguồn: Khoa học Công nghệ của Trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ,
ISBN 978-604-60-1455-3; 2 (31) – 2014

 Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)