THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ đối với NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI trong TIẾNG VIỆT trên MẠNG INTERNET HIỆN NAY (Trường hợp diễn đàn giải trí Kites.vn) – Phần 1

TRỊNH CẨM LAN 1,
NGUYỄN MINH DIỆU
2

(1. PGS TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội
2. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội)

1. Đặt vấn đề

     Không khó để gặp những từ ngữ kiểu (a) nhể (nhỉ), thik (thích), hồi trc (hồi trước), nhìu (nhiều); wá (quá) hay (b) oppa (anh trai), new (tin), tks (cảm ơn); (c) chủ thớt (người khởi xướng),… trên các diễn đàn giải trí, facebook và mạng internet nói chung hiện nay. Có thể nói, đây là một hiện tượng ngôn ngữ xã hội phổ biến trong sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ thời đại internet. Có nhiều ý kiến xoay quanh ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi này. Nhiều ý kiến không giấu sự quan ngại rằng những hiện tượng như trên sẽ ảnh hưởng tiêu cực, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Một cách cảm tính, nhiều người cho rằng thái độ của cộng đồng sử dụng tiếng Việt với hiện tượng này nói chung là tiêu cực. Tuy vậy, chưa có một nghiên cứu nào đưa ra kết luận về thái độ của cộng đồng đối với hiện tượng này bằng những chứng cứ khách quan.

     Bài viết là kết quả khảo sát thái độ của cộng đồng đối với việc sử dụng ngôn ngữ trên mạng internet qua trường hợp diễn đàn Kites.vn nhằm mục đích tìm hiểu thái độ của cộng đồng sử dụng tiếng Việt đối với những biến đổi ngôn ngữ này một cách khoa học.

2. Cơ sở lí luận

     2.1. Thái độ ngôn ngữ

     Thái độ ngôn ngữ (language attitude), theo góc nhìn tâm lí học xã hội, thường tập trung vào lí giải việc các cá nhân tham gia giao tiếp nghĩ gì về ngôn ngữ và làm gì với ngôn ngữ. Thái độ ngôn ngữ thường được nghiên cứu theo hai khuynh hướng: khuynh hướng tinh thần luận (mentalism) và khuynh hướng hành vi luận (behaviorism). Khuynh hướng tinh thần luận cho rằng thái độ là “trạng thái bên trong do một loại kích thích nào đó gây nên và trạng thái đó có thể làm trung gian cho những phản ứng của cơ thể xảy ra sau đó” (Dẫn theo Fasold [1]). Theo đó, thái độ của cá nhân với đối tượng sẽ quy định sự ứng xử của cá nhân với đối tượng ấy, nghĩa là thái độ sẽ dẫn đến hành vi và hành vi là kết quả của thái độ. Hạn chế của hướng tiếp cận này là ở phương pháp thí nghiệm, bởi nếu thái độ được xem như một trạng thái bên trong hơn là những phản ứng có thể quan sát bên ngoài thì chúng ta phải dựa vào những biểu hiện gián tiếp của những trạng thái đó và những biểu hiện này không dễ phát hiện. Còn theo hành vi luận, thái độ được nhìn thấy một cách giản đơn từ những phản ứng của con người đối với cảnh huống xã hội, nghĩa là thái độ của cá nhân nằm ngay ở hành vi của cá nhân đó và vì vậy, muốn biết thái độ, chỉ cần quan sát hành vi [9]. Ưu điểm này khiến cho khuynh hướng hành vi luận được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng. Đây cũng là cách tiếp cận chúng tôi áp dụng cho nghiên cứu này.

     Thái độ ngôn ngữ được phân biệt với thái độ nói chung ở chỗ nó hướng tới ngôn ngữ. Nghiên cứu thái độ ngôn ngữ có thể giải đáp những vấn đề chẳng hạn như: các biến thể của một ngôn ngữ nào đó là phong phú hay nghèo nàn? gợi cảm hay không gợi cảm? dễ nghe hay khó nghe? chuẩn mực hay không chuẩn mực?…; hoặc xem xét thái độ đối với người nói một ngôn ngữ hay phương ngữ nào đó; hay cũng có khi là thái độ hướng tới người nói những biến thể ngôn ngữ trong hành chức. Việc hình thành thái độ ngôn ngữ cũng chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội như tuổi tác, giới tính, trình độ giáo dục, nghề nghiệp…

     2.2. Ngôn ngữ mạng và ngôn ngữ trên diễn đàn giải trí

     Ngôn ngữ mạng là một thuật ngữ được dùng để chỉ mọi sự giao tiếp thông qua máy tính (Computer-mediated communication -cmC) và mạng internet. Theo December,cmC là “quá trình con người tạo dựng, trao đổi và tiếp nhận thông tin bằng cách sử dụng hệ thống viễn thông kết nối mạng để mã hoá, truyền tải và giải mã thông điệp một cách dễ dàng” [8]. Một cách bao quát hơn,cmC là quá trình thực hiện hành vi giao tiếp thông qua máy tính và các thiết bị số khác như điện thoại di động, máy tính bảng… Từ tiếp cận ngôn ngữ học, các nghiên cứu chủ yếu tập trung khảo sát diễn ngôn qua máy tính (Computer-mediated discourse -cmD). Theo đó,cmD là “sự giao tiếp được tạo ra khi con người tương tác với nhau bằng cách gửi và nhận thông điệp qua máy tính nối mạng” [10]. Và vì vậy, các nghiên cứu vềcmD khác với các nghiên cứu vềcmC nói chung ở chỗ nó sử dụng phương pháp phân tích diễn ngôn để nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong môi trường trực tuyến.

     Một trong những công trình nghiên cứu ngôn ngữ mạng đầu tiên trên thế giới là ‘’Computer Mediated Communication as a Force in Language Change” (Giao tiếp qua máy tính như là một động lực của sự biến đổi ngôn ngữ) của Naomi Baron năm 1984. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra những dự đoán về ảnh hưởng của ngôn ngữ mạng đối với thói quen giao tiếp của con người. Các nghiên cứu sau đó của Baron hầu hết đều dựa trên ngữ liệu thư điện tử và thường tập trung vào một số vấn đề như so sánh sự giống và khác nhau giữa ngôn ngữ mạng với ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng và vai trò của chúng đối với việc sử dụng ngôn ngữ mạng của mỗi cá nhân… Theo Baron, ảnh hưởng của ngôn ngữ mạng tới sự biến đổi ngôn ngữ nói chung là không đáng kể. Sau Baron, từ giữa những năm 90, các nghiên cứu bắt đầu phát triển theo một chiều hướng mới. Crystal với “Language and the internet” đã làm rõ vai trò của ngôn ngữ đối với Internet cũng như những tác động của internet đối với ngôn ngữ. Crystal đề nghị nên coi ngôn ngữ mạng như một lĩnh vực riêng biệt, phân biệt giữa ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết và ngôn ngữ kí hiệu. Tác giả cũng khẳng định “chúng ta đang ở trên ranh giới của một cuộc cách mạng về ngôn ngữ lớn nhất từ trước đến nay” [6]. Bên cạnh xu hướng đó, các nhà ngôn ngữ học xã hội lại quan tâm đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ mạng với những đặc điểm xã hội của người sử dụng. Những nghiên cứu của Herring 2000; Rodino 1997; Savicki 1996 (Dẫn theo Crystal [7]) đã chỉ ra sự khác biệt giới và giai tầng trong sử dụng loại hình ngôn ngữ này.

     Ở Việt Nam, sự quan tâm đến ngôn ngữ mạng nói chung vẫn còn khá hạn chế, mặc dù đây là một hiện tượng ngôn ngữ được nhiều tầng lớp xã hội quan tâm. Giới ngôn ngữ và giáo dục học cũng bày tỏ quan ngại về ảnh hưởng không tích cực của nó đến sự trong sáng của tiếng Việt qua một số bài phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, chưa có một câu trả lời nào của giới nghiên cứu về thái độ của cộng đồng đối với hiện tượng này với những bằng chứng khoa học.

     2.3. Câu hỏi nghiên cứu

     Với tư cách là mạng xã hội của những người sử dụng internet, cộng đồng mạng là một cộng đồng lớn tập trung chủ yếu ở các khu vực thành thị và có xu hướng gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Cộng đồng mạng mà chúng tôi khảo sát là những người tiếp xúc trực tiếp với những sản phẩm ngôn ngữ mạng. Mục tiêu mà nghiên cứu đề ra là xem xét thái độ đối với ngôn ngữ mạng của cộng đồng mạng nói chung. Bên cạnh đó, dựa trên những chỉ báo về sự khác biệt thái độ giữa những người vừa tiếp nhận vừa sản sinh ngôn phẩm (được xem là thành viên) và những người chỉ tiếp nhận chứ không sản sinh ngôn phẩm (được xem là khách), cũng như những ảnh hưởng của đặc điểm xã hội đối với thái độ ngôn ngữ, nghiên cứu cố gắng đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau đây:

     (1) Thái độ của cộng đồng mạng nói chung đối với ngôn ngữ mạng như thế nào?

(2) Có hay không có sự khác biệt thái độ ngôn ngữ giữa khách và thành viên?

(3) Những đặc điểm xã hội của cộng đồng mạng có ảnh hưởng gì đến thái độ của họ?

3. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu

     Nghiên cứu chọn diễn đàn Kites.vn để lấy tư liệu vì đây là diễn đàn lớn về âm nhạc và điện ảnh với hơn 150.000 thành viên tham dự (tính đến tháng 3/ 2013) [1]. Nghiên cứu thực hiện trên 164 bảng hỏi trực tuyến (online survey) được gửi tới địa chỉ email, facebook hay trang cá nhân của các cộng tác viên (CTV). Bảng hỏi gồm hai phần: thông tin thân nhân và thông tin thái độ ngôn ngữ. Thông tin thân nhân cho biết những đặc trưng xã hội chủ yếu của CTV như giới, tuổi, học vấn, tần suất sử dụng internet và tư cách tham gia diễn đàn. Các đặc trưng này có thể tổng hợp qua bảng sau:

Bảng 1: Một số đặc trưng của mẫu

     Thông tin thái độ ngôn ngữ cho biết thái độ của CTV với một số hiện tượng biến đổi ngôn ngữ phổ biến trên diễn đàn. Có ba hiện tượng chủ yếu phản ánh những biến đổi của tiếng Việt trên mạng internet được đưa ra điều tra là:

     (1) Hiện tượng biến đổi ngữ âm kiểu (a) như: nhể (nhỉ), thik (thích), hồi trc (hồi trước), nhìu (nhiều), wá (quá),…

    (2) Hiện tượng trộn các mã ngôn ngữ khác vào các phát ngôn tiếng Việt như hiện tượng loại (b): oppa (anh trai), new (tin), tks (cảm ơn),…

    (3) Hiện tượng sử dụng tiếng lóng kiểu (c): chủ thớt (người khởi xướng), bó tay (không có khả năng),…

     Để trả lời các câu hỏi, các CTV được đọc 4 đoạn ngôn phẩm (tích hợp trong bảng hỏi). Đoạn thứ nhất sử dụng một số biến thể ngôn ngữ là kết quả của những biến đổi ngữ âm kiểu (1). Đoạn thứ hai là chính ngôn phẩm thứ nhất nhưng sử dụng các biến thể chuẩn của tiếng Việt, nghĩa là không có biến đổi ngữ âm. Đoạn thứ ba là một ngôn phẩm có chứa một vài đơn vị mã tiếng Anh trộn vào tiếng Việt kiểu (2). Đoạn thứ 4 là một ngôn phẩm có sử dụng một số đơn vị tiếng lóng của cộng đồng cư dân mạng kiểu (3).

     Các câu hỏi về thái độ ngôn ngữ được thiết kế trực tiếp trên thang vi phân ngữ nghĩa của Ch. Osgood và sử dụng cách tính như Lambert đã làm ở cộng đồng Anh ngữ Canada. Cách điều tra trên như sau: cho 164 CTV xem các đoạn văn bản trên, yêu cầu CTV trả lời các câu hỏi như”Cảm giác của bạn khi xem các sản phẩm ngôn ngữ này?” lên các thang ngữ nghĩa, chẳng hạn thang sau đây với hai cực là hai cảm giác gần gũi không gần gũi:

     Không gần gũi ….. ….. ….. ….. ….. ….. ….. Gần gũi

     1 2 3 4 5 6 7

     Theo thang này, cực bên trái ứng với cảm giác “không gần gũi” có giá trị là 1, cực bên phải ứng với cảm giác “gần gũi”, có giá trị là 7 (cảm giác “gần gũi” nhất). Giá trị cuối cùng thu được sẽ là giá trị trung bình của 164 CTV. Chẳng hạn, nếu 4,64 là giá trị đo được của thang này, so với thang 7 điểm (điểm gần gũi cao nhất), giá trị này là khá cao, kết luận là cách dùng mà CTV được thấy đã mang lại cảm giác khá gần gũi cho họ.

     Bên cạnh những giá trị biểu hiện thái độ theo cách tính trên, nghiên cứu còn áp dụng cách tính tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc điểm xã hội của người nói. Ngữ liệu điều tra được xử lí bằng phương pháp phân tích định lượng trên phần mềm SPSS 16.0 có kiểm tra mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê.

4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận

     4.1. Thái độ của cộng đồng mạng đối với các hiện tượng biến đổi ngôn ngữ

Bảng 2: Thái độ của cộng đồng mạng đối với các hiện tượng biến đổi ngôn ngữ

     (*) Thang 1: Không thích (1) – thích (7)

Thang 2: Khó hiểu (1) – dễ hiểu (7)

Thang 3: Không gần gũi (1) – gần gũi (7)

Thang 4: Không thú vị (1) – thú vị (7)

(**) 2,77 là giá trị trung bình cảm giác đo được của 164 CTV trên thang 7 điểm.

     1,907 là độ lệch chuẩn, nó cho biết độ tập trung hay phân tán của các ý kiến xung quanh giá trị trung bình. Độ lệch thấp thì các ý kiến có độ tập trung cao và ngược lại. Đặc biệt, độ lệch sẽ rất có ý nghĩa khi hai biến có giá trị trung bình như nhau.

     Những giá trị ở bảng 2 cho thấy, thái độ của cộng đồng mạng nói chung đối với những ngôn phẩm có biến đổi ngữ âm có xu hướng không tích cực. Các giá trị thu được đều dưới mức trung bình, khá gần với cảm giác cực đoan theo hướng tiêu cực. Hơn nữa, các ý kiến trên hai thang này có độ tập trung khá cao, 1,824 và 1,907 so với độ lệch chuẩn chung của tất cả các giá trị thì không lớn cho thấy các ý kiến tập trung chủ yếu ở nửa đầu của thang xung quanh giá trị trung bình. Ngược lại, thái độ đối với những ngôn phẩm không biến đổi ngữ âm lại có xu hướng tích cực hơn rõ rệt, ấn tượng nhất là thang 2 (khó hiểu – dễ hiểu) với giá trị 6,01 trên thang 7 điểm và độ lệch chuẩn ở mức thấp nhất (1,680). Nếu so sánh giá trị ở thang 2 này giữa hai hiện tượng ngược chiều nhau là biến đổi và không biến đổi ngữ âm thì thấy, cho dù cộng đồng mạng đã quen, thậm chí nhiều người là tác giả của những biến đổi nhưng họ vẫn biểu hiện thái độ không tích cực với sản phẩm sáng tạo của mình, trong khi họ dành sự ưa thích rất cao cho những ngôn phẩm chuẩn mực. Như vậy, cũng giống như thái độ của cộng đồng di dân Nghệ Tĩnh đối với những biến thể Hà Nội (Trịnh Cẩm Lan, 2007, [3]), thái độ tích cực có thể hướng con người tới hành vi sử dụng loại biến thể ngôn ngữ nào đó (thích nghi thuận), tuy nhiên, để nhấn mạnh bản sắc nhóm, người sử dụng ngôn ngữ đôi khi cũng có thể sử dụng những biến thể ngôn ngữ bị đánh dấu về mặt xã hội (thích nghi ngược) (Beebe, 1988; Gass & Varonis, 1991 và nhiều tác giả khác, dẫn theo Vũ Thị Thanh Hương [9]).

     Bên cạnh đó, loại ngôn phẩm có trộn mã ngôn ngữ và sử dụng tiếng lóng nhận được thái độ cũng khá tích cực của cộng đồng. Tuy nhiên, giữa hai loại ngôn phẩm này, loại có trộn mã nhận được thái độ tích cực hơn, độ tập trung của các ý kiến cũng cao hơn. Điều này có thể lí giải bằng yếu tố bản sắc nhóm của cộng đồng mạng. Đây là một cộng đồng có đặc tính nổi trội là tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, ít nhiều tiếp xúc với môi trường công nghệ cao và kĩ thuật hiện đại, có tỉ lệ biết ngoại ngữ khá cao, bởi vậy, trộn mã ngôn ngữ không khiến họ cảm thấy quá khó hiểu hoặc không gần gũi, mà ngược lại, những lợi thế đã được chứng minh của hành vi trộn mã/ chuyển mã có thể giúp họ có thêm những phương tiện giúp sự biểu đạt phong phú hơn, hiệu quả hơn và đôi khi tinh tế hơn. Tương tự, việc sử dụng tiếng lóng kiểu chủ thớt (người đại diện), bó tay (không có khả năng), đặt gạch (xếp hàng, chờ đợi),… cũng giúp họ làm phong phú thêm những phương tiện biểu đạt, đặc biệt là ở những phạm vi mới, những lĩnh vực mới có yếu tố bản sắc nhóm cao như giao tiếp qua internet mà cộng đồng mạng là trung tâm. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy, đây là những giá trị có độ lệch chuẩn cao hơn cả trong những giá trị thu được (từ 2,211 đến 2,259) nghĩa là các ý kiến có độ phân tán rất cao. Có thể, đây là những hiện tượng ngôn ngữ mới với sự nhìn nhận khá đa chiều của xã hội nói chung và cộng đồng mạng nói riêng cho nên ngay cả những chủ thể sử dụng chúng đôi khi cũng rơi vào những thái độ lưỡng cực.

     Nói tóm lại, trong ba hiện tượng biến đổi tiếng Việt trên internet hiện nay, trộn mã nhận được thái độ tích cực hơn cả, hiện tượng sử dụng tiếng lóng nhận thái độ kém tích cực hơn, các ý kiến cũng có độ phân tán cao hơn cho thấy đây là hiện tượng có những đánh giá trái ngược. Hiện tượng biến đổi ngữ âm chịu thái độ tiêu cực nhất và sự đánh giá này là khá thống nhất. Các ngôn phẩm có hình thức ngữ âm chuẩn mực vẫn được ưa thích hơn cả.

   Còn tiếp:

 Mời xem: THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ đối với NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI trong TIẾNG VIỆT trên MẠNG INTERNET HIỆN NAY (Trường hợp diễn đàn giải trí Kites.vn) – Phần 2