Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1B)

Tác giả bài viết: ĐỖ NGỌC GIAO

     8. Xã Định đi kiện dưới âm phủ

     (Le procès du Xã Định aux enfers)

     Ở tỉnh Bình Thuận có ông xã trưởng tên Định. Bữa nọ ổng nhận lịnh về gặp cấp trên gấp. Dọc đường lộ có cái miếu thờ bà kia linh lắm [a]. Ai đi ngang, làm quan gì không biết, đi kiệu hoặc cỡi ngựa, cũng phải dừng lại, bước xuống bỏ dù ra chào, không thôi bả vật chết. Xã Định cỡi ngựa lên đường. Gần tới chỗ đó, ổng khấn: ‘Tui có lịnh về gấp, sợ trễ, phải đi ngựa, trời tối thui rồi, đàng kia còn con cọp, xin bà làm ơn cho tui qua luôn, xong việc về nhà tui cúng tạ ơn.’

     Miệng khấn, chưn đạp ngựa vọt tới. Qua miếu, ổng hộc máu liền, nhưng vẫn ráng chạy đi. Xong công chuyện, về ngang miếu, ổng khấn bà kia cho ổng khỏe lại, ổng cúng một con heo. Nhưng rồi thấy không khỏe mà còn yếu hơn, ổng nổi hung, nói: ‘Cái bà vô đạo! Bà có giỏi giết tui đi, xuống âm phủ tui kiện cho bà coi.’ Tới khi hết ăn uống nổi, biết sắp chết, ổng kêu vợ con dặn: ‘Chừng tui chết rồi, nhớ cúng cho tui một trăm tờ giấy bự, mười cây viết với năm cục mực tàu [b]. Xuống tới dưới tui viết đơn kiện con mụ này, để coi ai hơn ai.’

     Ta không rõ xã Định làm gì ở dưới để kiện, nhưng ba tháng sau khi ổng chết, bà kia nhập đồng nói làng dỡ miếu đi, chớ đừng thờ bả nữa. Họ hỏi sao vậy, bả nói: ‘Thằng cha xã Định chết đâm đơn kiện tui, làm tui không được phép coi làng này nữa. Nên tui mới nói làng đừng cúng gì cho tui hết, có cúng thì cô hồn ăn mà thôi; tui giờ phải theo kiện chớ không rảnh.’

     Vậy chớ dân làng chưa dám dỡ miếu, mà mấy tháng sau đó tới lễ kỳ yên [c], họ cúng cho bả một con heo như trước. Xã Định liền nhập đồng nói dân làng: ‘Tui đã kiện con mụ này rồi; mụ không có quyền ở miếu này nữa. Làng đừng cúng gì cho mụ nghen. Không tin, làng gọi Ông Địa lên, rồi ổng nói cho nghe.’ Họ kiếm đồng gọi Ông Địa [d]. Ông này nhập đồng, biểu xã Định nói trúng. Làng bèn dỡ miếu, từ đó người đi ngang không phải bước xuống bỏ dù ra chào nữa.

___________
     a. Người An Nam thờ thần của ‘ngũ hành’ gọi bằng ‘bà’; mà hay thờ nhứt là ‘bà thủy’ và ‘bà hỏa’. Thường thì người ta lập miếu thờ chung mấy bà đó, gọi là ‘ngũ hành nương nương’ hoặc ‘ngũ hành chi vị’. Quan thì cúng mỗi năm một lần, còn dân muốn cầu cúng lúc nào cũng được. Tất nhiên còn nhiều bà nữa. Thí dụ bà Cố Hỷ ở Bình Thuận. Bà này ở trong một cái động bên đường lộ từ Bà Rịa ngang Bình Thuận ra Huế. Người đi đường phải tôn kính bả như chuyện đã kể. Ai mặc đồ tốt mà đi ngang không chào bả, hoặc vô làng nói hỗn với bả, là bị phạt liền.

     b. Đồ cúng cho người chết thường là đốt, hoặc bỏ chung vô hòm; ở đây hẳn là bỏ vô hòm.

     c. Lễ cầu cho quốc thới dân an, mỗi năm một lần, bắt đầu từ buổi chiều ngày thứ nhứt tới hết ngày thứ ba.

     d. Ông Địa biết rành chuyện gì xảy ra ở vùng đất của ổng trấn nhậm.

     1.3. Người chết tái sanh

     9. Chuyện hai ông trạng

     (Histoire de deux laureats)

     Đời vua Hồng Đức, trào Lê, ở trạm Thần Đầu, huyện Kỳ Anh, tỉnh Nghệ An, có hai anh em nhà họ Nguyễn. Nhà nghèo, cha mẹ vô rừng chặt củi bán mỗi ngày chưa được ba tiền cho con đi học. Bởi vậy, bị làng rẻ rúng, hở ra là bắt phạt.

     Hai anh em lớn lên, đi thi cùng khóa, cùng đậu trạng nguyên. Nhà vua hài lòng, cho vinh quy về làng. Có kỵ binh và tượng binh hộ tống, dọc đường người ra đón theo đưa. Tới làng, hết thảy những kẻ lúc trước coi khinh nhà họ nay đều túa ra rước; quan phủ/huyện về làm lễ đón linh đình; tiệc tùng rần rần ba bốn ngày.

     Đâu đó xong xuôi, bà mẹ hai ông nghè ngồi một mình thơ thẩn nói:

Xưa nhà ta nghèo, chẳng ai dòm tới; cả ngày vô rừng chặt củi bán mới có cái ăn, không thì chết đói, đêm bị bắt ra điếm canh, không thì chết đòn; khổ nhục biết chừng nào. Nay con ta thi đậu, họ kéo tới lạy. Người đời thiệt là đáng giận. Đã vậy, ta phải bảo con, ai không hại ta thì ta bỏ qua, ai đã hại ta thì ta hại lại. Cho chúng chết, mới hả.’

     Ta nên biết rằng hai ông nghè này là hai vị thần được Trời cho đầu thai vô nhà này, vì họ có đức. Song le, ngay khi bà mẹ thốt ra mấy lời đó, cái đức của họ đã bị xóa sạch. Một vị ‘du thần’ lướt qua nghe bà mẹ nói vậy thì về báo lại Trời. Trời cho gọi hai vị kia về. Hai ông nghè chết. Trước khi họ chết, du thần báo mộng cho bà mẹ biết vì sao mà như vậy. Sau người ta xây đền thờ hai ông nghè ở trạm Thần Đầu, và họ thành thần.

     10. Chuyện chú Nghị

     (Histoire de Nghị)

     Ở chợ Cày, làng Trường Lưu, tỉnh Hà Tịnh [a], có tên Nghị gác chợ. Sau khi chết, hắn thành tinh, dân làng dựng miếu thờ, mỗi năm cúng hai lần. Quên cúng là khó yên với hắn. Miếu kế bên đường, chị nào đi ngang cũng phải kéo quần xuống, không thôi hắn chẳng cho qua. Ai ra chợ bán hàng cũng vậy, không thôi khó bán. Đinh Nhựt Thận [b] ra xứ Bắc làm quan, đi ngang đó nghe dân làng kể chuyện. Ổng biểu con tinh: ‘Ta đang ra Bắc, nếu mi giúp, ta sẽ phong cho mi chức Đại tướng quân, chú Nghị, coi chợ.’ Được chức [c], chú Nghị càng ngày càng lung: hiện vô nhà người ta, cưỡng dâm đàn bà. Khi vua Thiệu Trị [d] ra Hà Nội nhận sắc phong, có đi ngang miếu, hỏi thờ ai đó. Dân làng thưa chuyện chú Nghị phá phách, nhà vua truyền lịnh đốt miếu ra tro. Từ đó, làng mới yên.

___________
     a. Tức là Hà Tĩnh.

     b. Đinh Nhựt Thận (1815–1866), danh sỹ Nghệ An.

     c. Người kể chuyện [cho Landes] không nói chú Nghị đã giúp việc gì.

     d. 1840–1847.

     11. Chuyện Lý Khắc Cần

     (Histoire de Lý Khắc Cần)

     Cuối hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An là một rặng núi kêu bằng Đại Ngàn, tới đó phải qua hai cái đàng dốc kêu bằng Truông Mây và Truông Bát [a]. Phía sau núi là xứ ‘vạn tượng’ [b], phía trước núi còn hoang vu. Tiều phu vô núi đốn cây, đi từng nhóm chừng năm chục người, tới cửa rừng thì cúng.

     Hồi trào Lê, có ông quan tên Lý Khắc Cần dắt lính vô đó đốn cây. Bữa nọ khi lính đang làm, ổng mắc võng dưới cây nằm; một anh nói: ‘Ở đây có cọp à quan.’ Ổng nói: ‘Ta nằm đâu thì nằm, bây lo làm đi.’ [c] Lính vừa đi, một con cọp ló ra nhảy tới chụp ổng; giằng co một hồi, ổng bị nó giết chết tươi, banh xác nhưng chẳng ăn thứ gì. Nó nằm mọp trên xác, chờ lính quay lại. Lính trong rừng trở ra, thấy chủ chết, lượm xác, cử hai anh về báo quan tỉnh. Họ tới điều tra, hiểu ra duyên cớ, cho khiêng xác về chôn. Nhưng cọp và voi trong rừng rần rần túa ra, tới chỗ đám người, cọp thì vây quanh, voi thì chặn đường. Họ phải báo tin xin thêm quân lính tới đuổi bầy thú mới đem được xác Lý Khắc Cần về, chôn gần tỉnh lỵ.

     Ba đêm sau, cọp trong rừng kéo về, đào hòm lên, tha tới truông, chôn ở đó. Người nhà ra thăm mộ, thấy trống trơn, hỏi hàng xóm mới biết. Họ kéo tới truông, tìm thấy hòm. Bèn báo quan tỉnh, quan ra lịnh để yên đó, cảm thấy rằng cọp chôn người là điềm may cho nhà họ.

     Từ đó, Lý Khắc Cần hiển linh, dòng giõi của ổng làm tới chức quan cao nhứt trong trào, còn ai vô rừng đốn cây thì cúng ổng để cầu an. Họ cất một cái miếu kế truông, đầu năm tới đó làm lễ. Lý Khắc Cần có hiệu là Thần Giữ Rừng, nhưng dân gian gọi là Ông Già Nằm Võng.

___________
     a. Truông Mây cao như mây, Truông Bát có lúa hoang tới tháng tám thì chín (‘tám’ là ‘bát’ trong tiếng Tàu).

     b. xứ Lào.

     c. Nguyên văn: ‘Ta mắc tội nơi nào thì bị phạt nơi đó, và ta cho cọp [ăn] thứ gì thì nó [ăn] thứ đó mà thôi.

     12. Chuyện Ngô Bát Ngạo

     (Histoire de Ngô Bát Ngạo)

     Ngô Bát Ngạo ở huyện Bình Chánh [a], tỉnh Quảng Bình, là người gốc Tàu. Khi còn sống, hắn coi huyện đó. Hắn từng chống lại vua Lê [b]. Sau khi hắn chết, dân cả huyện vẫn khổ vì hắn. Muốn cất nhà, họ phải nhờ bà đồng xin phép; hắn sẽ bắt họ trả tiền mướn đất hàng năm và đo đất cho họ. Nếu họ muốn mua, hắn cũng bán. Họ phải mổ heo mua rượu mời hắn về hưởng, rồi hắn ký giấy nhượng đất. Có vậy người ta mới yên; nhà nào làm lơ, hắn cho họ mắc bịnh và heo bò chết hết. Thỉnh thoảng hắn hiện vô nhà một người giàu, nói hắn mới thua bài, bắt họ phải mua miếng đất này nọ của hắn và kiếm tiền trả hắn [c]. Ai không chịu, hắn trước làm chết trâu bò, sau khiến người nhà ốm o. Dân huyện mỗi năm cúng cho hắn hai lần, mỗi lần hai ba con heo.

     Ngày nọ quan tổng đốc Giai ở Hà Nội [d], cũng là người huyện Bình Chánh, về quê thăm nhà. Dân tới gặp, than nỗi khổ bị Ngô Bát Ngạo bắt phải mướn hoặc mua chỗ đất mà họ đang trồng cấy. Quan cho kiếm một bà đồng nhờ kêu Ngạo về đối chất. Quan hỏi vì sao hắn hành dân như vậy. Ngạo đáp:

Khi vua Lê Thái Tổ dựng nước, chính tôi đã khai khẩn đất huyện này và lập làng. Tôi sống, nhà vua cho coi vùng này; tôi chết, nó vẫn là của tôi; bởi vậy tôi cóquyền bán hoặc cho mướn đất.

     Quan nói:

Ta chấp nhận mỗi năm dân huyện cúng cho mi một con heo và đồ vàng bạc, nhưng mi không được hành dân và giết heo bò của dân. Nếu chịu, thì mi ký tên thỏa thuận với các làng.’

     Ngạo chịu. Từ đó, ngày đầu năm, dân huyện này làm lễ cúng gọi là Lễ Mướn Đất.

___________
     a. Nay là Quảng Trạch.

     b. Người kể chuyện [cho Landes] không nói rõ vua nào, nhưng câu chuyện sau đó cho thấy vai chánh ở cùng thời với vua Lê Thái Tổ [lên ngôi năm 1428]. Hắn sống tới đời vua thứ ba là Lê Nhân Tông (1442–1459), chống lại vua này và có lẽ vì vậy mà chết.

     c. Không phải tiền thật mà là hàng mã dùng để đốt cúng. Người dân khổ không phải vì chuyện này, mà vì hao tiền mua đồ cúng và trả công bà đồng.

     d. Dường như là Nguyễn Đăng Giai (?–1854); hình của nhơn vật này có treo trong một ngôi đền ở Hà Nội do ổng dựng nên, theo Trương Vĩnh Ký cho biết trong Chuyến đi Bắc Kỳ.

     13. Chuyện cô công chúa trào Lê

     (Histoire d’une princesse de la dynastie Le)

     Vua Thánh Tông [a] trào Lê [b], hiệu là Hồng Đức, có con gái tên Mai Châu. Năm cổ lên mười ba, người Mọi ở Ngũ Quảng [c] nổi dậy, và Ngô Bát Ngạo [d], tự xưng là dòng giõi nhà Minh bên Tàu [e], cũng hùa theo. Trong trào không tướng nào dẹp nổi bọn hắn. Công chúa xin cha đem quân đi đánh. Nhà vua cho mười chiến hạm với năm vạn quân. Hạm đội thả neo gần cù lao An, ven biển Quảng Bình. Tới nửa đêm, bão lên dữ dội, người ta cho rằng đó là một ông thần nước [f] muốn lấy công chúa nên tính làm đắm hạm đội. Công chúa nghĩ rằng nếu cổ không nhảy xuống biển thì đoàn quân tan tành, nên đành chịu vậy và ra lịnh cho quân trở về báo vua cha biết.

      Nhà vua nổi giận, tới đó lấy gương phép [g] rọi xuống đáy biển, nhận ra chỗ có dinh thần nước, ra lịnh bắn cà-nông xuống. Sau ba ngày ba đêm, dinh tanh bành, thần kia trả xác công chúa trên mặt một cái phá kêu bằng Ao Bạch.

     Từ đó, công chúa hiển linh, làm vài việc lạ. Dưới trào Minh Mạng [h] có Ba Vành nổi dậy [i], không tướng nào dẹp nổi. Công chúa báo mộng cho nhà vua rằng ngày 18 tháng 3 lúc canh hai, hễ thấy ngọn lửa màu xanh trên trại giặc thì đốc quân vô đánh. Nhà vua làm theo, đánh tan giặc. Ngài phong cho công chúa làm thượng đẳng thần với mỹ tự ‘quyền năng, đáng kính’.

___________
     a. 1460 – 1498.

     b. Hậu Lê, 1428–1789, vua đời chót là Lê Chiêu Thống sang tỵ nạn bên Tàu.

     c. Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi.

     d. Coi lại chuyện Ngô Bát Ngạo bên trên.

    e. Đời vua Thánh Tông cùng thời với đời vua thứ 10 nhà Minh bên Tàu là Hiến Tông (1465 – 1488).

     f. Ta sẽ còn gặp nhiều chuyện xung quanh chủ đề ‘ma nước’. Cô nào bị nó ám sẽ ốm o gầy mòn, kêu bằng bịnh ‘mắc đàng dưới’. Trừ nó như vầy: thầy pháp trục con ma rakhỏi người bịnh cho nó nhập vô đồng; lấy một chén nước, một tiền kẽm, một đôi đũa; bỏ tiền vô chén nước, đưa cho đồng uống, chừa lại tiền; bẻ tiền và đôi đũa làm hai, một nửa đưa người bịnh giữ, một nửa quăng xuống sông, làm như vợ chồng bỏ nhau và chia đôi của cải vậy.

     g. Gương phép rọi đâu cũng thấy: trên trời, dưới đất, dưới vực. Trong truyện thơ Bạch Viên, vai chánh nhờ gương phép mà nhận ra vợ mình chẳng phải là người phàm.

     h. 1820 – 1844.

     i. Ba Vành nổi dậy ở Bắc Kỳ dưới trào Minh Mạng, chiếm Cao Bằng mấy năm rồi đánh Hà Nội, bị viên tướng thái giám [ý nói Lê Văn Duyệt] đánh bại [năm 1827]. Người khác kể rằng viên tướng này được công chúa báo mộng chớ không phải nhà vua. [Song le, theo những tài liệu khác, thì Nguyễn Công Trứ mới là người đánh dẹp Ba Vành.]

     14. Bà Doan

     (La dame Doan)

      Hồi quân Tây Sơn chưa ra Bắc, đô đốc Khuê [a] coi tỉnh Nghệ An. Ổng có bà hầu [b] tên Doan [c], đẹp cả người lẫn nết, nên được ổng tin cậy giao hết việc nhà. Đô đốc thì ai muốn gặp lúc nào cũng được; nhưng ổng cấm mọi người khi ổng đang ngủ giữa trưa thì không được đánh thức dù bất cứ chuyện gì, kể cả vợ và mấy bà hầu cũng không được vén tấm màn che cái buồng mà ổng nằm ngủ.

      Ngày nọ, giữa ngọ, khi đô đốc ngủ trong buồng, ở chợ Vinh bỗng có đám cháy lớn; ổng chưa dậy nhưng chẳng ai dám vô cho ổng hay mà cũng chẳng dám đánh trống gọi lính khi chưa có lịnh của ổng. Ai nấy lăng xăng, bối rối. Thấy nguy tới nơi, họ đành kiếm bà Doan, nói bả mới dám đánh thức đô đốc mà ổng không la, và họ còn hứa nếu ổng bắt tội thì sẽ nhận hết. Bả xiêu lòng, đi vén tấm màn lên chưa mở miệng nói gì thì thấy một con ‘thì luồng’ [d] nằm chình ình trên giường với ba cái đầu gác trên gối. Bả hết hồn chưa kịp quay ra thì con quái chồm mình đứng lên cầm gươm chém bả một nhát đứt phăng cái đầu.

     Đô đốc thức dậy, hỏi ai giết vợ ổng. Người nhà kể chuyện, ổng khóc thảm thiết rồi cho chôn vợ. Hai ba tháng sau, bà này về phá, kêu làng dựng cho bả một cái miếu. Dân làng e sợ, xây miếu thì êm, từ đó bả giúp làng nhiều việc.

     Năm vua Tự Đức thứ nhứt [e], có tên biện Nghiện phạm tội nặng bị nhốt trong ngục ở tỉnh lỵ. Lính canh kỹ nhưng hắn trốn thoát. Lính hốt hoảng tìm kiếm khắp nơi không thấy. Viên đội đành tới miếu bà Doan, vái một ngàn cái, hứa rằng nếu bả giúp bắt được tên tù đang trốn thì họ sẽ cúng một buổi hát chèo. Ngay khi viên đội khấn xong, bả nhập vô một thằng nhỏ, cho biết tên Nghiện đã đưa vợ con trốn đi. Bả còn nói, hắn đã tới bến đò Bùng, nhưng bả sẽ giữ hắn trong cái quán trọ ở bên phải sau khi qua đò; nếu cho bốn năm người cưỡi ngựa đi liền tới đó trước tối thì tìm ra hắn. Viên đội làm theo và bắt được tên tù. Họ cúng cho bả như đã hứa, sau đó người ta đồn rộn rực chuyện bà Doan hiển linh.

     Vợ quan phủ bị mất mười sáu lạng vàng. Kiếm hoài chẳng ra, đành tới miếu bà Doan vái. Tức thì bả nhập đồng, nói: ‘Vàng đã bị con sen lấy giấu nơi máng xối ở mái hiên phía tây. Về liền thì thấy, nếu trễ nó đem giấu chỗ khác.’ Vợ quan phủ về nhà, tìm thấy vàng ngay chỗ đã chỉ. Bèn cúng cho bà Doan một con heo.

     Ở làng Âm Công có hai cô kia, cô thứ nhứt cho cô thứ hai mượn bốn tiền, kêu cô này trả thì cổ nói trả rồi. Cô thứ nhứt nói: ‘Chị trả hồi nào, nếu tui đã nhận thì tui làm gì mà bây giờ chẳng còn?’ Có nhiêu đó hai cô vừa đi vừa nói qua nói lại. Đi ngang miếu bà Doan, cô thứ nhứt lên tiếng thề: ‘Ai muốn giựt bốn tiền thì bà Doan cho hộc máu tại chỗ.’ Vừa nói xong, bốn quan tiền rơi trước cổng miếu và cô này bắt đầu hộc máu.

     Dân làng kéo tới, vái: ‘Bốn tiền không đáng, cô này lỡ dại, xin bà tha cho.’ Bà Doan nhập vô một người, nói: ‘Đứa này đã nhận lại tiền, rồi bị kẻ cắp lấy mất, bây giờ đổ cho đứa kia chưa trả. Sao còn dám tới chỗ của tui mà thề bồi như rứa?’ Dân làng vái sâu, một hồi cô kia tỉnh lại, nghe người ta kể chuyện, bèn đi mua đồ đem tới miếu cúng.

___________
     a. Dường như là Nguyễn Khuê, Tham tri Chánh sự thời vua Lê Chiêu Thống (1765 – 1793), theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 5.

     b. Có câu ca dao:

Mẹ ôi quan Chánh đòi hầu

Mua chanh mà gội cái đầu cho trơn.

     c. Không rõ là Doan hay Đoan.

     d. Hẳn là ‘thuồng luồng’, một con vật huyền hoặc hình rắn có ba đầu chín đuôi, đôi khi nó mang dạng một con lươn; nhưng nó khác lươn ở chỗ lúc nào cũng ngóc đầu lên. Còn nếu cho vô nồi nấu, nó sẽ tan mất, không còn lại cái gì trong nồi.

     d. Năm 1847.

     15. Công chúa Ngọc

     (La princesse Ngọc)

      Ở làng Chu Mai, nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng Nam với Huế, là núi Ải Vân [a] trên đó có miếu thờ công chúa Ngọc [b].

     Công chúa này dòng giõi nhà Lý. Khi trào Lý mất, cổ vô Trấn Ninh, vùng núi kề bên Quảng Nam, để lánh nạn, ở trà trộn với dân quê, lấy chồng là một người Tàu làm chủ ghe, được hai con. Ông này tên Lân, sau bỏ về Tàu, để lại vợ con ở làng Chu Mai, chờ ổng quay lại mà mãi chẳng thấy. Tuyệt vọng, cổ ôm hai đứa con tự tận, và cả ba thành tinh.

     Suốt đêm, họ hiện ra thành ba ngọn đèn đỏ sáng ngời. Người đi biển tới đó neo ghe, làm lễ cúng họ, cầu buôn may bán đắt. Nếu trời bão, mà không thấy đường vô bến, liền có hai đám lửa nổi lên ngoài biển chiếu cho ai nấy đều thấy. Bởi vậy, dân vùng này hùn lại dựng một cái miếu thờ ba mẹ con họ.

     Thời vua Minh Mạng, có một chiếc tàu chiến không dè mắc bão, bị kẹt ba ngày ba đêm trên biển, không cách nào vô được bến. Rồi có hai ngọn đèn hiện ra, chiếu trước mũi tàu dắt đường. Một hồi, tàu thoát khỏi bão, cập bến. Nhà vua ra sắc phong thần cho công chúa Ngọc [c]. [d].

___________
     a. Tức là Hải Vân.

     b. Dường như là đền Bảo Ngọc Tiên Nương, ở phía nam quan ải Hải Vân quan và phía tây đường Quán Cháo, thuộc huyện Hòa Vang, theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 7.

     c. Landes dịch sang tiếng Pháp là ‘Dame puissante’.

     d. Ở cố đô Huế, làng Dinh Thị, có miễu bà chúa Ngọc,4 chẳng rõ đó có phải là công chúa Ngọc trong chuyện này hay chăng?

     16. Chuyện Thủ Huồn

     (Histoire de Thủ Huồn)

      Ở tỉnh Gia Định có ông thơ lại kêu là Thủ Huồn [a], làm giàu bằng cách bất lương. Vợ mất, ổng nghỉ làm, thấy buồn vì không có con nên muốn ra Bắc Kỳ xài tiền một chuyến. Ổng ra Quảng Yên, tới chợ Mạnh Ma, nơi mà kẻ sống người chết gặp nhau buôn bán, thì tình cờ gặp lại bà vợ dưới âm phủ lên. Hai người mừng rỡ; nói chuyện:

‘Lâu nay ở dưới bà làm cái giống gì?’

‘Tui làm vú cho thằng con ông Diêm vương, khỏe lắm.’

‘Mình ở với nhau chừng đó năm mà bà bỏ đi làm tui rầu muốn chết. Giờ gặp bà, coi dắt tui xuống đó cho biết một chút được hôn?’

‘Thì đi, nhưng ông không ở được lâu đâu, ba bốn ngày phải về.’

     Hai vợ chồng xuống âm phủ, bả giấu ổng trong nhà bếp, nhưng ổng muốn đi coi mấy nơi mà người trần bị xử tội sau khi chết. Bả dắt ổng tới một nơi ở đó có cái gông bự tổ chảng. Ổng biểu vợ dắt đi gặp phán quan hỏi cái gông đó sao chưa xài. Quan nói:

‘Để dành cho Thủ Huồn.’

‘Thủ Huồn làm gì mà bị xử?’

‘Y làm bậy lắm. Hồi mần thơ lại thì cho tội sống làm ra chết, tội phải làm ra quấy, đặng kiếm cớ ăn tiền của người ta. Rồi lấy tiền đó cho vay ăn lời gộp cao hơn vốn không biết bao nhiêu lần.’

‘Vợ của Thủ Huồn có bị xử theo chồng hay không?’

‘Không, ai làm nấy chịu.’

‘Rồi sao mới hết tội?’

‘Lấy hết số tiền kia đem cúng dường bố thí, vậy thôi.’

     Thủ Huồn biểu vợ lẹ lẹ dắt mình về chợ Mạnh Ma rồi từ đó ổng dông thằng về Gia Định. Ổng cúng dường bố thí cho tới ba năm sau thì vơi bảy phần mười gia sản. Ổng trở ra chợ Mạnh Ma chờ gặp vợ dắt xuống âm phủ coi cái gông lần nữa. Vợ dắt xuống, ổng thấy cái gông đã nhỏ bớt chín phần mười. Mừng hết lớn, ổng kiếm phán quan hỏi sao cái gông lúc trước bự mà giờ nhỏ xíu. Quan nói:

Thủ Huồn cúng dường bố thí chừng nào thì tội bớt đi chừng nấy, và cái gông nhỏ đi chừng nấy. Cúng hết tiền thì tội xóa sạch.’

     Thủ Huồn trở về trần, cất một cái nhà bằng bè tre nơi sông Đồng Nai gặp sông Sài Gòn, mà bây giờ còn kêu là Nhà Bè, ở đó ổng bố thí tiền, gạo, đồ ăn, nồi niêu, tới khi sạch nhách. Ổng còn xây một cái chùa ở Biên Hòa gọi là ‘chùa Thủ Huồn’.

     Sau ổng nằm mơ thấy một người kia nói rằng nhờ ổng làm nhiều công đức nên tội lỗi khi xưa đã bị xóa sạch mà sắp tới còn có chuyện mừng. Chẳng rõ giấc mơ đó là sao, nhưng tới thời vua Đạo Quang bên Tàu [b], vua xứ An Nam nhận được thơ hỏi có người nào tên Thủ Huồn ở đất Gia Định hay chăng. Vua xứ An Nam nói có, và muốn biết vì sao hỏi vậy. Họ cho hay vua Đạo Quang khi mới sanh ra trong lòng bàn tay có ghi mấy chữ màu son như vầy: Thủ Huồn, ở Gia Định, nước Nam. Bởi vậy người ta biết Thủ Huồn đã tái sanh làm vua Đạo Quang, ông này sau cúng cho chùa Thủ Huồn ở Biên Hòa ba tượng Phật bằng vàng.

____________
     a. Landes cắt nghĩa ‘thủ’ là thơ ký ở huyện/phủ; song le, theo một tài liệu khác, ‘thủ’ là người coi trạm canh gác việc đi lại dưới sông hoặc trên bộ.5

     b. Vua trào Thanh bên Tàu (1821 – 1851).

     17. Chuyện bà Hiếu

     (Histoire de la dame Hiếu)

     Ở làng Linh Chiểu Đông, quận Thủ Đức, có một bà nhà giàu nhưng hiếm con tên là Hiếu. Không người nối dõi, bả cúng tiền cất chùa Huê Nghiêm và còn hiến đất chôn cất người chết. Khi mất, bả đầu thai qua Tàu. Đứa con của vua Tàu mới sanh, lòng bàn tay nó có ghi mấy chữ màu son như vầy: Bà Hiếu, làng Linh Chiểu Đông, tỉnh Gia Định, nước Nam. Vua Tàu cho tìm hiểu sự việc, gởi tặng phẩm biếu chùa Huê Nghiêm, xin bài vị của người lập chùa, nhưng làng không chịu và gửi cho họ bổn sao mà thôi. [a]

___________
     a. Theo một tài liệu khác,6 đây là bà Nguyễn thị Hiên (1763 – 1821), người đã hiến đất và tiền để trùng tu chùa Huê Nghiêm [đã có từ năm 1721]. Bà cũng là người xuất gia tu ở chùa này với pháp danh Liễu Đạo, nay còn bài vị và hình vẽ ở chùa.

     18. Chết rồi trả thù

     (Vengeance posthume)

     Xưa ở Phước Kiến có gã họ Trần, làm ngư phủ, giàu mà hiếm con. Hắn ác lắm, xả thuốc độc xuống sông cho tôm cá chết đặng bắt. Nhà hắn gần nơi hai con sông giao nhau, ở đó có một con lươn bự sầm bành. Hắn tính bắt con đó ăn cho đã. Lối xóm can riết, hắn mới thôi, nhưng một hai năm sau hắn quyết đi bắt lươn và pha thuốc.

     Trong nhà sắp bước ra, hắn thấy một ông sãi tới hỏi đi đâu. Hắn nói ra sông bắt lươn. Ông sãi ráng sức khuyên hắn đừng làm vậy, nhưng thấy hắn không thèm nghe, bèn nói: ‘Con lươn đó chẳng hại ai, nếu ông nhứt định không cho nó sống thì thôi, bần đạo xin ông chút đồ chay rồi cáo biệt.’ Hắn vô nhà lấy cho ông sãi. Ổng đi thì hắn cũng đi ra sông xả thuốc độc xuống. Một hồi, con lươn chết nổi trên mặt nước, hắn đem về nhà làm thịt. Mổ bụng nó, hắn thấy ở trỏng rặt là đồ chay, mới đoán rằng ông sãi hồi nãy là con lươn này biến ra không chừng.

     Hắn ăn thịt lươn, sau vợ hắn có bầu, đẻ đứa con trai, cưng còn hơn vàng ngọc, muốn gì chiều nấy. Lớn lên hắn tính dựng vợ cho nó thì nó chơi bời nhậu nhẹt hoang đàng.

     Tới khi nó xài không còn một xu trong nhà, vợ chồng hắn chết hết một lượt. Thằng con nói: ‘Hại nhơn thì nhơn hại,’ rồi biến đâu mất, để ba má nó cho lối xóm chôn. Thằng con này hẳn là con lươn đầu thai để trả mối thù gã họ Trần đã giết nó. [a]

____________
     a. Đây là chuyện của người Tàu, nhưng cũng ghi lại để cắt nghĩa những cái ý nghe khó
hiểu thí dụ ‘hại nhơn thì nhơn hại.’

08-Nov-2021

___________
     1. https://www.irfa.paris/fr/notices/notices-biographiques/genibrel

     2. Truyện cổ nước Nam, ed Nguyễn văn Ngọc (1932) .

     3. Contes et légendes Annamites, ed Anthony Landes (1886).

     4. A. Sallet và Nguyễn Ðình Hoè. Liệt kê các chùa chiền và nơi thờ cúng tại Huế, trans Lê Văn Ðặng (1914),
http://www.jaist.ac.jp/~dnthao/index_files/@Books/GioiThieuChuaHue.pdf

     5. Võ Trung Kiên, Giai thoại về Thủ Huồng và câu chuyện về lòng nhân ái, báo Đồng Nai, 20-Mar-2020,
http://www.baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202003/giai-thoai-ve-thu-huong-va-cau-chuyen-ve-longnhan-ai-2994147/

     6. Thích Pháp Trí, Người hiến đất xây chùa Huê Nghiêm (Thủ Đức), nguyệt san Giác Ngộ, 03-Dec-2019,
https://giacngo.vn/nguoi-hien-dat-xay-chua-hue-nghiem-thu-duc-post49673.html

Nguồn: Tác giả cung cấp bài viết cho thanhdiavietnamhoc.com, 09/11/2021

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1) (Tác giả: Đỗ Ngọc Giao)

__________
ĐỖ NGỌC GIAO, tác giả sinh sống tại Việt Nam(trước năm 1975), làm việc tại Nhà máy Đường (sugar) Việt Nam, Nhật Bản, nay đã về hưu, ham thích nghiên cứu và có viết một số bài chuyên khảo như Bách Việt, Austro Asiatic, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, … Bài viết chuyên khảo “Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1B)” do tác giả viết (ngày 9/11/2021) và gửi trực tiếp cho Ban Tu Thư – Viện Nghiên cứu Việt Nam học để đăng tải trên các trang web-Hybric do PGS.TS. Sử học Nguyễn Mạnh Hùng sáng lập.

 Các bài viết khác của tác giả (Đỗ Ngọc Giao):

1. Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 1)

2. Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 2)

3. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1A)

4. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1B)

5. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 2A)

6. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 2B)

7. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3A)

8. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3B)

9. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3C)

10. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 4)

11. Phân tách chuyện Tấm Cám theo lý thuyết của Prop (A Proppian analysis of Tam Cam)

12. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần chót)

13. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 1)

14. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 2)

15. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 3)