ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC qua TRUYỆN kể THẠCH SANH LÝ THÔNG (người KINH) và CHAU SANH CHAU THÔNG (người KHMER) – Phần 1

CHARACTERISTICS OF NATIONAL CULTURE THROUGH
THE STORY OF THACH SANH LY THONG (KINH)
AND CHAU SANH CHAU THONG (KHMER)

LÊ THỊ DIỄM PHÚC
(Thạc sĩ, Đại học Trà Vinh)

1. Đặt vấn đề

     Với những đặc điểm đặc trưng thể loại của mình, văn học dân gian có vai trò phản ánh văn hóa tộc người một cách rõ nét. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính “Văn học dân gian là thành tố của văn hóa, có nhiều lợi thế trong việc phản ánh sâu sắc bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện cách cảm, lối nghĩ của dân tộc” (Nguyễn Xuân Kính (2003): 94). Vì thế, khi tìm hiểu về văn hóa của các dân tộc thì việc nghiên cứu văn học dân gian là điều không thể bỏ qua.

     Người Kinh và người Khmer là các dân tộc anh em cùng cộng cư trên một lãnh thổ. Trải qua quá trình phát triển trong mạch nguồn văn hóa Việt Nam, mỗi dân tộc đều có cho mình một nền văn hóa với nhiều nét riêng không hòa lẫn. Trong đó, văn học dân gian mà cụ thể là truyện cổ chính là một ví dụ điển hình. Chúng ta có thể thấy, giữa truyện cổ Việt Nam và truyện cổ Khmer tồn tại nhiều câu chuyện có cốt truyện tương tự nhau. Tuy nhiên chính từ những câu chuyện ấy ta mới thấy được nét riêng trong văn hóa của mỗi dân tộc qua cách sử dụng các hình ảnh, các tình tiết mang dấu ấn đặc trưng văn hóa của dân tộc mình.

     Nhằm làm rõ điều nói trên, người viết sẽ đi sâu phân tích những chi tiết mang đặc trưng văn hóa dân tộc từ truyện kể Thạch Sanh Lý Thông của người Kinh và Chau Sanh Chau Thông của người Khmer. Nghiên cứu cứu này dựa trên việc đặt tác phẩm văn học dân gian trong sự tương tác phức hợp giữa lịch sử và văn hóa. Từ đó, chúng ta có thể nhận diện nguồn gốc các loại hình văn hóa với đặc trưng vùng, địa phương rõ nét qua phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống,… Không những thế, điều đó còn thể hiện được tính hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các dân tộc Việt Nam.

2. Nội dung

     2.1. Xu hướng nghiên cứu văn hóa tộc người qua so sánh truyện kể dân gian các dân tộc

     “Sự cần thiết của việc nghiên cứu so sánh văn hóa của 54 tộc người trên cũng lãnh thổ Việt Nam, nhất là giữa văn hóa của người Kinh (Việt) và văn hóa các tộc người khác từ lâu đã được giới nghiên cứu văn hóa Việt Nam đề cập đến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, nghiên cứu so sánh văn hóa người kinh với văn hóa các tộc người khác cư trú trên cùng lãnh thổ Việt Nam thực chất là đặt văn hóa Việt nam vào bối cảnh Đông Nam Á để phân tích, nhận diện1. Văn học dân gian là một bộ phận của văn hóa, chính vì thế nó mang tất cả những đặc trưng văn hóa, nó đã phản ánh, lưu giữ và tích hợp được nhiều giá trị văn hóa dân tộc. Vì thế, văn học dân gian trở thành đối tượng nghiên cứu đáng giá, là nguồn tài liệu quý báu cho các nhà nghiên cứu về văn hóa. Trong đó, truyện kể là một thể loại tiêu biểu.

     Truyện kể dân gian có khả năng phản ánh khá toàn diện mọi mặt cuộc sống của con người trong các ứng xử khác nhau như ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Cụ thể hơn, truyện kể dân gian còn thể hiện rõ thế giới quan và nhân sinh quan của mỗi dân tộc cùng với quan niệm về thiên nhiên, về nguồn gốc loài người, tộc người, về lao động sản xuất, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với con người trong xã hội cộng đồng làng bản, về đấu tranh chống lại mọi kẻ thù mọi thế lực xấu xa tàn bạo để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho dù đó mới chỉ là trong ước vọng2. Cũng như các tác phẩm văn nghệ dân gian khác, truyện kể dân gian đã “trở thành bằng chứng độc đáo cho lịch sử tư tưởng, triết lý của một dân tộc, nơi thể hiện tâm tư, ước vọng, tâm hồn tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ,… của một dân tộc” (Đặng Văn Lung (2004): 11).

      Truyện kể dân gian cũng như mọi hiện tượng văn học dân gian khác vừa là hiện tượng sinh hoạt chứa nội dung văn hóa, vừa là hiện tượng thẩm mỹ, phản ánh hiện thực bằng các hình tượng văn học. Do vậy, nghiên cứu truyện kể dân gian theo cách tiếp cận giải mã văn hóa dân gian từ ngọn nguồn văn hóa theo các mối quan hệ loại hình văn hóa tộc người có thể sẽ mang lại những giá trị mới trong việc nghiên cứu thể loại văn học dân gian3.

      Chính vì thế, việc tiếp cận văn hóa dân tộc từ việc nghiên cứu so sánh truyện kể dân gian hiện nay là một xu hướng được nhiều nhà khoa học quan tâm. Như PGS.TS Nguyễn Chí Bền nhấn mạnh nghiên cứu so sánh văn hóa của các tộc người ở Việt Nam hiện nay là một hướng nghiên cứu cần thiết bởi chỉ qua so sánh mới hy vọng tìm ra nét bản sắc văn hóa của mỗi tộc người. Cũng trong xu hướng đó, hiện nay chúng ta đã có không ít công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn Tấn Đắc với “Mối giao lưu và tương tác văn hóa giữa các dân tộc Đông Nam Á qua kiểu truyện kể Tấm Cám”; Đặng Việt Bích với “Tìm hiểu quan hệ giữa truyện dân gian của người Tày và người Thái với truyện dân gian của người Việt”; Nguyễn Thị Bích Hà với “Vận dụng lý thuyết văn học so sánh tìm hiểu kiểu truyện người em trong truyện cổ tích Việt Nam và châu Âu”; Nguyễn Thi Huế với “Về những nét tương đồng giữa truyện Họ Hồng Bàng (người Việt) với mo Đẻ đất đẻ nước (người Mường)”; Hà Đình Thành với “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo trong một số truyện kể dân gian Tày, Nùng”; Vũ Anh Tuấn với “Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc thù trong truyện cổ dân gian miền núi”; Hà Thị Thu Hương với “Mối quan hệ văn hóa Tày – Việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản”,… Bằng việc sử dụng thao tác nghiên cứu so sánh – một thao tác qua trọng được dùng trong nhiều ngành khoa học mà đặc biệt là trong nghiên cứu văn hóa dân gian, để đã giải quyết được vấn đề cơ bản phát sinh trong bản thân đối tượng, các tác giả đã thực hiện việc sưu tầm, đối chiếu nhiều truyện viết, truyện kể khác nhau nhằm xác minh nguồn gốc của truyện, các tình tiết, xác minh sự nhất quán về tính cách nhân vật,… qua đó giải mã những đặc trưng, biểu trưng trong văn hóa mỗi dân tộc. Chính từ việc so sánh, các công trình nói trên đã làm nổi bật mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và truyện kể dân gian để từ đó mở ra thêm nhiều hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng trên lĩnh vực này.

      Không những thế, các những nghiên cứu trên còn góp phần đưa việc nghiên cứu folklore Việt Nam vào quỹ đạo chung của truyền thống nghiên cứu so sánh trong folklore học thế giới. Phương pháp nghiên cứu so sánh của các nhà dân tộc học và folklore học theo thuyết tiến hóa đã từng được coi như một thứ chìa khóa dùng để “giải mã” nhiều điều bí ẩn trong folklore của dân tộc. Phương pháp nghiên cứu so sánh như thế không những có khả năng phân biệt, nhận thức rõ được những mô hình của tính cách địa phương hoặc tính cách dân tộc, mà còn giúp ta hiểu rõ được cái cách thức folklore đã biến đổi như thế nào để thích ứng với môi trường. Như vậy phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa dân gian có thể có nhiều dạng thức khác nhau, tùy theo tính chất của những hiện tượng được dùng làm đơn vị so sánh (môtip, cốt truyện, cấu trúc thể loại, mô hình văn hóa địa phương hoặc dân tộc,…), tùy theo cấp độ và quy mô so sánh (giữa các địa phương, các dân tộc, các khu vực lịch sử – văn hóa,…), tùy theo mục đích của việc nghiên cứu so sánh (tìm hiểu ý nghĩa hoặc các lớp nghĩa của một đơn vị folklore, nghiên cứu nguồn gốc hay đời sống lịch sử hay quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau của folklore thuộc các nền văn hóa khác nhau), tùy theo cách tiếp cận (tiếp cận lịch đại hay tiếp cận đồng đại),…

      Kế thừa từ những thành quả mà các nhà nghiên cứu trước đã làm được, để tiếp cận phân tích nét đặc trưng văn hóa dân tộc qua truyện kể Thạch Sanh Lý Thông (người Kinh) và Chau Sanh Chau Thông (người Khmer), người viết cũng dựa trên hướng nghiên cứu nói trên với hy vọng làm sáng tỏ những nét văn hóa khác nhau của mỗi dân tộc trong sự so sánh các chi tiết từ hai truyện kể.

      2.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc qua truyện kể Thạch Sanh Lý Thông (người Kinh) và Chau Sanh Chau Thông (người Khmer)

       2.2.1. Vài nét về truyện kể Thạch Sanh Lý Thông (người Kinh) và Chau Sanh Chau Thông (người Khmer)

        Truyện kể Thạch Sanh Lý Thông (người Kinh) và Chau Sanh Chau Thông (người Khmer) thuộc kiểu truyện dũng sĩ với mô típ khá phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á. Truyện xoay quanh các mô típ như: Dũng sĩ diệt chằn tinh, dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp, người em hiền lành bị anh hãm hại, cứu con vua Thủy Tề được trả ơn, người câm. Truyện phản ánh những xung đột trong các mối quan hệ giữa con người với con người (anh em kết nghĩa, gia đình hoàng tộc với những người thường dân) và giữa con người với thế giới tự nhiên (giữa nhân dân với chằn tinh, chim đại bàng). Cũng giống như Thạch sanh Lý Thông, truyện kể Chau Sanh Chau Thông cũng được lưu truyền rất phổ biến trong xã hội người Khmer Nam Bộ. Nhìn chung về cốt truyện thì hai truyện khá giống nhau. Tuy nhiên, giữa truyện kể Thạch Sanh Lý ThôngChau Sanh Chau Thông có những điểm khác nhau khi nói về sự có mặt của Thạch Sanh và chi tiết chống giặc ngoại xâm. Để làm rõ điều này chúng ta có thể quan sát bảng sau:

Truyện Thạch Sanh Lý Thông Truyện Chau Sanh Chau Thông
– Về sự xuất hiện của Thạch Sanh: Xưa ở quận Cao Bình có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con. Ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Ông thì sửa cầu, sửa cống, khơi rãnh, đắp đường. Bà thì nấu nước cho người qua đường uống. Việc làm của gia đình họ Thạch thấu đến trời, Ngọc Hoàng cho Thái tử đầu thai xuống trần làm con nhà họ Thạch. Thạch bà thụ thai ba năm, chưa sinh con thì Thạch ông mất. Sau đó, Thạch bà sinh một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Thạch Sanh.

Tình tiết kết thúc truyện :
Truyện Thạch sanh Lý Thông được kết thúc bằng tình tiết: Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh, vì lý do đó nên các nước chư hầu đã kéo đến hỏi tội. Thạch Sanh lại lần nữa thể hiện tài năng và sức mạnh của mình khi không đánh mà chiến thắng các nước chư hầu nên được vua truyền ngôi và lên trị vì vương quốc.
– Về sự xuất hiện của Chau Sanh: Ngày xưa, ở một khu rừng, cách xa kinh thành của vua Pờ-rum Mờ-tót có hai vợ chồng tuổi đã già mà chưa có con. …Một hôm ông lão vác búa vào rừng thì nghe tiếng trẻ khóc ở mé bưng. Ông vội vã băng rừng chạy đến. Thấy một bé trai bụ bẫm nằm trong chiếc hoa sen giữa bưng, ông bèn lội xuống ẵm đứa bé về nhà nuôi và đặt tên là Chau Sanh.

Tình tiết kết thúc truyện:
Truyện Chau Sanh Chau Thông của người Khmer không có tình tiết chống ngoại xâm. Truyện kết thúc bằng chi tiết nhà vua ra lệnh trừng trị hai mẹ con Chau Thông và truyền ngôi lại cho Chau Sanh vì thấy rằng mình cũng đã già yếu.

__________
1 Hà Thị Thu Hương. Tiếp cận văn hóa tộc người Việt Nam bằng con đường nghiên cứu so sánh truyện kể dân gian. https://tailieu.vn/doc/tiep-can-van-hoa-cac-toc-nguoi-viet-nam-bang-con-duong-nghien-cuu-sosanh-truyen-ke-dan-gian-1791801.html.

2 Hà Thị Thu Hương, Tài liệu đã dẫn.

3 Hà Thị Thu Hương, Tài liệu đã dẫn.

        2.2.2. Phân tích nét đặc trưng văn hóa dân tộc qua so sánh truyện Thạch Sanh Lý Thông và Chau Sanh Chau Thông

        Ngoại trừ, những điểm trên thì nói về cốt truyện, hai câu chuyện này có kết cấu khá giống nhau. Tuy nhiên, trong cái chung ấy, nếu người đọc hiểu biết về văn hóa của hai dân tộc thì sẽ dễ dàng nhận ra những nét đặc trưng về văn hóa được thể hiện qua các truyện kể bằng những chi tiết và hình ảnh rất đặc trưng. Qua bảng so sánh dưới đây chúng ta sẽ thấy rõ điều đó:

Hình ảnh, tình tiết mang đặc trưng văn hóa Truyện Thạch Sanh Lý Thông Truyện Chau Sanh Chau Thông
– Cây gắn với nhân vật Cây đaCây dầu
– Không gian sống Quận, vùng Phum, sóc
– Ác thú Trăn tinh Chằn tinh
– Chim ác Đại bàng Krud
– Cách gọi tênHọ và tên (Thạch Sanh, Lý Thông) Từ để gọi và tên (Chau Sanh, Chau Thông)

     Qua bảng trên chúng ta thấy, tuy số lượng tình tiết và hình ảnh được sử dụng khác nhau không nhiều, nhưng mỗi tình tiết, hình ảnh có giá trị cao trong việc đại diện cho văn hóa dân tộc.

     * Về hình ảnh loài cây gắn với nhân vật

     Đầu tiên chúng ta có thể thấy hình ảnh loài cây gắn với nhân vật chính trong mỗi truyện cũng được sử dụng khác nhau. Trong truyện Thạch Sanh Lý Thông chúng ta thấy hình ảnh cây đa gắn với sự trưởng thành của Thạch Sanh. Điều này có thể hiểu được vì trong văn hóa người Việt (Kinh) thì cây đa cũng là một biểu tượng văn hóa. Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái. Cây đa chính là biểu tượng của làng quê, nó vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tâm linh. Nếu như người Kinh xem cây đa như một loài cây linh thiêng trong văn hóa của mình thì người Khmer lại có cây dầu. Trong câu chuyện Chau Sanh Chau Thông, cây dầu cũng gắn liền với đời sống của nhân vật Chau Sanh, nó không chỉ thể hiện sức mạnh của chàng trai trẻ khi một mình vác được cây dầu to mà nhờ cây dầu ấy, nhà Chau Sanh lại tìm được kế sinh nhai đồng thời chàng cũng giúp được bà con trong phum sóc. Cây dầu trong đời sống của người Khmer vô cùng quan trọng, nó cũng được xem là một biểu tượng văn hóa của người Khmer. Nếu ai có dịp ghé các chùa Khmer, chúng ta sẽ choáng ngợp trước những rừng dầu cổ thụ xanh ngắt bao quanh ngôi chùa. Không những thế vào đến các phum sóc của người Khmer, cây dầu cũng được người dân trồng ở trước nhà. Hiện nay, vì một số lý do mà chúng ta sẽ ít thấy cây dầu phổ biến ở trước nhà của người Khmer như xưa tuy nhiên nếu nhà nào còn thì cây dầu ấy sẽ rất lớn. Cây dầu cũng trở nên linh thiêng trong văn hóa của người Khmer. Thật vây, nhắc đến Trà Vinh, ngời ta sẽ nhớ đến cây dầu cổ thụ nghìn tuổi mà người dân địa phương gọi là cây dầu dù. Có nhiều câu chuyện linh thiêng được kể xoay quanh cây dầu này. Điều này đã thu hút nhiều đoàn khác để tham quan và cầu bình an, may mắn cho gia đình.

Hình 1. Cây dầu dù tại tỉnh Trà Vinh (Nguồn: Internet)

        * Về không gian sống

        Khi so sánh hai truyện Thạch Sanh Lý ThôngChau Sanh Chau Thông nét khác biệt dễ thấy đó là không gian sống của nhân vật. Truyện Thạch Sanh Lý Thông được kể trong không gian là quận Cao Bình (nơi Thạch Sanh được sinh ra), là vùng (nơi có Chằn tinh). Còn trong truyện Chau Sanh Chau Thông thì không gian sống đặc trưng của các nhân vật là phum, sóc. Chúng ta thấy ở đây có nét khác biệt về văn hóa tổ chức cộng đồng. Nếu người Kinh có văn hóa tổ chức làng, xã thì người Khmer có văn hóa tổ chức phum sóc. Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở của người Khmer là “phum” (làng), bao gồm vài ba gia đình có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau, phát triển từ công xã thị tộc mẫu hệ nguyên thuỷ, đứng đầu là “mê phum”. Nhưng cũng có “phum” lớn, bao gồm cả trăm gia đình thuộc nhiều dòng họ khác nhau. Các gia đình trong “phum” là những đơn vị kinh tế độc lập, có ruộng đất, tài sản, sinh hoạt và sản xuất riêng. Hình thức tổ chức cao hơn “phum” là “khum” và trên thực tế đã được thay thế bằng đơn vị xã. Nhưng hình thức tổ chức “srok” hay còn gọi là “sóc” (xóm) thì vẫn còn tồn tại. Mỗi “sóc” bao gồm vài chục phum lớn nhỏ. Ranh giới giữa các “sóc” thường được xác định qua vị trí ngôi chùa và tên gọi riêng của “sóc”. Đứng đầu sóc là “mê sóc”, giúp việc là ban quản trị sóc do dân sóc bầu ra. Bên cạnh bộ máy tự quản của sóc là bộ máy quản lý của chùa gồm một vị sư cả, các vị sư cả nhì, giúp việc cho họ là một ban quản trị chùa và các “quên” (tổ) là tổ chức quần chúng tín đồ. Sự vận hành của “sóc” dựa trên tập quán truyền thống và những định chế của Phật giáo. Cũng như làng ấp của người Việt Nam Bộ, “sóc” của người Khmer Nam Bộ không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư và dân ngụ cư.

       Mời xem tiếp

        ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC qua TRUYỆN kể THẠCH SANH LÝ THÔNG (người KINH) và CHAU SANH CHAU THÔNG (người KHMER) – Phần 2

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay.
NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh2019 (từ  trang 769 đến trang 779).

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Hình ảnh: Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com) chuyển tone màu ảnh sang màu sepia.