Du lịch Việt Nam đầu thế kỷ XX (Phần 2)

TRẦN VIẾT NGHĨA
(Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG Hà Nội
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội)

4. Một số địa danh du lịch tiêu biểu

     Địa danh Ba Vì: Núi Ba Vì (núi Tản Viên) có ba đỉnh: đỉnh Đông Nam cao nhất dài 1.284 mét; đỉnh giữa dài 1.160 mét; đỉnh Tây Bắc dài 1.140 mét. Ba Vì không ẩm như Tam Đảo và luôn có gió nên rất thông thoáng. Nhiệt độ thấp nhất trong năm là 17°8 và cao nhất là 29°6. Năm 1914, người Pháp đã xây dựng được một con đường lên núi tới độ cao 400 mét. Tại độ cao này, năm 1916 ông Marius Borel đã xây dựng một trại chăn nuôi và một khu nhà nghỉ hè. Đây là nhà nghỉ mát đầu tiên ở Ba Vì [8,56].

     Đến năm 1937, tại độ cao 400 mét mới chỉ có 4 biệt thự của Borel, Trú sứ Sơn Tây, Demolle và bác sĩ Joyeux. Thực dân Pháp đã xây dựng một Trung tâm nghỉ mát cho quân đội ở chòm phía Bắc núi Ba Vì. Trung tâm có 15 ngôi nhà kiên cố và 2 nhà ăn. Cũng trong năm 1937, ông Regimbaud là chủ Khách sạn Tông đã cho xây dựng một ngôi nhà sàn nhỏ ở độ cao 600 mét trên sườn Bắc để làm nơi nghỉ hè và trồng thử các loại rau quả. Mùa hè năm 1940, đã có khoảng 60 trẻ em người Pháp và người An Nam dưới sự hướng dẫn của Seitz đã cắm trại trong rừng ở độ cao 800 mét. Năm 1941, Seitz đã xây dựng hai ngôi nhà xây, có một ngôi có chiều dài tới 30 mét tại độ cao này [8:56-57].

     Đến năm 1942, chính quyền thuộc địa quyết định xây dựng Ba Vì thành một khu nghỉ mát trong tỉnh Sơn Tây. Ba Vì đã được cấp điện chiếu sáng và một đường dây điện thoại. Một bản quy hoạch đã được thảo ra gồm có một trạm bưu điện, một chợ, một sân thể thao, xây một tuyến đường mới cho các xe lớn đi tới các khu nghỉ mát.

     Năm 1942, Ba Vì đã có thêm 3 ngôi nhà nữa tại độ cao 800 mét được xây dựng để đón nhận 400 thanh niên. Con đường lên tới độ cao 1000 mét được khởi công ngày 26-2- 1942 và lô thứ nhất ở độ cao 1000 mét đã được hoàn thành vào ngày 23- 4- 1943 [8: 59].

     Khu nghỉ mát Ba Vì cũng thu hút được một lượng đáng kể khách du lịch người châu Âu và người bản xứ. Ba Vì có lợi thế về cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ, và khá gần Hà Nội và Sơn Tây. Nguồn cung ứng thực phẩm khá dồi dào và tiện lợi. Ngoài ra, Ba Vì còn thu hút khách du lịch bởi sự huyền bí của các khu rừng nguyên sinh, rất thích hợp cho các chuyến thám hiểm đầy thú vị.

     Địa danh Bạch Mã: Năm 1932, Girard, kỹ sư trưởng ngành cầu đường, trong khi đi tìm một địa điểm nghỉ mát thuận lợi ở gần Huế đã phát hiện ra Bạch Mã, một ngọn núi cao 1.450 so với mực nước biển, cách Huế 40 km về phía Nam.

     Do ở gần biển nên nhiệt độ ở Bạch Mã không bao giờ xuống dưới 4°c trong mùa đông và không vượt quá 26°c trong mùa hè. Tiết trời mát mẻ nhưng không lạnh. Nhiệt độ thay đổi từ 10°c đến 22°C [8: 77- 78].

     Năm 1933, Hạt công chánh Trung Kỳ đã xây dựng tại Bạch Mã một ngôi nhà gỗ đầu tiên của khu nghỉ mát. Năm 1934, người Pháp đă xây dựng một con đưòng dùng cho cáng lên Bạch Mã. Năm 1936 đã có thêm 17 ngôi nhà gỗ được xây dựng. Năm 1937, người Pháp đã làm một tuyến đường cho xe ô tô đi tới độ cao 500 mét. Tuyến đường được hoàn thành vào năm 1938. Nhờ có tuyến đường này mà khu nghỉ mát Bạch Mã phát triển nhanh chóng. Nhiều ngôi nhà mới được xây dựng: 40 ngôi nhà (1938), 45 ngôi nhà (1942) và 30 ngôi nhà (1943). Tổng số ngôi nhà của khu nghỉ mát lên tới con số 130 [8: 8 0 ].

     Tại Bạch Mã có hai khách sạn, mỗi khách sạn có từ 6 tới 15 phòng, hoạt động từ đầu tháng 5 đến 15- 09. Quân đội Pháp có 15 ha để xây dựng trung tâm nghỉ hè, cho phép nhận một số lượng lên tới 300 quân nhân người Âu [8:80].

     Khu nghỉ mát Bạch Mã có diện tích 900 ha, sở hữu nhiều cảnh quan thiên nhiên rất đẹp như thung lũng Morang với các thác nước hoang dã (có thác nước cao tới 600 mét), con suối dài hàng cây số nằm uốn lượn trong một công viên thiên nhiên gồm dương xi, thông và phong lan. Với cảnh quan đẹp, cơ sở hạ tầng tương đối tốt, chất lượng djch vụ và phục vụ tốt, khu nghỉ mát Bạch Mã đã thu hút được một lượng lớn khách tới nghi dưỡng và tham quan trong dịp hè.

     Địa danh Đà Lạt: Nhà bác học người Pháp là Yersin đã phát hiện ra Đà Lạt. Năm 1893, Yersin đã chinh phục được đỉnh Langbian. Từ đây ý tưởng về xây dựng một khu điều dưỡng ở Đà Lạt được hình thành. Năm 1897, hai đoàn khảo sát của Pháp được phái đi từ Phan Rang. Đoàn thứ nhất do Thouard dẫn đầu đi nghiên cứu về việc lắp đặt đường sắt. Đoàn thứ hai do Garnier dẫn đầu đi nghiên cứu việc xây dựng đường bộ. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer đã cưỡi ngựa lên vùng cao nguyên. Từ năm 1898 đến năm 1901, các đoàn khảo sát do Oddera, Garnier và Bernard dẫn đầu tới Dà Lạt để nghiên cứu xây dựng tuyến đường bộ từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Nám 1901, phái đoàn do Guynet chỉ huy đã xây dựng một số ngôi nhà gỗ ở Đà Lạt. Năm 1902, do Paul Doumer rời Đông Dương nên dự án xây dựng Đà Lạt tạm ngưng lại, và Langbian bị lãng quên trong mười năm sau đó. Phải đến năm 1921, Toàn quyền Albert Sarraut đã phê duyệt một khoản tín dụng để xây dựng một con đường và một số ngôi nhà ở Đà Lạt. Năm 1915, những du khách châu Âu đầu tiên đã đến Đà Lạt. Năm 1917, Toàn quyền Roume đã khánh thành Dinh Langbian. Đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của khu nghỉ mát Đà Lạt.

     Năm 1922, chính quyền thuộc địa đã thực hiện bản quy hoạch của kiến trúc sư Hébrard để xây dựng Đà Lạt thành một đô thị. Hébrard đã quy hoạch Đà Lạt trở thành đô thị có sức chứa tới hơn 300.000 dân. Chính vì dân cư ở Đà Lạt lúc này rất thưa thớt nên các chi tiết thiết kế đều rất tuyệt vời. Không có các ngôi nhà chen chúc, khắp nơi là các biệt thự rộng rãi nằm giữa các khuôn viên, các vườn cây và hoa. Nhà quy hoạch đô thị tài ba này còn có ý tưởng tạo một hồ nhân tạo bằng cách chặn thác Cam Ly để tô điểm cho thành phố.

     Sau khi cơ sở hạ tầng được xây dựng, người Pháp đã nhanh chóng đổ xô đến Đà Lạt kinh doanh. Họ đã biết tận dụng các điều kiện tốt về khí hậu và đất đai để xây dựng các trang trại trồng rau, cây ăn quả (mỗi năm Đà Lạt xuất hơn 1.200 tấn rau cho các địa phương khác), đồn điền trồng chè, trồng cà phê, trại chăn nuôi. Các khu vui chơi thể thao và giải trí nhanh chóng được xây dựng.

     Đà Lạt là một trung tâm dã ngoại rất lý tưởng. Bởi địa hình cao nguyên ở đây rất đẹp, có những đường xe hơi và đường mòn chạy qua. Có nhiều điểm để ngắm cảnh như đỉnh Robinson, đỉnh ba cây thông, hồ than thở, rừng tình yêu, các thác nước ở Cam Ly và ở Ankroet.

     Hoạt động săn bắn ở các khu rừng gần Đà Lạt cũng rất hấp dẫn du khách. Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và điều dưỡng về y tế. Chỉ sau vài thập kỷ phát triển, từ một nơi heo hút ít ai để ý tới, Đà Lạt đã trở thành một thành phố du lịch và nghỉ dưỡng nổi tiếng.

     Địa danh Đồ Sơn: Năm 1880, Jean Dupuis đổ bộ lên bán đào Đồ Sơn và tiến hành khảo sát qua loa các địa điểm ở đây rồi bỏ đi. Năm 1886, các ông Vlaveanos, Costa và Gouma đã phát hiện ra Đồ Sơn [11: 45- 46]. Họ đã giới thiệu cho các gia đình người Âu ở Bắc Kỳ đến đây để trốn tránh cái nắng mùa hè.

     Năm 1891, thực dân Pháp đã khởi công xây dựng một tuyến đường nối Hải Phòng với Đồ Sơn. Đến năm 1892, con đường đã được hoàn thành. Trú sứ Kiến An đã cho xây dựng ở Đồ Sơn một ngôi biệt thự [1: 46]. Ngay sau đó nhiều người Pháp đã đổ ra Đồ Sơn xây nhà. Những con đường lớn được xây đựng, phần lớn được trải nhựa.

     Ngày 18- 5- 1909, Toàn quyền Đông Dương là Klobukowski ra Nghị định nâng cấp Đồ Sơn thành đô thị (1, 47). Từ khi trở thành đô thị, Đồ Sơn càng có sức hấp dẫn đối với các du khách. Du khách chọn Đồ Sơn làm điểm đến là vì ở đây có đường giao thông thuận tiện, cảnh sắc tươi đẹp, chất lượng phục vụ và dịch vụ tốt, khí hậu trong lành. Hàng năm từ tháng 5 đến tháng 10, rất nhiều du khách đã đến các Bãí Lớn, vịnh Clateau, vịnh Hoa tiêu (Baie des Pilotes), và vịnh Pagodon. Mặc dù có tới 150 biệt thự và ba khách sạn, nhiều nhà hàng, nhưng vẫn không đủ phục vụ khách đi nghỉ hè [11:46-47].

     Địa danh Sa Pa: Đỉnh núi Fansipan ở Sa Pa được mệnh danh là ông hoàng của các ngọn núi ở Đông Dương. Fansipan nằm trên dãy núi Hoàng Liên Sơn với độ cao trên 3.000 mét so với mực nước biển. Những thác nước rạch vách núi thành những đường thẳng đứng dài óng ánh như bạc. Sa Pa có những cây đào trĩu quả, những dàn nho xanh tốt, những con bò trên các bãi chăn thả, những ngôi biệt thự rêu phong, bãi đua ngựa, nhà thờ, những cửa hàng sặc sỡ và ngôi chợ. Cảnh sắc Sa Pa thật hấp dẫn du khách.

     Sa Pa phát triển nhanh chóng. Từ năm 1910 đến năm 1920, ở Sa Pa chỉ có 6 biệt thự, trong đó biệt thự Mangin là đẹp nhất. Từ năm 1920 đến 1930 đã có thêm vài chục ngôi nhà, một số khách sạn và Toà Công sứ. Từ năm 1930 đến 1940 có thêm 26 biệt thự và nhà thờ. Năm 1941 có thêm 01 biệt thự, năm 1942 có thêm 07 biệt thự và 1943 có thêm 10 ngôi nhà [ 11: 64].

     Việc quy hoạch đô thị Sa Pa gặp nhiều khó khăn do địa hình có các thung lũng, khe, đồi và dốc. Bản quy hoạch phải thể hiện được ẩn sau Sa Pa hiện tại là một Sa Pa của tương lai. Không được phép mắc những sai lầm trong quy hoạch mà tương lai không thể sửa chữa được. Quy hoạch phải tôn trọng những gì quá khứ và hiện tại đã xây dựng. Quy hoạch phải chuẩn bị cho sự phát triển hài hoà của một đô thị lớn. Do đó, khu đô thị Sa Pa được người Pháp quy hoạch rất cẩn thận và chi tiết. Các khu chức năng được xác định rõ ràng như khu biệt thự cao cấp, khu biệt thự thường, khu dân cư, khu thương mại và công nghiệp, khu công viên, khu hành chính, khu giải trí,… Tất cả các công trình xây dựng phải đượ thiết kế sao cho hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên ở nơi đây.

     Địa danh Sầm Sơn: Khu nghỉ mát Sầm Sơn được phát hiện ra vào năm 1900 khi thực dân Pháp làm tuyến đường xuyên Đông Dương qua địa phận tỉnh Thanh Hoá. Nhận thấy tiềm năng du lịch và thương mại ở Sầm Sơn, người Pháp đã nhanh chóng tiến hành quy hoạch khu đô thị ở đây. Sầm Sơn gồm 2 trung tâm đô thị với tổng diện tích là 244 ha. Khu Sầm Sơn thượng nằm trên sườn núi đá ở phía nam khu nghỉ mát, trông ra biển, ở đây có tới 40 biệt thự (trong đó có 32 biệt thự một tầng và 8 biệt thự có tầng lầu). Có nhiều con đường rộng có chất lượng tốt chạy ngang dọc trong khu đô thị để đi dạo bộ hoặc đi ô tô. Khu trung tâm được phủ xanh bằng các cây thông, cây phi lao và các cây có hương thơm khác. Khu Sầm Sơn hạ có 214 nhà gạch, trong đó có 22 nhà tầng. Các ngôi nhà xếp thành 4 dãy phố dọc theo 2 km bờ biển [11: 72].

     Khí hậu ở Sầm Sơn khá thoáng mát. Tháng lạnh nhất trong năm là tháng 1 có mức nhiệt độ trung bình là 15,7°c. Tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ nóng nhất. Nhiệt độ trung binh trong tháng 6 là 28,9°c. Biển Sầm Sơn yên tĩnh suốt mùa nóng. Nước biển mát và khá trong. Tại Sầm Sơn có rất nhiều hải sản như cá, cua, tôm, ốc, sò, và nghêu.

     Khu du lịch Sầm Sơn có thể làm hài lòng du khách bằng các hoạt động tắm biển, câu cá, quần vợt, leo núi, đi bộ và dã ngoại. Những du khách mơ mộng và cô đơn có thể đắm mình trong khu Rừmg huyền bí rộng hàng trăm ha ở phía Bắc. Ngoài ra du khách có thể đến thăm một số làng nghề sản xuất nước mắm, làm quạt và làm chiếu ở gần đó.

     Địa danh Vũng Tầu1: Cho đến cuối thế kỷ XIX, Vũng Tầu vẫn chỉ là nơi đồn trú của hải quân Pháp. Từ năm 1895 đến 1902, người Pháp đã thực hiện bàn quy hoạch đô thị do Outrey thiết kế. Outrey đã cho xây dựng trên biển một con đê chắn sóng dài tới 400 mét nhưng đã bị cơn bão năm 1904 cuốn trôi. Công việc xây dựng Vũng Tầu vì thế bị chậm lại. Đến năm 1917, tuyến đường thuộc địa số 15 đắp qua các đầm lầy với các cây cầu lớn qua các sông mới nối Vũng Tầu với đất liền. Từ đó Vũng Tầu phát triền rất mạnh.

     Các điều kiện khí hậu tuyệt vời của Vũng Tầu đã lôi cuốn nhiều người Sài Gòn tới nghỉ dưỡng, phục hồi sức khoẻ. Một dưỡng đường đă được xây dựng ở đây. Về sau nó được sáp nhập vào Đại Khách sạn (Grand Hotel). Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer đã cho xây dựng một biệt thự rất đẹp được đặt tên là Biệt thự trắng (Villa Blanche) [11: 84- 85]. Từ khi Vũng Tầu trở thành một đô thị, đã có nhiều biệt thự được xây dựng để phục vụ cho các hoạt động nghỉ dưỡng và du lịch ở đây.

Kết luận

     Du lịch là một ngành kinh tế đem lại lợi nhuận cao ở nhiều nước, nhưng ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc du lịch không phải là một ngành kinh tế mũi nhọn mang lại siêu lợi nhuận. Thực dân Pháp lợi dụng du lịch như một thứ chim mồi để câu kéo các nhà đầu tư Pháp vào Việt Nam. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam vẫn có những bước tiến đáng kể như từng bước được chuyên nghiệp hoá và trở thành một ngành kinh tế. Số lượng khách quốc tế đến tham quan Việt Nam cũng ngày một đông hơn (cũng có những thời điểm số lượng khách quốc tế sụt giảm do suy thoái kinh tế và chiến tranh thế giới) và đa dạng hơn (du khách đến từ Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan…). Ban đầu người Việt Nam cũng chưa thực sự hào hứng với hoạt động du lịch, nhưng về sau do nhu cầu làm ăn ở trong nước và quốc tế, tìm hiểu thế giới bên ngoài, cùng với điều kiện kinh tế dư dã đã làm cho ngày càng có nhiều người Việt Nam ham muốn đi du lịch. Địa chỉ du lịch ở châu Âu mà người Việt Nam thích đến nhất là nước Pháp, và ở châu Á là Thái Lan, Hồng Kông, Trung Quốc và Nhật Bản. Thông qua các công ty du lịch, các phương tiện truyền thông, thì những hình ảnh về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam đã được giới thiệu đến nhiều nước trên thế giới. Du lịch bên cạnh ý nghĩa là một ngành kinh tế còn là một cầu nối văn hoá quan trọng giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài.

__________
1. Thời Pháp thuộc địa danh Vũng Tầu có tên gọi là Ô cấp hay Cap Saint Jacques. Tên Cap Saint Jacques do người Bồ Đào Nha đặt ra để nhớ tới vị thánh đỡ đầu nước họ là Jacques de Compsteile.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[ 1] Trung tâm lưu trữ quốc gia I (TTLTQGI), Phông Phủ Thống sứ (RST), Hồ sơ số (HSS) 81973, Organisation du lourisme colonial en Indochine en 1923 (Tổ chức du lịch thuộc địa Đông Dương năm 1923).

[2] TTLTQGI, RST, HSS 75215, Organisation du tourisme en Indochine. 1922- 1931 (Tồ chức du lịch Đông Dương, 1922- 1931).

[3] TTLTQGI, RST, HSS 72548, A.s programme d’organisaiion et de propaganda touristiques, 1927
(Về chương trình tổ chức và tuyên truyền du lịch, 1927).

[4] TTLTQGI, RST, HSS 75222, A.s Activités du Conseil regional de Tourisme du Tonkin. 1922-1932
(Về các hoạt động của Ủy ban du lịch Bắc Kỳ, 1922- 1932).

[5] TTLTQGI, RST, HSS 71711, Propagande en faveur du Tourisme indochinoise, 1914 – 1940
(Tuyên truyền cho du lịch Đông Dương, 1914-1940).

[6] TTLTQGI, RST, HSS 72715, A.s Constitution d ’un Bureau ojfiei du tourisme en ỉndochine. 1928
(Về việc lập một Văn phòng du lịch Đông Dương, 1928).

[7] TTLTQGI. RST, HSS 75210, Excursions et croisières touristiques organises en Indochine, 1932- 1938 (Các chuyến tham quan và các chuyến du lịch đường biển được tổ chức ở Đông Dương, 1932- 1938).

[8] TTLTQGI, RST, HSS 20859, Organisation du tourisme en indochine, 1913 (Tổ chức du lịch Đông Dương, 1913).

[9] TTLTQGI, RST, HSS 72710, Organisation et développement du tourisme en Indochine, 1914-1929
(Tổ chức và phát triển du lịch ở Đông Dương, 1914- 1929).

[10] TTLTQGI, RST. HSS 75211, A.s Croisières touristiqucs organisées hors d’Indochine, 1931 -1959
(Về các chuyến du lịch đường biển được tổ chức ngoài Đông Dương, 1931- 1939).

[11] Tỉnh thành xưa ở Việt Nam , Nhà xuất bản Hải Phòng, Hải Phòng, 2004.

x
x x

Some features on Vietnam tourism
during the French colonial feriod

Tran Viet Nghia
(College o f Social Sciences and Humanities, VNU
336 Nguven Trai, Thanh Kuan, Hanoi, Vietnam)

To the early ỵ x century, the French colonial government developed many tourist centers in Vietnam. At first, it sent some scientist groups to go around Vietnam to find the cool sites to build the resorts for the French colonial officials. Some sites where had the beautiful landscapes and low temperature were found, such as Ha Long, Sa Pa, Tam Dao, Mau Son, Ba Vi, Do Son, Sam Son, Bach Ma, Nha Trang, Da Lat and Vung Tau. They had been built into resorts, and then became the famous tourist centers. Many foreign visitors, especially the Europeans went to Vietnam tourist sites. There were more and more Vietnamese people who liked becoming visitors. The French colonial government not only exploited Vietnam tourism as an economic branch, but also used it to attract the
foreign investors to Vietnam. Tourism also became the bridge to link Vieừiam culture to other cultures in the world.

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173

Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)