Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 1)
Tác giả bài viết: ĐỖ NGỌC GIAO*
1. Giới thiệu
Chuyện dân gian của những nhóm nói tiếng Indo-European (viết tắt IE) có một con vật dữ dằn kêu bằng dragon theo tiếng Anh/Pháp mà ở đây tạm dịch là rồng: nó hay phá hại loài người nên sớm muộn cũng bị người diệt trừ.
Trước khi có những thứ tiếng IE lối 4100 năm trước công nguyên,1 thì nhóm nói tiếng Proto-IE ở ‘Pontic-Caspian steppe’ kế biển Đen và biển Caspian2 đã kể chuyện xẻ một con ‘rắn’ để lấy lại những gì thiết yếu của xã hội loài người mà bị nó nuốt, thí dụ nước hoặc bò.3
Đó có lẽ là cái gốc gần nhứt của chuyện ‘người diệt rồng’ (the dragon slayer) trong văn hóa dân gian IE.
Hình 1. Chuyện ‘người diệt rồng’ ở cựu thế giới
(chấm đen = đã ghi nhận, chấm trắng = chưa ghi nhận),
với mật độ cao nhứt ở vùng màu tím, quanh biển Đen (Bortolini et al4).
Hình 1 cho thấy chuyện ‘người diệt rồng’ dường như từ cái gốc ở vùng biển Đen lan khắp châu Âu, tới bắc châu Phi, Tây Á, Đông nam Á và Đông Á.
Ở bài này, ta sẽ đi tìm ‘người diệt rồng’ trong chuyện dân gian người Việt.
Bài này có lược dịch và lược thuật một số câu chuyện để làm thí dụ, mà không kể lại nguyên văn, vì những lý do dễ hiểu.
2. Giải thích thuật ngữ
2.1 Chuyện dân gian (folktale)
‘Chuyện dân gian’ ở đây là tên gọi chung những loại chuyện kể lại bằng lời hoặc chép lại bằng chữ, thí dụ: ‘chuyện đời xưa’ (fairy tale), ‘truyền thuyết địa phương’ (local legend/tradition), ‘huyền thoại’ (myth).5
Chuyện dân gian mọi nơi xài chung một số ‘thành phần’ (element) như sau :
+ ‘Motif’: thành phần nhỏ nhứt trong câu chuyện: có thể là một vai (actor), một bối cảnh (background) hoặc một biến cố (incident).
+ ‘Type’: một câu chuyện riêng rẽ, không chuyện nào giống chuyện nào.
+ ‘Function’: nhiệm vụ của những ‘nhơn vật’ (dramatis personae) trong câu chuyện.
THOMPSON6 phân loại 23 nhóm motif trong văn hóa dân gian :
Nhóm thí dụ:
A. mythological motifs | A420 | ‘thần nước’ |
B. animal motifs | B11 | ‘con rồng’ |
C. motifs of tabu | C41 | ‘không được xúc phạm thần nước’ |
D. magic | D110 | ‘người biến ra thú’ |
E. the dead | E251 | ‘ma cà rồng’ (vampire) |
F. marvels | F420 | ‘tinh nước’ (water-spirit) |
G. ogres | G303 | ‘quỷ’ (devil) |
H. tests | H310 | ‘thử tài chàng rể tương lai’ |
J. the wise and the foolish | J1085 | ‘tiền không đem lại hạnh phúc’ |
K. deceptions | K150 | ‘làm thuê những việc tầm phào’ |
L. reversals of fortune | L161.1 | ‘trai nghèo lấy gái giàu’ |
M. ordaining the future | M146 | ‘thề lấy một cô nào làm vợ’ |
N. chance and fate | N733.1 | ‘anh em không biết nên đánh nhau’ |
P. society | P475 | ‘kẻ cướp’ |
Q. rewards and punishments | Q241 | ‘bị phạt vì tội ngoại tình’ |
R. captives and fugitives | R211 | ‘thoát khỏi ngục’ |
S. cruelty | S110 | ‘giết người’ (murder) |
T. sex | T251 | ‘bà vợ cục cằn’ |
U. the nature of life | U121 | ‘cha nào con nấy’ |
V. religion | V1.8.6 | ‘thờ rắn’ |
W. traits of character | W10 | ‘lòng tốt’ |
X. humor | X110 | ‘chuyện người điếc’ |
Z. miscellaneous groups of motifs – những nhóm motif khác. |
Hệ thống ATU (viết tắt tên của Aarne, Thompson và Uther) phân loại 2399 type như sau.5
Chỉ số nội dung thí dụ:
1–299 | animal tales | ATU 59 | Con cáo và chùm nho |
300–749 | tales of magic | ATU 300 | Người diệt rồng |
750–849 | religious tales | ATU 750A | Ba điều ước |
850–999 | realistic tales (novelle) | ATU 954 | Bốn chục tên cướp |
1000–1199 | tales of the stupid ogre | ATU 1049 | Cái rìu nặng |
1200–1999 | anecdotes and jokes | ATU 1326 | Dời chỗ nhà thờ |
2000–2399 | formula tales | ATU 2015 | Con dê không chịu về nhà |
ASHLIMAN,7 dựa theo hệ thống AT (viết tắt tên của Aarne và Thompson), phân loại 2335 type :
1–298C | animal tales |
300–745A | tales of magic |
750A–849 | religious tales |
850–992A | romantic tales |
1000–1965 | anecdotes |
2010–2335 | formula tales |
BEREZKIN8 gán cho ‘motif’ hai nghĩa :
+ ‘image’ (ảnh tượng), na ná như motif trong hệ thống Thompson,
+ ‘episode’ (chuỗi biến cố), na ná như type trong hệ thống ATU,
và chia ra hai nhóm motif,9
a–i | cosmology and etiology | trời đất và cái gốc của muôn loài |
j–m | adventures and tricks | hành động và mánh khóe |
PROPP thì phân loại 31 function của những nhơn vật trong chuyện dân gian,10 và cho rằng có thể coi hết thảy những câu chuyện đời xưa ở vùng Âu-Á (Eurasia) đều là ‘variant’ (biến thể) của chuyện ‘người diệt rồng’.11
Mỗi type có một nhóm motif đặc trưng; nên những câu chuyện kể theo cùng type hoặc episode thì ắt đều là từ một gốc mà ra.
Lưu ý rằng hệ thống phân loại của Thompson và Berezkin mới khai thác 9% và 6% nguồn chuyện châu Phi mà thôi, lần lượt.12 Nghĩa là, hai hệ thống đó chưa có nhiều motif của châu Phi, và cả những nơi khác như Việt Nam chẳng hạn. (Nếu học giả người Việt có thể đưa thêm những motif của xứ mình vô hai hệ thống đó, thì thực là có ích.)
Dưới đây, những ký hiệu như ‘A1’ là ‘chỉ số’ (index) của những motif trong hệ thống Thompson và những ký hiệu như ‘a1’ là chỉ số của những motif trong hệ thống Berezkin.
2.2 Quái (monster)
‘Monster’ tiếng Anh gốc ở monstrum tiếng Latin nghĩa là ‘những gì lạ, kỳ, trái với lẽ tự nhiên, coi như điềm chẳng lành, có thể là một người nào, một con gì, một cái gì, mà lạ, kỳ, dị hợm’.13
Song le, ta cần giải thích để cho mọi người trong một cái cộng đồng nào đó cùng hiểu như nhau rằng ‘lạ’, ‘kỳ’ như thế nào thì mới gọi là quái.
Muốn vậy, theo SWANEPOEL,14 trước hết, ta phải có một cái ‘mô hình nhận thức lý tưởng’ (idealized cognitive model, viết tắt ICM), ở đó mọi người trong một ‘cộng đồng ngôn ngữ’ (speech community) đồng ý tách thế giới ra bao nhiêu loại và gán cho mỗi loại một cái nghĩa ra sao, thí dụ cái ICM kêu bằng ‘Great Chain of Being’ như sau :
cấu tạo thế giới phân loại
trời (heaven) chúa (god), thần (angels)
đất (earth) con người có hồn, không hồn
con vật cá, chim, rắn, sâu, thú
cây cối cây, cỏ
đất đá cát, khoáng,…
ngạ quỷ (hel) quỷ (devils), yêu (demons);
và rồi những gì không giống với bất cứ loại nào nêu trên thì đều là quái.
Nói cho dễ hiểu, ‘quái’ là những gì không-thể-phân-loại 15 thí dụ :
+ không thể phân loại giữa hai nhóm đã phân loại: thí dụ ‘garuda’ nửa người nửa chim (B56),
+ không thể phân loại bên trong một nhóm đã phân loại: thí dụ cái con ‘nửa bê nửa cừu’ (B14.3),
+ ‘nhiều hơn’ hoặc ‘ít hơn’ một nhóm đã phân loại: thí dụ ‘cọp hai đầu’ (B15.1.2.1.2), ‘chó không đầu’ (B15.1.1.1),
+ vượt khỏi phạm vi tự nhiên của một nhóm đã phân loại: thí dụ ‘ngựa bay’ (B41.2).
Quái vật không thể phân loại nên nó chẳng ở bên trong cõi của người hoặc bất kỳ cõi nào khác đã phân loại, mà ở rìa của những cõi đó, thỉnh thoảng nó sấn vô cõi của người.16
Quái vật không tuân theo hệ thống phân loại của người, nên một khi sấn vô cõi của người, nó sẽ làm những chuyện phá hại xã hội loài người mà thôi, để rồi bị loài người tiêu diệt.
Chú thích:
1. ans J. HOLM (2017)Steppe Homeland of Indo-Europeans Favored by a Bayesian Approach with Revised Data and Processing.
2. A. DAVID and DON RINGE (2015)The Indo-European Homeland from Linguistic and Archaeological Perspectives. Annual Review of Linguistics.
3. BENJAMIN SLADE (2010) How (exactly)to slay a dragon in Indo-European?
4. EUGENIO BORTOLINI, LUCA PAGANI, ENRICO R. CREMA, STEFANIA SARNO, CHIARA BARBIERI, ALESSIO BOATTINI, MARCO SAZZINI, SARA GRAÇA DA SILVA, GESSICA MARTINI, MAIT METSPALU, DAVIDE PETTENER, DONATA LUISELLI, JAMSHID J. TEHRANI (2017)Inferring patterns of folktale diffusion using genomic data.
5. STITH THOMPSON (1946) The Folktale.
6. STITH THOMPSON (1955)Motif-Index of Folk Literature.
7. D. L. ASHLIMAN (1987) A guide to folktales in the English language.
8. YURI E. BEREZKIN. Folklore and Mythology Catalogue: Its Lay-Out and Potential for Research.
9. Y. E. BEREZKIN, E. N. DUVAKIN. World mythology and folklore: thematic classification and areal distribution of motifs.
10. SAPNA DOGRA. The thirty-one functions in Vladimir Propp’s morphology of the folktale: An outline and recent trends in the applicability of the Proppian taxonomic model.
11. IAN WATTS (2017)Rain Serpents in Northern Australia and Southern Africa: a Common Ancestry? (proof).
12. MARC THUILLARD, JEAN-LOÏC LE QUELLEC, JULIEN D’HUY, YURI BEREZKIN. A large-scale study of world myths.
13. J. E. RIDDLE (1843)English-Latin and Latin-English Dictionary, for the use of colleges and schools.
14. PIET SWANEPOEL (2010)On defining the category monster– using definitional features, narrative categories and idealized cognitive models (ICM’s).
15. YASMINE MUSHARBASH. Introduction: monsters, anthropology, and monster studies.
16. LIANE POSTHUMUS (2011) Hybrid monsters in the classical world: the nature and function of hybrid monsters in Greek mythology, literature and art.
3. ATU 300 ở châu Âu
3.1 Mô tả
ATU 300 Người diệt rồng có 7 mục, với những motif đặc trưng thí dụ như sau.17
Hiệp sỹ (the hero)
– đổi đồ lấy những con vật có ích | B312.2 |
– là người chăn cừu | P412.1 |
Cúng người
– cúng người cho rồng [nạn nhơn thường là công chúa] | B11.10 |
– ai cứu công chúa sẽ được nửa xứ | Q112 |
– ai cứu công chúa sẽ được lấy cổ | T68.1 |
Con rồng (the dragon)
– có bảy đầu | B11.2.3.1 |
– thở ra lửa | B11.2.11 |
Trận đánh
– [hiệp sỹ] đánh rồng | B11.11 |
– con chó [của hiệp sỹ] giết rồng | B524.1.1 |
– cứu công chúa /gái tơ thoát khỏi rồng | R111.1.3 |
Lưỡi rồng
– hiệp sỹ cắt lưỡi rồng để làm chứng cho việc giết rồng | H105.1 |
– hiệp sỹ bỏ lại công chúa sau khi cứu cổ | R111.6 |
Tên bợm (the impostor)
– con vật của hiệp sỹ cứu ảnh sống lại [sau khi bị tên bợm giết] | B515 |
– cấm công chúa nói tên người giết rồng | C422.1 |
– giành công của hiệp sỹ | K1932 |
– công chúa xin dời đám cưới một năm [bị ép gả cho tên bợm] | T151 |
Xác nhận công trạng
– vật làm tin [của công chúa đưa] | H80 |
– chứng cớ đã cứu công chúa | H83 |
– vật làm tin là khăn tay của công chúa | H113 |
BEREZKIN thì mô tả chuyện ‘người diệt rồng’ với nhóm motif này :
k38f quái vật bò sát [rắn/rùa/sấu] phá hại loài người (đòi cúng người /bắt gái /chặn nguồn nước), hiệp sỹ giết nó; nạn nhơn không có vai trò gì hết.
k38f1 hiệp sỹ cắt giữ một phần của xác rồng (thường là cái lưỡi), tên bợm không biết vì sao rồng mất lưỡi, hiệp sỹ đưa lưỡi rồng ra.
k38f2 hiệp sỹ được nhận ra nhờ vết máu rồng mà nạn nhơn quệt lên người.
k38f3 hiệp sỹ đào hố núp chờ rồng tới gần hoặc bò ngang hố thì lấy gươm đâm nó chết.
3.2 Thí dụ
3.2.1 Nhóm 1
Những chuyện dưới đây có đủ 7 mục: hiệp sỹ, cúng người, con rồng, trận đánh, lưỡi rồng, tên bợm, xác nhận công trạng.
1. Con quái bảy đầu (Pháp).18
Xưa có anh kia bị ba má đuổi đi, ảnh đòi cho được một bộ giáp có ba mươi sáu màu và một cây gậy màu trắng mới chịu đi. Ảnh tới trại của nhà vua, xin vô chăn bò.
Ngày nọ, ảnh để một con bê màu đen đi qua ăn cỏ ở đồng kế bên. Một tên khổng lồ hiện ra đòi đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu màu, lấy cây gậy trắng đánh chết tên đó, y để lại một con ngựa màu đen. Hôm sau, ảnh cũng để con bê đen qua ăn cỏ đồng đó. Một tên khổng lồ nữa hiện ra đòi đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu màu, lấy cây gậy trắng đánh chết tên đó, y để lại một con ngựa màu nâu. Hôm sau nữa, ảnh cũng để con bê đen qua ăn cỏ đồng đó. Một tên khổng lồ nữa hiện ra đòi đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu màu, lấy cây gậy trắng đánh chết tên đó, y để lại một con ngựa màu trắng. Từ đó ảnh vừa chăn bò vừa chăn ba con ngựa. Con màu nâu mạnh hơn con màu đen, con màu trắng mạnh hơn con màu nâu.
Bữa nọ, ảnh nghe đồn xứ này có con quái bảy đầu bắt nhà vua mỗi năm nộp cho nó một người gái tơ, mà năm nay tới phiên công chúa.
Tới ngày nộp người, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, lận cây gậy trắng, cưỡi con ngựa đen, tới gặp vua, xin cho đi theo để đánh con quái cứu công chúa. Ảnh đánh tới chiều, đập đứt hai đầu nó, cắt hai cái lưỡi nó gói lại trong cái khăn của công chúa, đưa cổ về cung.
Ngày thứ hai, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, cưỡi con ngựa nâu, đưa công chúa tới chỗ hẹn, đánh con quái tới chiều, đập đứt thêm hai đầu nó, cắt hai cái lưỡi nó gói lại trong cái khăn của công chúa, đưa cổ về cung.
Ngày thứ ba, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, cưỡi con ngựa trắng, đưa công chúa tới chỗ hẹn, đánh con quái tới chiều, đập đứt luôn ba đầu nó, cắt ba cái lưỡi nó gói lại trong cái khăn của công chúa, đưa cổ về cung.
Ảnh về trại, chăn bò và ngựa như trước, trong khi đó nhà vua muốn gặp người đã cứu công chúa, mà chẳng ai ra mặt. Một tên trong đội làm vườn của nhà vua đi lượm bảy cái đầu đem về, nói chính y giết con quái, nhưng công chúa nói không phải. Rốt cuộc ảnh tới, đưa ra bảy cái lưỡi ráp vô khít bảy cái đầu thì nhà vua tin và gả công chúa cho.
2. Ba con chó (Đức).19
Xưa có hai anh em con ông chăn cừu, cha mất để lại cái nhà và ba con cừu, em gái lấy nhà, anh lấy cừu. Người anh bỏ nhà đi, đổi ba con cừu lấy ba con chó khôn: con Muối giỏi kiếm đồ ăn, con Tiêu giỏi cắn người, con Mù-tạt giỏi cắn sắt.
Bữa nọ, ảnh gặp chiếc xe chở một người đẹp đang ngồi khóc, hỏi xà ích thì mới biết xứ này có con rồng bắt người ta mỗi năm nộp cho nó một gái đẹp, mà năm nay tới phiên công chúa: chính là cái cô trong xe. Ảnh đi theo xe, tới chỗ hẹn với con rồng trên đồi.
Con này mình rắn, có cánh, chưn có vấu, thở ra lửa. Khi nó nhào ra, ảnh kêu con Tiêu nhảy vô cắn chết, rồi nhai nó sạch nhách chừa lại hai cái răng cửa của nó mà thôi. Ảnh lượm cất vô túi. Công chúa tính đưa ảnh về chung, nhưng ảnh còn muốn đi và hẹn ba năm nữa gặp lại.
Tên xà ích nãy giờ thấy hết, liền ép công chúa về nói với vua là y giết rồng. Vua tin lời, tính trong một năm sẽ gả công chúa cho y. Tới hạn, công chúa kiếm cớ dời thêm một năm, rồi một năm nữa.
Ngày đám cưới, ảnh quay về, tâu với vua là xà ích nói láo, bị vua nhốt vô ngục. Ảnh kêu con Mù-tạt cắn đứt cửa sắt cho ảnh thoát ra, sai con Muối đi kiếm đồ ăn. Nó chạy vô bàn tiệc chỗ công chúa đang ngồi với vua, liếm tay cổ. Cổ nhận ra nó, kể cha nghe mọi chuyện…
Vua cho người theo con chó đi gặp anh chăn cừu dẫn ảnh tới. Công chúa nhận ra ảnh, ảnh đưa ra hai cái răng rồng làm chứng. Vua xử tội người xà ích, cho anh chăn cừu làm chú rể.
Ảnh xin đón cô em ở quê về cung với mình. Ba con chó biến thành ba con chim bay mất.
3. Hai anh em (Đức).20 [ATU 567A]
Xưa có hai anh em tên Đực Lớn và Đực Nhỏ. Đực Lớn làm nghề thợ bạc thì giàu và gian, Đực Nhỏ làm nghề sửa chổi thì nghèo và ngay. Đực Nhỏ có hai con trai sanh đôi tên Bi và Bo, thường qua nhà Đực Lớn xin đồ ăn vặt.
Ngày nọ Đực Nhỏ vô rừng thấy con chim kia, lấy đá chọi làm nó rớt một cái lông bằng vàng. Đực Nhỏ đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y. Bữa sau Đực Nhỏ tới chỗ gặp con chim hôm qua, kiếm ra cái tổ của nó trong đó có một cái trứng bằng vàng. Đực Nhỏ cũng đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y. Mấy bữa sau Đực Nhỏ bắt được con chim, cũng đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y.
Đực Lớn biết ai ăn được tim và gan của con chim này thì mỗi sáng ngủ dậy sẽ ‘đẻ’ ra một thỏi vàng dưới gối. Y nói vợ chiên con chim cho mình ăn, đừng bỏ bộ lòng.
Vợ chiên xong để đó. Ai dè Bi và Bo qua nhà Đực Lớn, vô bếp thấy con chim chiên thơm lừng, thì lén bốc trái tim và lá gan của nó chia nhau ăn sạch.
Một hồi sau vợ Đực Lớn vô bếp thấy mất tim gan, liền lấy tim và gan của một con gà thế vô. Đực Lớn ăn nguyên con chim, sáng sau chẳng thấy gì dưới gối hết. Bi và Bo về nhà ngủ, sáng sau thấy dưới gối mỗi đứa là một thỏi vàng. Ngày nào cũng vậy. Đực Nhỏ mừng lắm, qua nói Đực Lớn biết. Đực Lớn hiểu ra, tức cành hông, kiếm cớ nói Đực Nhỏ đem Bi và Bo bỏ ra ngoài rừng [cho chết].
[ATU 303]
May thay, Bi và Bo gặp ông thợ săn đem về nuôi… Hai đứa lớn lên, bỏ nhà ra đi tìm vận may. Dọc đường, có một cặp thỏ, một cặp chồn, một cặp sói, một cặp gấu, một cặp sư tử, đi với Bi và Bo. Hai ảnh và đám thú chia ra hai nhóm đi hai hướng.
[ATU 300]
Bi tới xứ nọ, vô quán trọ nghe nói xứ đó có một con rồng trên núi xuống bắt người ta mỗi năm nộp cho nó một gái tơ, không thôi nó phá. Nhà vua đã hứa gả công chúa cho ai diệt được con rồng, nhưng chưa ai làm được, và ngày mai tới lượt công chúa nộp mạng.
Sáng sớm hôm sau Bi lên núi, tình cờ uống được ba chén thuốc bổ và đào được cây gươm sắc lẻm. Khi công chúa đi lên núi, con rồng bảy đầu trờ tới, thấy Bi nó khạc lửa tính chụp, nhưng, nhờ đám thú giúp sức, ảnh giết được rồng, chặt hết bảy đầu nó.
Công chúa lấy chuỗi ngọc chia cho đám thú, lấy cái khăn của mình đưa cho Bi, trong đó ghi tên ảnh, để sau này hai người nhận nhau. Bi cắt bảy cái lưỡi con rồng, gói vô khăn cất đi, rồi ảnh và đám thú nằm xuống ngủ.
Viên lãnh binh (marshal) đi theo công chúa, nãy giờ ở dưới núi, bây giờ mò lên, thấy vậy hiểu ra mọi chuyện. Y chặt phăng đầu Bi, lấy bảy cái đầu rồng, dọa công chúa khi về cung phải nói là y giết rồng. Vua tin lời, gả công chúa cho y, nhưng cổ xin dời đám cưới một năm.
Trong khi đó, con thỏ đi kiếm lá thuốc dán đầu Bi vô cổ cho ảnh sống lại. Ảnh dắt đám thú đi nữa, một năm sau quay lại xứ đó, vô quán trọ mới biết hôm nay là ngày đám cưới công chúa… Rốt cuộc, khi Bi vô cung đưa cho vua coi cái khăn của công chúa gói bảy cái lưỡi rồng, và chuỗi ngọc mà công chúa đã tặng cho đám thú, thì vua hiểu ra, gả công chúa cho ảnh và trị tội viên lãnh binh.
[hết ATU 300]
Về sau, Bi và đám thú đi vô rừng, bị bà phù thủy biến ra tượng đá…
Lúc đó, Bo và đám thú cũng đi tới xứ của Bi, bị mọi người kể cả công chúa dòm lộn là Bi …
Rốt cuộc Bo cứu được Bi và kể cho Bi mọi chuyện. Nghe chuyện Bo ngủ chung với công chúa mấy đêm, Bi nổi máu ghen, rút gươm chém đầu Bo, nhưng Bo sống lại nhờ con thỏ đi kiếm lá thuốc dán đầu vô cổ. Hai anh em về cung. Tối đó, công chúa cho Bi biết, mấy đêm trước, khi ngủ chung với mình, Bo đều để cây gươm xen giữa hai người…
4. Tristan và Isolde (truyện thơ của Thomas of Britain, viết bằng tiếng Pháp thế kỷ 12, dựa theo một câu chuyện dân gian Tây Âu).21
Rivalen là chúa ấp Armenye ở xứ Brittany [bên Pháp] của công tước Morgan. Rivalen qua Tintagel ở xứ Cornwall [bên Anh] làm khách của vua xứ đó là Mark, rồi thương em gái của Mark là Blancheflor. Rivalen giúp Mark đánh trận, bị thương, được Blancheflor chăm sóc, rồi cô này có bầu với Rivalen. Nghe tin quê nhà bị Morgan đánh, Rivalen đem vợ về, chống lại, thua trận, chết. Sau đó Blancheflor đẻ con trai, đặt tên Tristan [nghĩa là ‘sad man’], rồi cũng chết, để lại đứa con, cái nhẫn của mình, và gởi con cho cậu Mark.
Roald, lãnh binh (marshal) của Rivalen, coi Tristan như con ruột của mình để tránh tai mắt của Morgan. Ổng giao nó cho Governal dạy dỗ. Tristan còn nhỏ mà đã văn võ song toàn, biết nói bảy thứ tiếng. Khi mười bốn tuổi, Tristan theo thầy ra bến cảng, chơi cờ, bị một nhóm lái buôn Na Uy bắt cóc tính bán cho người Irish làm nô lệ, nhưng rồi thả ra. Tristan đi tìm vua Mark. Thấy Tristan có tài, ổng cưng, nhưng chưa nhận ra đó là cháu mình.
Sau đó, Roald sang Cornwall kiếm Tristan, gặp vua Mark, cho coi cái nhẫn của Blancheflor và cho biết Tristan là cháu của ổng. Mark phong Tristan tước ‘knight’, thêm hai chục cận vệ (squire) và một trăm kỵ binh. Tristan đem quân về Brittany, giết Morgan để trả thù cha và lấy lại đất. Rồi nhường cho cha nuôi (Roald) làm công tước xứ Brittany, Tristan trở sang Cornwall vì thích ở với cậu hơn.
Goram, vua xứ Ireland, có em vợ là công tước Morholt. Ông này đòi vua Mark nộp cống. Không ai dám chống lại Morholt, nên Tristan quyết định đấu với Morholt trên đảo St Samson …
Rốt cuộc Morholt bị một nhát chí mạng vô đầu, Tristan thì bị nhẹ hơn. Trước khi chết, Morholt cho biết mũi gươm của mình đã tẩm thuốc độc và Tristan sẽ chết bởi vì trên đời không ai có thuốc giải, ngoài chị mình là hoàng hậu Isolde xứ Ireland.
Tristan nhắn vua Goram sang nhận xác Morholt đem về. Hoàng hậu Isolde tìm thấy một miếng gươm ghim trong đầu Morholt, gỡ ra, giao cho công chúa, cũng tên là Isolde, cất giữ.
Tristan nhận ra Morholt không nói dối, vì chẳng ai ở Cornwall chữa nổi vết thương bốc mùi thúi hoắc của ảnh, nên đành làm liều sang Ireland tìm gặp hoàng hậu Isolde nhờ chữa. Đổi tên thành Tantris, đóng vai thầy đờn, Tristan làm cho công chúa Isolde mê tài chơi ‘harp’ của ảnh và muốn bái ảnh làm thầy. Hoàng hậu thấy Tristan bị thương, bèn chữa giùm, mà không biết đó là kẻ đã giết em mình. Bốn chục ngày sau, công chúa đã biết chơi đờn, vết thương của Tristan cũng đã lành, ảnh bỏ về.
Là người thân nhứt của vua Mark, nên Tristan đương nhiên sẽ kế vì ổng. Cận thần (noblemen) không muốn vậy, khuyên vua Mark lấy vợ, nhưng ổng chưa chịu. Ngày nọ Mark thấy con chim ngậm một sợi tóc óng ánh, mới nói rằng ổng sẽ lấy ai có sợi tóc giống như vậy mà thôi. Tristan kể cho vua Mark biết sắc đẹp của Isolde, nhưng vì hai xứ Cornwall và Ireland đang hục hặc, nên chưa chắc vua chịu hỏi công chúa.
Cận thần xúi vua cho Tristan qua đó làm mai, thầm mong ảnh sẽ bị họ giết. Tristan đi liền.
[ATU 300]
Bên xứ Ireland, sau khi Tristan bỏ về, có một con rồng tới quấy phá, vua Goram nói ai diệt được rồng sẽ gả công chúa cho.
Tristan trở lại đó, giết con rồng, cắt cái lưỡi nó giữ làm chứng. Ai dè khi Tristan ra sông uống nước, nọc độc trong lưỡi rồng ngấm vô người ảnh làm ảnh ngất đi.
Tổng quản (seneschal) của vua tìm thấy xác rồng. Không gặp ai, y cho rằng người giết rồng cũng đã chết. Muốn được lấy công chúa, y chặt đầu con rồng đem về cung nói y là người giết rồng.
Chẳng ai tin, vì ai nấy đều biết y xưa nay nhát như cheo. Công chúa cũng không tin, than với mẹ. Hai mẹ con quyết tìm ra người giết rồng.
Họ tới chỗ có xác rồng, không gặp ai. Nhưng tới bờ sông thì thấy Tristan nằm đó, hẳn là người đã giết rồng, và họ nhận ra đó là Tantris, thầy đờn. Họ lén đưa ảnh về cung chữa trị. Tỉnh lại, Tristan cho họ biết chuyện mình giết rồng và vì sao bị ngất.
Hoàng hậu vô cung cho vua biết sự thực. Tổng quản bác bỏ, vịn vô cái đầu rồng mà y có trong tay, rồi thách Tristan đấu tay đôi.
Vua ra lịnh triệu tập hai người ngày mai có mặt. Đêm đó, công chúa lấy cây gươm của Tristan đem rửa, thấy nó mẻ một miếng. Đem so với miếng gươm ghim trong đầu cậu mình thì vừa y [H101], cổ nhận ra đây chính là người đã giết cậu mình.
Công chúa tính dùng gươm đó giết Tristan, ảnh nói nếu ảnh chết thì cổ sẽ phải lấy viên tổng quản.
Công chúa kể chuyện cho mẹ nghe. Hai mẹ con đồng ý tha chết cho Tristan. Nhơn dịp đó Tristan nói ảnh muốn làm mai công chúa cho cậu mình là vua xứ Cornwall, nếu cổ ưng thì con của họ về sau sẽ được cả hai xứ. Hôm sau, Tristan đưa ra cái lưỡi rồng làm chứng. Tổng quản chịu thua, bỏ đi.
[hết ATU 300]
Hoàng hậu cho vua biết thân phận của Tristan. Vua đồng ý tha tội cho ảnh, nếu công chúa chịu lấy vua Mark …
5. Shortshanks (Scandinavia).22
Xưa có hai anh em con nhà nghèo lên đường tìm vận may, anh tên Đô Con đi hướng tây, em tên Cẳng Ngắn đi hướng đông, dặn nhau hễ người này cần gặp người kia gấp thì gọi tên ba lần.
Trên đường đi, Cẳng Ngắn lần lượt gặp ba bà già lưng còng một mắt, ảnh móc mắt cả ba, mỗi bà đưa ra một món đồ để chuộc mắt, bà thì đưa cây gươm quý, bà thì đưa cái thuyền phép, bà thì đưa bí quyết nấu mỗi lần một trăm ‘last’ bia. Ảnh lấy ra cái thuyền phép, đứng vô, biểu nó đưa tới cung vua, nó biến ra một cái thuyền lớn bay lên không đưa ảnh đi. Tới cung vua ở xứ kia, ảnh xin vô phụ nấu bếp.
Thấy chỗ nào cũng treo vải đen làm như có chuyện gì buồn, ảnh hỏi thì bà bếp nói : ‘Có ba con rồng (ogre) bắt vua gả công chúa cho chúng, chiều ngày thứ năm tuần này một con sẽ tới đem cổ đi, vua nói ai cứu công chúa sẽ được cho lấy cổ và nửa xứ. Kỵ sỹ Đỏ tình nguyện đi cứu công chúa nhưng không ai dám chắc y sẽ cứu được hay chăng, nên treo vải đen là vậy.’
Tới ngày hẹn, Kỵ sỹ Đỏ dắt công chúa xuống bến sông, chưa thấy rồng đâu y đã vội leo lên cây núp trốn, công chúa kêu thì y nói thà chết một còn hơn chết hai.
Cẳng Ngắn xin bà bếp cho xuống bến sông coi. Ảnh tới chỗ công chúa ngồi thì con rồng cũng tấp vô bến. Con rồng bự dễ sợ, có năm cái đầu.
Nó chọc ảnh là đồ lại cái, khích ảnh đánh lộn, ảnh thách nó.
Nó đang cầm cây chùy sắt, xáng vô ảnh một cái, ảnh né, rút gươm chém lại một cái bay hết năm đầu nó. Công chúa mừng rơn, nói ảnh nằm kê đầu vô lòng cổ ngủ một chút cho đỡ mệt, rồi đắp cái ‘robe’ bằng đồng (tinsel) lên người ảnh. Kỵ sỹ Đỏ lúc đó hết sợ, leo xuống cây, tới ép công chúa phải hứa khi về cung thì nói y là người cứu cổ, không thôi y giết cổ tức thì. Rồi y cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn gói lại, cất đi, đưa công chúa về cung, được vua ghi nhận. Trong khi đó Cẳng Ngắn lên thuyền con rồng, thấy quá trời đồ quý bằng bạc, liền gom hết đem về. Bà bếp hỏi, ảnh đưa bả một mớ.
Chiều ngày thứ năm tuần sau, mọi chuyện xảy ra y vậy, có điều con rồng thứ hai bự gấp đôi con rồng thứ nhứt, với mười cái đầu lận. Cẳng Ngắn cũng giết được nó và khi ảnh nằm kê đầu vô lòng công chúa ngủ thì cổ đắp cái robe bằng bạc lên người ảnh. Kỵ sỹ Đỏ cũng cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn gói lại, cất đi, đưa công chúa về cung, được vua ghi nhận. Cẳng Ngắn lên thuyền con rồng thứ hai, thấy quá trời đồ quý bằng vàng, gom hết đem về, đưa bà bếp một mớ.
Chiều ngày thứ năm tuần sau nữa, mọi chuyện xảy ra y vậy, có điều con rồng thứ ba còn bự hơn con rồng thứ hai, với mười lăm cái đầu. Cẳng Ngắn cũng giết được nó và khi ảnh nằm kê đầu vô lòng công chúa ngủ thì cổ đắp cái robe bằng vàng lên người ảnh, hỏi ảnh làm sao để mọi người biết ảnh là người cứu cổ. Cẳng Ngắn dặn cổ làm như vầy như vầy. Sau đó Kỵ sỹ Đỏ cũng cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn gói lại, cất đi, đưa công chúa về cung, được vua định ngày làm đám cưới cho y với công chúa. Cẳng Ngắn lên thuyền con rồng thứ ba, thấy quá trời đồ quý bằng kim cương, gom hết đem về, đưa bà bếp một mớ.
Tới ngày đám cưới, công chúa xin cho Cẳng Ngắn bận đồ nấu bếp vô làm người dâng rượu. Khi dâng rượu lần đầu, ảnh rưới một giọt vô khay của Kỵ sỹ Đỏ, khiến y nổi nóng xáng một cái, làm áo ảnh rớt xuống lòi ra cái robe bằng đồng của công chúa. Lần thứ hai cũng vậy, làm lòi ra cái robe bằng bạc của công chúa. Lần thứ ba cũng vậy, làm lòi ra cái robe bằng vàng của công chúa. Tức thì công chúa hỏi y sao dám tự tiện đánh ảnh là người đã cứu cổ và được cổ chọn làm chồng [K1935.1]. Kỵ sỹ Đỏ khăng khăng y mới là người cứu cổ.
Vua nói hai bên đưa ra chứng cớ. Kỵ sỹ Đỏ đưa ra cái khăn gói lưỡi và phổi của ba con rồng, Cẳng Ngắn đưa ra mớ đồ quý bằng bạc, vàng và kim cương lấy trên thuyền của ba con rồng. Vua nói ai có mớ đồ quý này mới là người đã giết ba con rồng và lấy đồ của chúng, vì mớ đồ này không thể có ở đâu khác hết.
Vậy là Kỵ sỹ Đỏ [bị xử tội] bằng cách quăng xuống hang rắn, Cẳng Ngắn được lấy công chúa và nửa xứ.
Vua xứ đó còn một công chúa nữa bị một con rồng khác dưới đáy biển bắt đi. Cẳng Ngắn dùng chiếc thuyền phép đi tới đó, cho giòng dây đưa ảnh xuống đáy biển, vô dinh con rồng, dùng bí quyết nấu mỗi lần một trăm ‘last’ bia để nấu một thứ bia thiệt mạnh làm con rồng và lâu la của nó uống vô chết hết, cứu công chúa đưa về.
Sau đó Cẳng Ngắn gọi tên kêu Đô Con tới, nhường cho Đô Con lấy công chúa thứ hai và nửa xứ còn lại…
__________
* ĐỖ NGỌC GIAO, tác giả sinh sống tại Việt Nam (trước năm 1975), làm việc tại Nhà máy Đường (sugar) Việt Nam, Nhật Bản, nay đã về hưu, ham thích nghiên cứu và có viết một số bài chuyên khảo như Bách Việt, Austro Asiatic, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, … Bài viết chuyên khảo “Rồng – từ Biển Đen tới Đất Việt” do tác giả viết gần đây nhất (ngày 27/09/2021) và gửi trực tiếp cho Ban Tu Thư – Viện Nghiên cứu Việt Nam học để đăng tải trên các trang web-Hybric do PGS.TS. Sử học Nguyễn Mạnh Hùng sáng lập.
+ Thánh địa Việt Nam học (thanhdiavietnamhoc.com),
+ Việt Nam học Số hoá (vietnamhoc.net)
Còn tiếp: Kính mời Quý độc giả xem tiếp:
Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 2)
Nguồn: Tác giả cung cấp bài viết cho thanhdiavietnamhoc.com, 27/09/2021
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Các bài viết khác của tác giả (Đỗ Ngọc Giao):
1. Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 1)
2. Rồng – Từ biển đen tới Đất Việt (Phần 2)
3. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1A)
4. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 1B)
5. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 2A)
6. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 2B)
7. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3A)
8. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3B)
9. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3C)
10. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 4)
11. Phân tách chuyện Tấm Cám theo lý thuyết của Prop (A Proppian analysis of Tam Cam)
12. Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần chót)
13. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 1)
14. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 2)
15. Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 3)