Tìm hiểu nguồn gốc hát Ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca”

Tracing the origin of singing Ví in Nghệ region in relation to “Việt ca”

Tác giả bài viết: Tiến sĩ TRẦN THỊ LAM THỦY 
(Trường Đại học Sài Gòn)

TÓM TẮT

     Bằng việc phối hợp các điểm nhìn từ ngôn ngữ – lịch sử – văn hóa để xem xét mối quan hệ giữa “Việt ca” và hát Ví của người dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, chúng tôi nhận thấy một số điểm tương đồng về cách thực hành, lối đặt lời hát, cách biểu hiện cảm xúc của người hát… giữa hai di sản này. Qua đó có thể thấy “Việt ca” và hát Ví có cùng nguồn gốc. Điều này góp phần khẳng định được lịch sử lâu dài của hát Ví – có thể nói – từ khi người Nghệ biết ngân nga để tạo thành câu hát, biết đặt lời thơ để thể hiện cảm xúc thì đã có Ví rồi.

Từ khóa: hát Ví, mối quan hệ giữa “Việt ca” và hát Ví, nguồn gốc “Việt ca”.

ABSTRACT

     By combining different perspectives of language – history – culture to examine the relationship between “Việt ca” and singing Ví of people in Nghệ An and Hà Tĩnh provinces today, we found some similarities in the way of practicing, of composing lyrics and of expressing singers’ emotions… between these two legacies. We believe that “Việt ca” and singing Ví have the same origin, which contributes to affirming the long history of singing Ví since Nghệ An people knew how to hum to form a song, how to compose poems to express emotions.

Keywords: singing Ví, relation between “Việt ca” and singing Ví, origin of “Việt ca”.

x
 x x

1. Đặt vấn đề

     Cho đến bây giờ, chưa ai có thể trả lời chính xác được là hát Ví có từ bao giờ? Ai là người đầu tiên đã cất lên câu hát? Có lẽ những câu hỏi như vậy đã đi vào vùng mờ của lịch sử mà mãi mãi không thể tìm được câu trả lời. Các tài liệu ghi chép còn đến ngày nay liên quan đến Ví, Giặm chỉ phản ánh được từ thế kỉ XVIII với những cuộc hát và những tác phẩm liên quan đến hát Ví của các nhà trí thức như Đại thi hào Nguyễn Du, Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh, Tiến sĩ Nguyễn Huy Tự.v.v. Nhưng đó là những cuộc hát đối đáp. Và thời điểm ấy đã là thời cực thịnh của các phường hát Ví.

     Văn hóa là một quá trình tích tụ và lan tỏa – chính vì vậy – để hình thành được những cuộc hát có đầy đủ thủ tục nghiêm ngặt, đạt đến trình độ cao, có thể thu hút được giới trí thức trong xã hội như ví phường vải thuở ấy, thì trước đó, các thể hát này phải hình thành và hoàn thiện từ rất lâu rồi. Tìm về xa hơn nữa trong lịch sử văn hóa của người Việt, hình thức ca hát dân gian đã có từ thời Hùng Vương. Theo Lịch sử Việt Nam, tập 1, từ đời Tần (năm 265 – 120 TCN), trong cuốn Giao Châu Ký, tác giả Lưu Hán đã ghi rằng, ở nông thôn Giao Châu thời bấy giờ, “trẻ mục đồng cưỡi trâu, thổi sáo và hát các bài đồng dao của người Việt” (tr. 104); còn tác giả Lưu Hướng trong Thuyết uyển (năm 16 – TCN) đã ghi lại một bài ca của người Việt hát trong lúc chèo đò và gọi đó là Việt ca (Lê Huy Chú, 1991). Như vậy, cùng xuất phát từ hình thức ca hát dân gian, Việt ca và hát Ví rất có thể có những điểm chung, góp phần giúp chúng ta tìm thấy dấu vết nguồn gốc của hát Ví.

2. Về nguồn gốc của Việt ca

     Chuyện kể rằng, Ngạc Vương Tử Tích (thế kỉ VI – TCN), là một Vương tử và là Lệnh quân vùng Ngạc Ấp (nước Sở). Một lần, Vương gia cùng đoàn tùy tùng đi du ngoạn Phán Hồ để thăm thú lãnh địa của mình trên một con thuyền to, do một người Việt cầm chèo. Hồ rộng, phong cảnh trời nước hữu tình, tràn ngập sắc xuân. Cảnh thiên nhiên nên thơ cộng với niềm hãnh diện được gặp mặt Ngạc Vương, người lái đò bất chợt cảm xúc dâng trào, vừa nhịp tay chèo vừa cất cao giọng hát. Giai điệu khúc ca du dương, thánh thót khiến Ngạc Vương vô cùng xúc động. Ngài liền cho gọi người chèo thuyền đến trước mặt,
không chút do dự “xắn ống tay áo, ôm chầm lấy người Việt chèo thuyền”, còn “lấy một chiếc áo gấm quấn quanh eo” nhằm bày tỏ lòng biết ơn người hát. Ngay sau đó, ngài liền hạ lệnh cho tùy tùng ghi lại bài hát và lưu lại trong dân với tên gọi là Việt ca (có tài liệu chép là Việt nhân ca). Một tác phẩm hay như thế, có thể xúc động bậc quân vương như thế, hẳn phải được mọi người gìn giữ và truyền lại cho hậu thế (theo Nguyễn Ngọc Thơ, 2008).

     Về nguồn gốc của Việt ca, đến nay đã có rất nhiều ý kiến tranh luận khá phức tạp. Điểm lại, có thể thấy các bàn luận chủ yếu xoay xung quanh hai hướng chính: hướng thứ nhất, cho rằng đây là dân ca phương Nam, độc lập hoàn toàn với với văn hóa Hoa Hạ; hướng thứ hai, khẳng định đây là bài dân ca hát theo phương ngữ Hán.

     Theo tổng hợp của Nguyễn Ngọc Thơ (2008), khuynh hướng thứ nhất được các nhà nghiên cứu tham gia khảo cứu về Việt ca ủng hộ hơn cả. Một trong số những người tiên phong bàn về Việt ca là Quách Mạt Nhược (郭沫若) (1892 – 1978). Ông cho rằng đây là bài hát của người Việt phương Nam được dịch lại bằng tiếng Sở và lưu lại trong dân gian. Ông cũng nhấn mạnh rằng, tiếng Việt cổ dùng trong bài hát này hoàn toàn khác biệt với tiếng Sở và tiếng Hán cổ. Kế đến là một số tác giả người Nhật, trong đó, tiêu biểu là Izui Hisanosuke (泉井久之助, 1905-1983) cũng khẳng định đây là bài dân ca có xuất xứ từ Đông Nam Á cổ. Kế đến nữa là tác giả Trung Quốc Vi Khánh Ẩn (韦庆隐) [1981], qua các nghiên cứu đã khẳng định Việt ca là ca dao Việt thuộc nhánh ngôn ngữ Choang – Đồng phương Nam và xếp vào nhóm ngôn ngữ Austro-Tai. Đến cuối thập niên 1980, trên cơ sở khảo sát của Quách Mạt Nhược và Vi Khánh Ẩn, nhiều tác giả người các dân tộc thiểu số Choang, Đồng… bắt đầu tiến hành so sánh ngữ âm, ngữ nghĩa giữa bài Việt ca do Lưu Hướng thời Tây Hán ghi lại với ngôn ngữ dân tộc mình và các dị bản của Việt ca tồn tại trong văn hóa dân gian. Họ đi tới kết luận: bài hát Việt ca có nguồn gốc phương Nam và là ca dao của cư dân Bách Việt cổ. Tiêu biểu là công trình nghiên cứu của tác giả Lâm Hà (林河) [1985: 103-111], Trương Dân (张民) [www.okwang.cn] dịch đối chiếu với ngôn ngữ dân tộc Đồng; Bạch Diệu Thiên (白耀天) [www.okwang.cn], Đàm Bình (谭平) [1990: 82-86] cùng một số học giả người dân tộc thiểu số khác dịch đối chiếu với ngôn ngữ dân tộc Choang. Cũng tại thời điểm này, còn có các tranh luận của các tác giả Kutsuki Jiro (朽本次郎) – nhà nghiên cứu người Nhật, Đặng Mẫn Văn (邓敏文) – tác giả Trung Quốc, tác giả Trịnh Trương Thượng Phương (郑张尚芳) của Thái Lan; tác giả Anne Birrell của Đại học Cambridge. Cụ thể hơn, các tác giả sau này không chỉ xác định đây là bài dân ca của phương Nam mà còn có nhiều người đi tới kết luận bài Việt ca là bài hát của tổ tiên các dân tộc Choang, Đồng, Thủy, Mao Nam… thuộc nhóm Bách Việt cổ (Nguyễn Ngọc Thơ, 2008).

     Ở khuynh hướng thứ hai chỉ có tác giả Trần Luân (陈抡) [1987: 67-91], phủ nhận ý kiến của Quách Mạt Nhược và các tác giả trước ông bằng cách dùng phương pháp so sánh lịch sử đi tìm quy luật và lịch sử diễn biến ngữ âm tiếng Hán, đối chiếu với bài Việt ca do Lưu Hướng ghi và kết luận rằng tiếng Việt cổ chỉ là một phương ngữ của gia đình tiếng Hán. Tuy nhiên, sau khi công trình của Trần Luân được công bố đã có hàng loạt công trình nghiên cứu phủ định hoàn toàn kết quả này (Nguyễn Ngọc Thơ, 2008).

     Qua tổng hợp các ý kiến đã bàn luận về nguồn gốc của Việt ca, chúng tôi nhận thấy có một điểm chung đặc biệt, đó là các tác giả đều dựa vào lịch sử ngôn ngữ để truy nguyên nguồn gốc của Việt ca. Đây là một trong những phương pháp khả thi và giàu tính thuyết phục. Bởi lẽ ngôn ngữ là phương tiện để lưu giữ lịch sử, văn hóa. Trong một chừng mực nhất định nào đó, ngôn ngữ làm nên văn hóa dân tộc. Bởi vậy, có thể nói việc khẳng định Việt ca là dân ca của dân tộc Bách Việt cổ là một kết luận có cơ sở khoa học và độ chính xác cao.

     Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, Việt ca là một bài dân ca – là một loại hình văn hóa dân gian đặc trưng. Bên cạnh yếu tố ngôn ngữ, nó còn có giai điệu, cách biểu hiện, cách thực hành của loại hình văn hóa này. Đây là điểm mà các tác giả từ trước tới nay chưa chú ý đến. Thực tế, đây cũng là con đường hết sức “chông gai” bởi tất cả đã chìm vào đêm dài của lịch sử. Những gì còn lưu lại được của Việt ca đến hôm nay chỉ còn trên ngôn ngữ.

     Với mong muốn đến gần hơn nữa nguồn gốc của Việt ca, chúng tôi cố gắng tìm một hướng lí giải mới cho nguồn gốc của bài hát này từ phương diện văn hóa với tư cách là một thể loại dân ca. Bởi thực tế, dân ca là một bộ phận của văn hóa dân gian. Trong quá trình phát triển, văn hóa tự hình thành một dòng chảy mà trong đó tạo nên những đặc điểm đặc trưng, bản sắc và định hình những giá trị riêng biệt. Trên hành trình đó, dù có sự tiếp nhận những đặc điểm mới thì văn hóa vẫn sẽ luôn lưu giữ được những đặc điểm riêng tiêu biểu. Dù cho lịch sử có đổi dòng thì văn hóa vẫn sẽ luôn có những dấu vết nguyên thủy, cổ xưa nhất của nó – miễn sao đó là những dấu vết có giá trị và làm nên bản sắc riêng. Bởi vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, một sản phẩm có giá trị văn hóa cao sẽ luôn được gìn giữ và trao truyền. Ngược lại, nếu không có giá trị, tất yếu nó sẽ phải bị diệt vong. Chính vì vậy, nếu tìm kiếm trong dân ca hôm nay, chúng ta có thể sẽ tìm được những dấu vết nguồn gốc của Việt ca xưa kia, khi nó đích thực là một sản phẩm văn hóa có giá trị đối với cộng đồng sáng tạo ra nó.

     Với Việt ca, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một tác phẩm có giá trị bởi mấy lí do sau:

     Thứ nhất, ngay tại thời điểm ra đời, nó đã là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đến mức có thể làm xúc động một bậc quân vương – người mà chắc chắn đã được thưởng thức mọi tinh hoa nghệ thuật của thời đó. Để vị Ngạc Vương có những hành động “ôm chầm lấy”, “quàng chiếc áo gấm quanh eo’’ cho người chèo đò để tỏ lòng cảm tạ quả là xưa nay hiếm. Đồng thời, với giá trị nhất thời đó, nó được ghi chép lại, đi vào sử sách của Trung Hoa và tồn tại cho mãi đến ngày nay.

     Thứ hai, trong suốt quá trình tồn tại từ đó đến nay, Việt ca không bị lãng quên mà ngược lại vẫn được sử dụng và tạo nên những “đợt sóng” kiếm tìm nguồn gốc – như chúng tôi đã trình bày ở trên – chứng tỏ – đây là một trường hợp đặc biệt trong văn hóa của các dân tộc phương Đông.

     Thứ ba, cho đến nay, người Trung Quốc vẫn gìn giữ và sử dụng nó. Bằng chứng là năm 2006, nó đã được dùng làm ca khúc chính trong bộ phim Dạ Yến (The Banquet) (https://www.youtube.com/watch?v=SXtAN21aMps) của đạo diễn Phùng Tiểu Cương (sản xuất tại Trung Quốc). Mặc dù tiết tấu bài hát, giọng hát, cách phục trang của ca sĩ… đã hoàn toàn xây dựng theo kiểu Hán hóa song ca từ bản tiếng Hán của Lưu Hướng vẫn được giữ nguyên.

     Như vậy, Việt ca vẫn được người Trung Hoa lưu giữ và sử dụng. Chính nó, chứ không một tác phẩm nào khác đã buộc người Trung Hoa phải thừa nhận giá trị của văn hóa phương Nam. Dù với hình thức nào thì người Trung Quốc đã lưu giữ và sử dụng Việt ca như là một tác phẩm độc đáo trong nền văn hóa của họ.

     Với những cơ sở đó, việc tìm kiếm những đặc điểm lịch sử dựa trên những yếu tố hiện đại đang tồn tại là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.

     Trở lại với ca từ của Việt ca, để có cơ sở phân tích, chúng tôi xin dẫn ra đây một số bản dịch của các nhà nghiên cứu từ trước đến nay.

     Lời Hán văn:

“ 今夕何夕兮搴舟中流
今日何日兮得與王子同舟
蒙羞被好兮不訾詬恥
心兒頑而不絕兮得知王子
山有木兮木有枝
心悅君兮君不知”

     Phiên âm:

“Kim tịch hà tịch hề khiên chu trunglưu
Kim nhật hà nhật hề đắc dữ Vương tử đồng chu
Mông tu bị hiếu hề bất tử cấu sỉ
Tâm nhi ngoan nhi bất tuyệt hề đắc tri
Vương tử
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi
Tâm duyệt quân hề quân bất tri.”

     Lời Việt (tạm dịch):

“Chẳng biết hôm nay lễ lạt gì,
Việt nhân tôi lướt sóng chu du cùng
Vương Tử
Phận thấp hèn, tôi nào đâu mơ ước
Tiếp Vương gia, tâm can tôi vui sướng vô ngần
Núi có rừng và cây kia có nhánh
Vương Tử người có thấu nỗi lòng tôi!”

(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008)

     Bản dịch của tác giả Izui Hisanosuke có nội dung hết sức ngợi ca vị Vương Tử:

“Cầu thọ cho ngài, ngài Vương Tử;
Chúc phúc ngài, vị Vương gia vĩ đại!
Bề tôi hân hạnh gặp ngài;
Vị Vương tử chính nghĩa, vị Vương tử tôn kính.
Tôi thật hạnh phúc;
Nguyện một lòng phục tùng ngài.
Hãy làm cho bá tánh sung túc thịnh vượng;
Từ trước đến nay tôi vẫn một lòng tôn
kính ngài.”

(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008)

     Bản dịch của tác giả Vi Khánh Ẩn:

“Đêm nay là đêm gì?
Người ngồi giữa thuyền là ai?
À, là Vương phủ đại nhân đến ấy mà
Vương Tử triệu kiến tôi đến ca hát để
thưởng thức, làm tôi vô cùng cảm kích
Đến ngày nào Vương Tử lại cùng tôi du ngoạn?
Tâm can tôi cảm thụ ơn người.”

(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008)

     Bản dịch của Lâm Hà:

“Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ?
Thuyền xuân đón khách, khách là ai?
Hóa ra thuyền khách là người – Vương Tử!
Triệu kiến người trên chiếc thuyền xuân,
Việt nhân tôi – lòng cảm tạ vô ngần,
Hôm nay là ngày gì ấy nhỉ?
Vương Tử cùng lướt sóng ngao du
Tâm can tôi hớn hở vô cùng.”

     Còn đây là nội dung bài Việt ca dịch theo tiếng Choang của Bạch Diệu Thiên:

“Nào biết đêm nay lễ lạt gì
Giữa dòng sông rộng, tôi chèo thuyền cho Vương tử.
Ôi vui thay, khóe mắt sáng ngời,
E thẹn chứ, nhưng nào giấu được niềm vui.
Bấy lâu nay tôi luôn quý mến ngài,
Ngọn núi kia đầy rừng cây che phủ,
Vương Tử người có hiểu tấm lòng tôi?”

(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008)

     Còn bản dịch của tác giả Anne Birrell (Đại học Cambridge) tạm dịch lại tiếng Việt như sau: 

“Hôm nay là ngày gì?
Tôi buông nhịp chèo thuyền ra giữa dòng
Hôm nay là ngày gì?
Thuyền tôi chào đón vị Vương gia
Ngại lắm chứ, nhưng tôi vẫn được
ngài ưu ái
Này, đừng nghĩ rằng phận hèn tôi sẽ bị khinh khi!
Trái tim vui tôi sẽ chẳng bao giờ phai nhạt
Vì được biết người – ngài Vương tử
Núi có cây còn cây có nhánh
Con tim tôi vui sướng về người,
Dù rằng Vương tử người chẳng hay biết bao giờ.”

(Nguyễn Ngọc Thơ, 2008)

     Ở đây chúng tôi có ít nhất 6 bản dịch. Tuy mỗi tác giả có một cách dịch khác nhau, nội dung cũng có nhiều điểm khác song có thể thấy mấy điểm chung như sau:

     Thứ nhất, về nội dung, các bản dịch đều phản ánh sự việc người chèo thuyền được diện kiến Ngạc Vương Tử Tích.

     Thứ hai, các bản dịch đều cho thấy niềm xúc động của người chèo thuyền khi cất lên lời ca.

     Thứ ba, về thời gian, các bản dịch cũng đều cho thấy lời ca được cất lên gần như trùng với thời điểm sáng tác: Kim tịch hà tịch… / Kim nhật hà nhật; Đêm nay… /Hôm nay. v.v.

     Căn cứ vào sự việc được ghi lại và lời ca, chúng ta có thể nói rằng, đây là những lời ca được ứng tác ngay trong buổi diện kiến Ngạc Vương của người chèo đò. Nó hoàn toàn không phải là một bài bản đã có từ trước, càng không có sự chuẩn bị. Nó là tiếng ca của nỗi lòng, của xúc cảm chân thành mà bật lên thành nhạc, thành thơ và được cất lên tiếng ca ngay chính thời điểm nó ra đời. Cũng thời điểm ấy, người lái đò vừa lao động (nhịp tay chèo) vừa cất lên câu hát. Dám làm điều đó trước mặt Ngạc Vương, người Việt kia hẳn phải có một bản lĩnh lớn, hay chí ít, việc hát và tạo câu hát theo cách như thế đã trở thành một thói quen, một khả năng gần như tự nhiên của anh ta. Điều này cho chúng ta một niềm tin rằng, đây không phải là người Việt duy nhất, mà tại thời điểm này, cộng đồng người Việt đã có hình thức sinh hoạt kiểu này. Nó trở thành bình thường, thân quen, tự nhiên đối với họ. Vì vậy mà trong những tình huống đặc biệt, họ vẫn có thể thực hiện nó một cách hoàn hảo nhất.

3. Về mối quan hệ giữa Việt ca và hát Ví xứ Nghệ

     Như chúng tôi đã khẳng định, lịch sử – văn hóa là một dòng chảy mà trong đó, dù đổi dòng, dù biến đổi, những đặc điểm hiện đại vẫn lưu giữ những đặc trưng nổi trội của truyền thống. Vì vậy, chúng ta có thể tìm nguồn gốc của nó ngay từ những dấu vết còn lưu lại ở thời điểm hiện tại.

     Chấp nhận theo khuynh hướng của những người cho rằng Việt ca là dân ca của các dân tộc thuộc Bách Việt xưa. Chúng tôi tìm những đặc điểm của nó – mà có thể – còn lưu lại đến hôm nay qua hình thức sinh hoạt dân ca của một số vùng miền trong khu vực Bắc Việt ngày nay.

     Trước hết, với hoàn cảnh hát trong lúc chèo đò. Đây là một đặc điểm tương đối phổ biến. Cư dân của Bình – Trị – Thiên, Nghệ – Tĩnh, Thanh Hóa… đều có hát trong lúc chèo đò.

     Một trong những hình thức hát trong lúc chèo đò được các nhà nghiên cứu cho là ra đời sớm nhất là hò. Suốt dải đất miền Trung, nơi đâu cũng có hò trên sông. Nếp sinh hoạt của người Việt miền Trung chủ yếu sử dụng hò để tập hợp sức mạnh tập thể, hát cùng với tập thể hoặc đối đáp giữa nam và nữ. Trong điệu hò, có người cất lên câu hát (xướng) rồi có những người hát đệm vào (xô). Chẳng hạn làn điệu hò khoan (đối đáp giữa nam và nữ) Quảng Bình:

“(Nữ): (Xướng) Hò khoan (hơ) hời khoan (hơ) mời bạn xô (hơ) hô khoan
(Xô) ơ là hô!
(Xướng) Thiếp gặp chàng dạ mừng hớn hở
Chàng gặp thiếp như mà hoa nở trên (hơ) bồn,
(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò khoan
(Xướng) Nghiêng tai mà hỏi với trai khôn,
Thầy mẹ ở nhà đã sửa (hơ) chậu
(Xô) Ơ là hô!
(Xướng) Ơ (hơ) sửa chậu xây bồn mô (hơ) chưa?
(Xô) Ơ là hô
(Nam): (Xướng) Anh nỏ thiếu chi nơi màn loan mà chiếu kế,
Nỏ thiếu chi nơi mà cao bệ dài (hơ) giường.
(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò khoan
(Xướng) Em đừng chê anh nghèo mà tráo đấu lường thưng,
Em chớ nghe thầy với ơ (hơ) mẹ.
(Xô) Ơ là hô!
(Xướng) Ơ hơ với mẹ khiến em đừng có thương ơ (hơ) anh!
(Xô) Ơ là hô.”

(Hò Quảng Bình)

     Hay hò để tập trung sức mạnh của Nghệ – Tĩnh:

Xướng: Con chuột bộc vừng này
Xô: dô ta này
Xướng: Con thương cha này
Xô: dô ta này
Xướng: Vợ thương chồng này
Xô: dô ta này…”

(Hò Nghệ Tĩnh)

     Trong trường hợp hát lẻ, điệu hò bao giờ cũng được mở đầu bằng lời dạo: Hò ơ hò… và kết thúc: là dô hò là hò dô hò hay ơ là hô/ơ là hò.v.v. Những dấu hiệu ngôn ngữ này đều không được ghi lại trong Việt ca. Dựa trên văn bản còn lại của Việt ca, chúng ta có thể khẳng định không có mối liên quan “huyết thống” giữa Việt ca và hò trên sông.

     Một hình thức hát trong lúc chèo đò rất phổ biến của cư dân miền Trung nước Việt nữa là hát Ví – tập trung ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Trong các làn điệu Ví có Ví đò đưa, người hát vừa nhịp tay chèo vừa cất lên câu hát. Chẳng hạn:

Ơ… Ai biết nước sông La răng là trong là đục
Biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh
Biết răng là nghĩa là tình… hỡi ai.

(Ví đò đưa sông La)

     Lời ca ngân nga lan tỏa trên sóng nước, theo nhịp mái chèo khua thường là những cảm xúc trước cảnh, trước tình của người hát. Một trong những đặc điểm nổi trội của Ví còn lưu lại đến ngày nay đó là tính ứng tác. Người hát Ví thường bộc phát theo cảnh tình tại thời điểm hát mà đặt lời, ít khi theo bài bản có sẵn. Chẳng hạn, điệu Ví hát chào rất phổ biến đến nay vẫn được người Nghệ sử dụng khá phổ biến:

“Ơ… đến đây đông thật là đông
Chào bên nam thì mất lòng bên nữ
Chào quân tử thì sợ dạ thuyền quyên
Muốn cho được cả đôi bên
Cho tôi chào chung một tiếng, kẻo chào riêng bạn cười.”

     Hát Ví không cần lời đệm như hò, thường mở đầu bằng điệu ngân ơ… thiên về tính nhạc chứ không phải là lời. Bởi vậy, hầu như ghi lời của Ví, chẳng mấy ai phải ghi cả tiếng ơ ấy. Chúng tôi thiển nghĩ – đây có lẽ là lí do mà khi chép lại lời của Việt ca, người ghi chép cũng đã không làm điều này. Bởi vậy mà lời thơ của Việt ca được Lưu Hướng ghi chép lại cũng như trong các bản dịch ngày nay đều không pha từ đệm. Hình thức nguyên thủy của Ví cũng là hát lẻ, hát trong khi lao động, kết hợp với nhịp lao động.

     Như vậy, có thể thấy mấy điểm chung giữa Việt ca và hát Ví Nghệ – Tĩnh như sau:

     Thứ nhất, Việt ca và hát Ví đều được hát trong lao động.

     Thứ hai, Việt ca và hát Ví đều được người hát thực hiện trong lúc chèo thuyền. Họ vừa nhịp tay chèo vừa hát. Rất có thể nhịp điệu, giai điệu của Việt ca và Ví sẽ có sự tương đồng khi cùng chịu ảnh hưởng của công việc chèo thuyền. (Thực tế là nhạc trong phim Dạ Yến, theo lời của Việt ca, mặc dầu đã Hán hóa song vẫn có thể hình dung giai điệu của nhịp chèo thuyền. Người nghe có thể hình dung từ giai điệu bài ca hình ảnh người vươn mình nhẹ nhàng đẩy con sào, đưa thuyền nhẹ trôi trên sông nước mênh mông. Sóng nhẹ, thuyền trôi từ từ và lòng người dào dạt cùng sông nước).

     Thứ ba, Việt ca là bài hát theo lối ứng tác. Đây cũng là đặc điểm nổi trội, độc đáo của hát Ví.

     Thứ tư, lối ứng tác của Việt ca và Ví đều thể hiện cảm xúc, tình cảm của người hát tại thời điểm cất lên câu hát. Đây là lối hát tùy người, tùy cảnh, tùy tình mà đặt lời; tùy động tác lao động mà tạo nên nhịp điệu.

     Với bốn điểm tương đồng ấy, liệu Việt ca và hát Ví của người Nghệ có mối quan hệ như thế nào?

     Câu trả lời thật không dễ nhưng với những kết quả đã có được, chắc rằng phải có một mối quan hệ nhất định giữa Việt ca xưa và hát Ví của người Nghệ sau này.

     Qua đó, giúp chúng tôi phần nào khẳng định được lịch sử lâu dài của hát Ví – có thể nói – từ khi người Nghệ có tiếng nói, và con người biết ngân lên để âm thanh của mình phát ra vang được xa hơn thành câu hát, biết đặt lời thơ để thể hiện cảm xúc thì đã có Ví rồi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     Lê Huy Chú và cộng sự. (1991). Lịch sử Việt Nam, tập 1 (tái bản). NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

     Nguyễn Ngọc Thơ. (2008). Việt nhân ca – bài ca người Việt cổ;
nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-trung-hoa-va-dongbac-a/220-nguyen-ngoc-tho-viet-nhan-ca.html.

     Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch Nghệ An. (2013). Dân ca xứ Nghệ, Nghệ An: NXB
Nghệ An.

     Dạ Yến (The Banquet). https://www.youtube.com/watch?v=SXtAN21aMps.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sài Gòn, Số 69 (03/2020)

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Tìm hiểu nguồn gốc hát Ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với “Việt ca” (Tác giả: TS Trần Thị Lam Thủy)