Triết lý về con người trong văn học dân gian Việt Nam
ĐẶNG HIỂN (NGƯT)
Trong một cuộc chuyện phiếm, tôi nghe một ông trí thức nói: “Nông dân làm gì có triết học”. Tôi lấy làm lạ bèn về giở từ điển ra xem thì thấy định nghĩa: “Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là khoa học hợp nhất toàn thể trí thức con người về thế giới khách quan và về bản thân con người. Triết học với tính cách khoa học nảy sinh do sự cần thiết phải xây dựng một quan điểm chung về thế giới, phải nghiên cứu các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới. Trong quá trình phát triển của triết học, đã có sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau, đó là bản thể luận, nhận thức luận, logic học, đạo đức học, mỹ học, tâm lý học, xã hội học và lịch sử triết học”.
Có lẽ ông trí thức kia hiểu triết học theo cách chính thống trên, tức là một khoa học nghiên cứu những nguyên lý chung và các quy luật chung của thế giới bao gồm những hệ thống luận điểm, luận cứ; nếu hiểu thế thì nông dân không có triết học thật vì họ không viết sách, không hình thành một hệ thống chủ thuyết. Nhưng nếu hiểu triết học là những nhận thức khái quát về thế giới khách quan, về con người với những quan hệ có tính bản chất, tính quy luật, thì nông dân có triết học, triết học sâu sắc nữa là khác, triết học đó thể hiện trong văn hoá, văn hoá đời sống, văn hoá dân gian mà hạt nhân là văn học dân gian, văn học truyền miệng với nhiều thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, câu đố, ca dao, tục ngữ, v.v…
Nội dung của các tư tưởng, triết lý đó cũng đề cập đến nhiều lĩnh vực, như nhận thức luận: “Trăm hay không bằng tay quen”; mỹ học: “Cái nết đánh chết cái đẹp; Tốt gỗ hơn tốt nước sơn; Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”; biện chứng pháp: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”; đạo đức học: “Thương người như thể thương thân”, “Dẫu xây chín đợt phù đồ/ Sao bằng làm phúc cứu cho một người”; xã hội học: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”; logic học: “Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không”, “Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa”; tâm lý học: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”; khẳng định vai trò quyết định của lao động (lời trăng trối của người cha bảo các con thửa ruộng nhà có vàng), tầm quan trọng của công cụ sản xuất (truyện “thần sắt”)…
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin bàn về triết lý bản thể thể hiện trong văn học dân gian, tức triết lý về sự tồn tại của con người, và nhân bản, như con người là sản phẩm của tự nhiên hay xã hội, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác… Từ những tác phẩm văn học dân gian, ta có thể tìm thấy những câu trả lời cho những vấn đề triết học ấy và qua đó, thấy được giá trị chân lý, giá trị nhân văn của tư tưởng triết lý dân gian. Có một câu tục ngữ đẹp được coi là tiêu biểu cho tư tưởng nhân văn về con người, đề cao hết mức giá trị và vị thế của con người trong trời đất. Đó là “người là hoa của đất”. Như vậy, con người là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất, hoàn mỹ nhất của tự nhiên. Nó vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ. Đó không chỉ là thiên nhiên tự nó, mà còn là thiên nhiên cho nó. Con người chẳng những có khả năng nhận thức thiên nhiên, mà còn có khả năng cải tạo thiên nhiên. Nó là chúa tể của muôn loài vì nó có trí khôn (“Trí khôn của ta đây”); nó là con nhưng cũng là người. Ngoài những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa những nhu cầu ấy thành người. Chẳng hạn, con người thăng hoa nhu cầu ăn uống thành văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu.
Con người ham sống nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có vật chất nhưng còn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh thần, là tình thương và danh dự (“Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”. “Sống vì mồ mả, ai sống bằng cả bát cơm”…).
Trong xã hội, con người phải được bình đẳng vì đều là sản phẩm của tự nhiên: “Hơn nhau tấm áo manh quần/ Thả ra mình trần, ai cũng như ai”. Vì đều là sản phẩm của tự nhiên, con người phải hành động hợp với tự nhiên, loại bỏ những gì là trái tự nhiên. Chử Đồng Tử và Tiên Dung yêu nhau là hợp với tự nhiên. Vua cha ngăn cản tình yêu ấy là trái tự nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà bãi cát nơi Tiên Dung và Chủ Đồng Tử gặp nhau có tên là Bãi Tự Nhiên. Con người bất kể ai cũng có phần bản năng (phần con). Người bình dân chống lại thói đạo đức giả, phủ nhận và che giấu cái phần con đó. Khi cần, họ lột trần cái con đó để tố cáo thói đạo đức giả – tức vô đạo đức thật – của tầng lớp thống trị. Ví dụ: “Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lớn tần mần như ma”.
Nhiều truyện tiếu lâm có yếu tố dâm tục, trong đó có cả những truyện không có nghĩa tư tưởng gì, chỉ để giải trí, vui cười. Nhưng đừng vì thế mà nghĩ rằng người bình dân tầm thường hoá, dung tục hoá quan hệ nam – nữ. Chính những người hay nói vui về chuyện đực – cái ấy lại là tác giả của những câu dân ca, ca dao đẹp nhất về tình yêu trong sáng thủy chung (Sông dài cá lội biệt tăm/ Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ), những truyện tình yêu nhau đến chết vẫn yêu (“Phạm Tải – Ngọc Hoa”), đến khi đầu bạc răng long, goá bụa vẫn yêu (“Xống chụ xôn xao – Tiễn dặn người yêu” – truyện thơ của dân tộc Thái).
Người bình dân coi trọng vật chất, nhưng còn coi trọng tinh thần hơn. “Họ nói sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó”, “Đừng mà chết mất thì thôi/ Sống thì có lúc no xôi, chán chè”, nhưng lại nói “Thà ăn bắp họp đông vui/ Còn hơn giàu có mồ côi một mình” hoặc hoặc “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Họ ca ngợi cảnh “Cơm trắng ăn và chả chim/ Chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà lo”, nhưng cũng chia sẻ niềm vui với cảnh “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”. Họ coi linh hồn cao hơn thể xác. Vợ Trương Ba nhận anh hàng thịt là chồng, vì xác anh hàng thịt mang linh hồn Trương Ba. Nói thế không phải là người bình dân xưa hiểu quá đơn giản về bản thể con người. Trong bản thể con người, trước cả Preude, người bình dân xưa hiểu vai trò, vị thế của vô thức, của ẩn ức sinh lý trong tâm thức con người. Có một chuyện: Người anh mới cưới vợ, có việc phải đi xa ít lâu, dặn em trai ở nhà phải trông coi chị dâu cho mình. Người em ở buồng bên cạnh, sợ chị dâu đêm đi (theo trai) liền đục vách ra một lỗ rồi thò tay qua đặt lên bụng chị (để nếu chị bỏ đó thì biết). Nào ngờ bụng chị ngày một to ra, khi người anh trở về cho là em đã phạm tội loạn luân, liền đánh chửi, người em thanh minh không được, tự tử chết. Sau chị dâu đến kì mãn nguyệt khai hoa, sinh ra một cái bàn tay. Như vậy, người bình dân xưa thừa nhận bản năng vô thức có vị trí của nó trong tâm thức con người, ngay cả khi nó đã bị (được) ý thức chế ngự.
Hơn ai hết, người bình dân hiểu con người muốn có hạnh phúc, trước hết phải được ấm no. Anh nông dân trong truyện Thần sắt, (cổ tích dân tộc Thái), sở dĩ người xấu xí, con gái trông thấy phải chạy, bà già thì ôm mặt khóc vì anh đói ăn, mùa màng thất bát do chỉ biết lấy que chọc lỗ gieo hạt. Đến khi có sắt, biết rèn cuốc cày, làm đất kĩ, mùa màng bội thu, ăn no, mặc ấm, anh trở nên dẹp đẽ, bà già trông thấy cười, con gái trông thấy chạy theo. Như vậy, từ ngàn xưa người bình dân đã nhìn thấy cái gốc của đã sông là sản xuất và cái quan trọng nhất, tiên tiến nhất trong sản xuất là công cụ lao động. Lao động chẳng những nuôi sống con người, mà còn làm ra thế giới. Thế giới này là vật chất và tạo hoá làm ra thế giới này cũng bằng tác động vật chất. Thần Trụ Trời gánh đất đá xây cái trụ chống Trời lên cho Trời khỏi dính với Đất. Trong quan niệm của người bình dân, nhiều nhân vật chính diện mà họ xây dựng trong thần thoại, truyền thuyết là những người anh hùng trong lao động: Sơn Tinh là anh hùng trị thủy, Chử Đồng Tử là anh hùng khai phá đầm lầy… Con người là sản phẩm của tự nhiên, nhưng đồng thời cũng là sản phẩm của xã hội; họ sinh ra có nòi giống, tổ tiên, có gia đình, làng xóm. Có thể nói, ít có dân tộc nào trên thế giới có ý thức sâu sắc về nòi giống như dân tộc Việt Nam. Câu chuyện thần thoại Lạc Long – Âu Cơ là niềm tự hào của người Việt Nam hàng ngàn năm nay. Thành ngữ “con Rồng cháu tiên” đã trở thành câu cửa miệng của dân ta và hai tiếng đồng bào từng rung động trong ta bao cảm xúc. Ý thức về nòi giống khơi nguồn cho ý thức về quốc gia, Tổ quốc. Ý thức ấy không chỉ là ý chí, mà còn là tình cảm thiết tha, cụ thể, thiêng liêng và sâu nặng: “Dù ai đi ngược về xuân/ Nhớ ngày giỗ tổ mùng Mười tháng Ba”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Đài Nghiên tháp Bút chưa mòn/ Hỏi ai gây dựng nên non nước này”… Chính tình cảm đồng bào, nòi giống đã mở rộng tấm lòng đùm bọc lẫn nhau của người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước: “rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai! Nước sông sao lại chảy hoàì/ Thương người xa xứ lạc loài đến đây/ Đến đây thì ở lại đây/ Bao giờ bén rễ xanh cây hãy về”. Tình cảm của người Việt Nam còn được nâng lên thành tình yêu thương con người, yêu thương đồng loại: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống những chung một giàn”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”.
Con người sinh ra có cha mẹ, có họ hàng. Chữ hiếu không chỉ là đạo lý, mà còn là lòng kính yêu và biết ơn vô hạn của con cái đối với cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Đặc biệt, tình cảm đối với người mẹ vô cùng thiêng liêng. Tình cảm thiêng liêng ấy còn gắn chặt với tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc, nên nó lại càng thiết tha, sâu nặng: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”, “Chiều chiều ra đứng ngõ sâu/ Ngó lên mả mẹ, ruột dầu như dưa”.
Người Việt Nam có tình cảm gắn bó với họ hàng: “Chim có đàn, có tổ, có tông”; “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Câu “Một người làm quan cả họ được nhờ” có mặt tiêu cực, nhưng ở một khía cạnh nhất định cũng nói lên rằng người Việt Nam sống duy cảm và trong những tình cảm đó có tình cảm họ hàng.
Người Việt Nam yêu làng, gắn bó với làng và tự hào về làng mình: “Làng ta phong cảnh hữu tình/ Dân cư giang khúc như hình con long…”, “Cây đa cũ, bến đò xưa/ Bộ hành có nghĩa, nắng mưa vẫn chờ”.
Tuy nhiên, trong quan hệ giữa người với người, người Việt Nam trọng nhất là tình nghĩa chứ không phải là huyết thống: “Người dưng có ngãi/ Ta đãi người dưng/ Chị em không ngãi ta đừng chị em” . Tình nghĩa, nhân nghĩa – những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp vẫn luôn là mẫu số chung của mọi mối quan hệ của người Việt Nam.
Người Việt Nam luôn tin ở hiền gặp lành, vì họ giàu thiện tâm và tin vào luật nhân quả. Tư tưởng này không chỉ là lời răn của triết lý nhà Phật, mà còn là lời tâm niệm chân thành của người Việt được họ chiêm nghiệm và lý giải trong văn học dân gian. “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” – đó phải chăng là phép biện chứng của đời? “Sinh con rồi mới sinh của, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông” phải chăng là niềm tin sự bất tử của linh hồn và sức ám ảnh của tâm linh? Thành quả hôm nay là kết quả của hôm qua, nỗ lực hôm nay là nguyên nhân thắng lợi của ngày mai: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Người em trong Cây khế, trở nên giàu có vì được chim trả ơn, nhưng cũng vì anh ta chỉ mang túi ba gang. Người anh tranh hết tài sản cha mẹ để lại, sau rơi xuống biển chết vì mang túi sáu gang. Người con cho cha già ăn bát gỗ thì thằng bé con anh ta đẽo gỗ để làm cái bát dành cho anh ta sau này… Như vậy, trong luật nhân quả, cái quyết định vẫn là con người, tư duy của người bình dân xưa vẫn căn bản là tư duy duy vật và biện chứng (dù là tự phát).
Tóm lại, triết lý về con người trong văn học dân gian Việt Nam là hiện hữu, nó có giá trị nhân văn cao thể hiện ở niềm tin và tình thương yêu mãnh liệt của con người. Tư tưởng triết lý ấy đã chi phối sự ứng xử của con người Việt Nam trong mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực của đời sống. Nó nói lên một điều đáng quý rằng, từ xa xưa dân tộc Việt Nam đã là một dân tộc theo chủ nghĩa nhân cách. Chủ nghĩa nhân cách ấy không giáo điều, không cuồng tín; trái lại, nó rất thực tế, rất người và chính điều đó đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc vượt lên mọi khó khăn, thử thách trong trường kỳ lịch sử để tồn tại và phát triển. Tư tưởng triết lý đó cần được trân trọng, gìn giữ và phát huy mãi mãi, hôm nay và ngày mai, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống cao đẹp và hạnh phúc cho cả dân tộc cũng như cho mỗi con người.