Triều Nguyễn với chính sách đúc và lưu thông tiền tệ

ThS. HOÀNG NGUYỆT

     Nói về sự phát triển tiền tệ dưới triều Nguyễn, có thể khẳng định đây là một triều đại tiền tệ phát triển rất phong phú. Ngoài những đồng tiền căn bản là tiền đồng và tiền kẽm, còn có cả vàng, bạc dùng trong lưu thông.

     Tiền tệ Việt Nam triều Nguyễn phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thời nhà Nguyễn độc lập (1802-1883) và những đồng tiền do nhà Nguyễn phát hành trong thời kỳ Pháp thuộc. Ngoài những đồng tiền căn bản là tiền đồng và tiền kẽm, còn có cả tiền vàng và tiền bạc dùng trong lưu thông.

     Khi vua Gia Long lên ngôi, trong dân vẫn còn lưu hành tiền văn ngụy hiệu, sau 5 năm lưu hành loại tiền văn ấy thì cho tiêu hủy và cho đúc tiền thiếc trắng để dùng. Châu bản tập 3, tờ 99 Gia Long 16 (1817) có đoạn: “….Việc trị nước không gì hơn là nuôi dân, nuôi dân cũng trước phải ở chỗ lợi dân. Trước từ sau khi trải qua cuộc loạn lạc, tiền tệ lưu thông có phần loạn tạp. Năm trước đã giao cho Công đồng xem xét và vẫn cho lưu thông lượng tiền văn ngụy hiệu. Sau khi hết thời hạn 5 năm thì đều phải đem đi tiêu hủy. Nay số tiền đúc ra đã tạm được đủ dùng, hiện truyền giao về chất trữ ở kho công tại kinh thành. Đặc chiếu cho đến từ sau tháng Giêng sang năm là năm Mậu Dần, phàm việc chi cấp tiền lương bổng cho đến các việc phát phí công vụ ở các trấn trong thành hạt đều lấy loại tiền thiếc trắng mới đúc để dùng. Với lại chỉ giữ ở kho và thu gom số tiền thiếc hiệu cũ. Tất cả ban ra để cho dân chúng cùng sử dụng. Lại nghiêm cấm các hạng tàu thuyền trong thành trấn không được chuyên chở tiền thiếc mới đúc cùng với loại thiếc trắng ấy xuống buôn bán cho các vùng phía dưới. Nếu ai làm trái sẽ y theo luật định mà trị tội. Chiếu văn đến ngay lập tức phải kính tuân mà làm theo, niêm yết để cho khắp mọi người đều được rõ. Khâm mệnh. Nay ban chiếu”.

     Khi đó vua Gia Long cho đúc tiền Gia Long Thông Bảo, loại tiền bằng đồng, mặt sau để trơn, có loại có chữ “Lục phân” và loại kẽm dày hơn, có chữ “Nhất phân”. Ngoài ra còn có loại tiền mặt sau có dấu chấm, ngoặc… tượng trưng cho nhật nguyệt. Năm Gia Long thứ 12 (1813), tháng giêng bắt đầu đúc tiền bằng kẽm nặng 7 phân, hiệu Gia Long Thông Bảo ( Đại Nam Thực lục chính biên).

     Thời Gia Long, vua cho mở xưởng đúc tiền ở Bắc Thành và Gia Định, cùng ở các trấn để đúc tiền Gia Long. Ban đầu còn đúc đủ cân lượng, 1 cân đúc được 700 đồng tiền điếu, nhưng càng về sau có nhiều đồng tiền làm bị nhỏ đi. Thời vua Gia Long có cho đúc thoi vàng, thoi bạc (có sách gọi là đỉnh) với nhiều cân lượng để dễ sử dụng. Mặt trước thoi vàng, thoi bạc có chữ Gia Long Niên Tạo, mặt sau giá trị 1 quan, 2 quan, 5 quan, một lượng, 10 lượng… (giá trị 1 lượng bằng 28 quan tiền điếu, 1 lượng vàng đổi bằng 16 lượng bạc).

Tiền “Gia Long Thông Bảo”- triều vua Gia Long

     Đến thời Minh Mệnh, triều đình cho đúc tiền lớn với mục đích lưu dấu công đức cha ông. Châu bản tập 51, tờ 46 Minh Mệnh 14 (1833) có đoạn: “…. Một bản trình vâng chi hoàng bạc bạch kim và tiền Phi Long, tiền lớn Lã Tông, các nha lần lượt làm đơn nhận lãnh. Lại một bản trình bày vâng chi bạch kim, theo phép hỗn hợp cùng đồng đỏ với thiếc trắng luyện thành bạc để dùng đúc tiền Phi Long, xin được thanh toán”.

     Một ví dụ khác, Châu bản tập 53, tờ 255, Minh Mệnh 16 (1835): “ Chúng thần Hội đồng kính tâu: Nhận được của phái viên phát giao 153 thoi vàng 7 tuổi, nặng 55 lạng 1 tiền 1 phân để chuyên đi đúc tiền phi long hạng nhỏ. Chúng thần đã vâng mệnh sức cho thợ đúc tạo trừ số bị nứt vỡ và những hạt nhỏ linh tinh gom vào đúc thành khối, hao mất 5 phân 3 ly, ra nhập thêm vào nguyên số sức cho thợ đúc tạo thành mỹ sức (làm đẹp) gồm 156 thoi, còn thừa 2 tiền 6 phân vàng. Nay chúng thần kính đem số tiền và vàng thừa trình lên. Chúng thần có hỏi thợ đúc vàng vì sao lại bị hao hụt, các thợ đó đều trả lời, do nung luyện in tạo làm đẹp mà dẫn tới hao hụt. Phụng chỉ: Lần này in tạo cũng phải nung luyện mài rũa cho đẹp, dẫn đến sự hao hụt cũng không đáng mấy, cho phép gia ân khoan miễn nên thân sức cho đám thợ ấy gia tâm mà làm”.

     Trong sách Đại Nam Thực Lục Chính biên vào tháng 4 năm Đinh Hợi có ghi: “…Đúc tiền là để dồi dào của cải mà để mãi về sau. Đời Gia Long đúc tiền đồng, tiền kẽm đều đã thông dụng, duy tiền đồng lớn chưa làm đến, Trẫm nghĩ Hoàng Thái Tổ Cao Hoàng đế ta công thần, đức thánh nêu cao trong vũ trụ, nào có cái gì để lưu dấu nghìn năm. Vậy hạ lệnh truy đúc tiền đồng lớn Gia Long Thông Bảo 10.000 quan ( đồng 100 cân, cho trừ hao 15 cân 8 lạng) khi đúc xong sai đem 2.000 quan để ở kho kinh, còn chia đi ở các địa phương chứa giữ ( Gia Định, Bắc thành mỗi thành 600 quan, Quảng Nam, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Sơn Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương, Sơn Tây mỗi nơi 300 quan, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Hòa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên, Ninh Bình mỗi nơi 200 quan…”.

     Thời Gia Long định giá vàng bằng 17 lần giá bạc (1 lượng vàng bằng 17 lượng bạc) và 1 lượng bạc thì giá 2 quan 8 tiền đồng. Thời Minh Mệnh là thời thịnh trị nên nhà vua rất chú trọng đến việc đúc các loại tiền cho tiêu dùng. Vua có dụ rằng: “… Tiên đế giao kho tàng lại cho Trẫm để khi cần cứu trợ nhân dân, vậy thời kho tàng, sản vật, tiền của, lương thực đầy vơi thế nào không thể biết đến. Đúc ra tiền để dân chúng tiêu dùng. Từ ngày nước nhà đúc ra tiền kẽm mới, các tỉnh từ Quảng Bình trở vào Nam đều được tiêu dùng, còn các tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc đều phải tiêu dùng tiền hiệu cũ, và như vậy thứ tiền ngày một hao thất không đáp ứng nhu cầu của dân chúng. Chuẩn từ nay về sau, các kho hàng xuất nhập tiền đều để dân chúng có phương tiện mua đi bán lại và thông dụng tiền kẽm Gia Long, Minh Mệnh Thông Bảo ngõ hầu tiền của và hóa vật được lưu chuyển thông thương. Nếu ai dám đúc trộm đều sẽ bị phạt tội”  Thời vua Minh Mệnh có cho đúc loại tiền lớn hơn một tí, nặng 9 phân để thay đồng tiền 6 phân (lục phân) của vua Gia Long. Nhưng sau đó có lẽ vì đồng 9 phân khó tính thành số tiền cho đủ 1 quan nên tám năm sau vua Minh Mệnh cho đúc tiền Minh Mệnh Thông Bảo đại nghĩa là đồng tiền loại lớn, mỗi đồng nặng 1 tiền và trị giá bằng 60 đồng nhỏ (loại 6 phân), còn tiền 9 phân thôi không đúc nữa”.

Tiền Minh Mệnh Thông Bảo- triều vua Minh Mệnh

     Thời vua Thiệu Trị và Tự Đức, tiền mang niên hiệu Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo. Hai vị vua này vẫn theo cách làm thời vua Minh Mệnh, cho đúc nhiều thoi vàng, nén bạc, những đồng tiền tròn bằng vàng, bằng bạc đúc ra mang sắc thái văn hóa giáo dục với những chữ nho mang đức tính nhân nghĩa, trung hiếu: “…Từ xưa hưng thịnh của các triều đại đều có việc đúc tiền văn. Trẫm buổi đầu lập nghiệp lớn nên cần kịp thời đúc tạo tiền niên hiệu mới, theo thể chế các tiền triều Gia Long và Minh Mệnh để đúc loại tiền mới Thiệu Trị Thông Bảo. Loại tiền đồng hạng lớn 9 phân. Loại tiền đồng nhỏ và tiền kẽm đều nặng 6 phân. Truyền lập tức đem mẫu đó tiến gửi cho Cục Báo hóa Vũ Khố và xưởng đúc tiền Hà Nội, mỗi hạng 1 quan, tất cả theo mẫu để đúc, số nhân công vật liệu cần dùng, theo lệ như trước thực hiện…” (Trích yếu Châu bản tập 7, tờ 90 Thiệu Trị 1 (1841).

     Đến thời vua Tự Đức tiền đúc mang niên hiệu Tự Đức Thông Bảo, tiền đồng loại to nặng 9 phân, tiền đồng loại nhỏ và tiền chì chỉ nặng 6 phân. Mặt sau khác hơn so với các thời trước vì có in một loạt chữ như: Lục Văn, Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh.

Tiền Tự Đức Bảo Sao – triều vua Tự Đức

     Theo sách “Đại Nam Thực Lục chính biên”, tiền này khi đúc còn pha thêm sắt vào. Tiền mang niên hiệu vua Kiến Phúc được đúc nhiều đợt, bắt đầu từ năm 1884 và được đúc ở nhiều nơi. Mặt trước của đồng tiền có khắc chữ Kiến Phúc Thông Bảo, mặt sau để trống. Thời này, quân Pháp đang đánh chiếm Việt Nam, triều chính cũng mất ổn định, ngôi vua thay đổi mấy lần nên sự quan tâm tới kinh tế không nhiều, tiền được đúc với số lượng ít. Khảo cổ học chỉ phát hiện được ít tiền này. Tiền đúc ra chỉ để khẳng định niên hiệu của vua mới chứ tác dụng cho lưu thông không nhiều vì số lượng quá ít.

     Thời vua Hàm Nghi chỉ đúc tiền với số lượng ít, mặt trước của đồng tiền có bốn chữ Hàm Nghi Thông Bảo đọc chéo, mặt sau có hai chữ “ Lục Văn”. Tiền thời vua Đồng Khánh năm 1886 triều đình cho đúc với đường kính 26mm, đến năm 1887 lại cho đúc với đường kính 23mm, mặt trước có bốn chữ Đồng Khánh Thông Bảo đọc chéo, mặt sau để trống. Tiền kim loại được đúc vào các năm 1889-1890 với số lượng ít. Mặt trước có bốn chữ Thành Thái Thông Bảo đọc chéo. Mặt sau để trống. Đường kính khoản 23 mm. Đến năm 1890, triều đình lại đúc tiền Thái Bình Thông Bảo mới mà mặt sau có chữ “Thập văn”. Tiền này đường kính chừng 26 mm.

     Cuối cùng là hai đời vua Duy Tân và Bảo Đại cũng đúc tiền mang niên hiệu của mình là “ Duy Tân Thông Bảo” và “ Bảo Đại Thông Bảo”.

     Như vậy, nói về sự phát triển tiền tệ nhà Nguyễn thì có thể khẳng định rằng đây là một triều đại tiền tệ phát triển rất phong phú.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Châu bản tờ 99, tập 3, Gia Long 16, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

2. Châu bản tờ 46, tập 51, Minh Mệnh 14, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

3. Châu bản tờ 255, tập 53, Minh Mệnh 16, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

4. Châu bản tờ 90, tập 7, Thiệu Trị 1, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

5. Đại Nam Thực Lục chính biên, phần 2.

6. Đỗ Văn Ninh, Tiền cổ Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, 1992.

Trích dẫn: Trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia I

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

 

Download file (PDF): Triều Nguyễn với chính sách đúc và lưu thông tiền tệ (tác giả: ThS. Hoàng Nguyệt)