VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM 1954-1975: những KHUYNH HƯỚNG chủ yếu và THÀNH TỰU HIỆN ĐẠI HÓA (Phần 2)

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
(Giáo sư. Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM)

     1.4. Khuynh hướng văn học tái hiện thân phận con người

     Hai mươi năm chiến tranh đã tàn phá bao làng mạc, ruộng vườn, phố thị trên đất nước, giết hại hàng triệu người Việt Nam ở cả hai miền, để lại những bi kịch sâu sắc trong lòng dân tộc, gây chia rẽ trong nhiều gia đình và nỗi đau trong lòng người. Cuộc biến thiên xã hội trong cơn tao loạn kéo theo những giằng xé trong tâm hồn và chỗ rung động nhất của văn chương vẫn là tiếng kêu, tiếng khóc về thân phận con người trong chiến tranh. Đằng sau những sự kiện chiến tranh và sự phân hóa trong xã hội là những đau khổ chất chồng của dân tộc Việt Nam, là những vết thương khó lành trong từng gia đình, từng tâm hồn người Việt. Chiến tranh là chủ đề tập trung và xuyên suốt trên báo chí và văn học miền Nam những năm tháng đó.

     Nếu những nhà văn miền Nam đi tập kết “ban ngày ở miền Bắc/ ở miền Nam ban đêm” (Tế Hanh), thì nỗi nhớ thương đất Bắc xa vời cũng là một cảm hứng khôn nguôi của những nhà văn di cư, tạo ra những trang viết đẹp về tình cảm và ngôn ngữ: Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, Chuyến tàu trên sông Hồng của Mai Thảo, Căn nhà của mẹ của Thế Uyên, Cái bong bóng lợn của Phan Văn Tạo, Mây mùa thu và Con sáo của em tôi của Duyên Anh,…

     Trong lò lửa chiến tranh, thân phận con người như con sâu cái kiến, bị đưa đẩy, trôi dạt trong guồng máy bạo lực, dẫn đến cái chết thảm khốc với tất cả sự phi lý. Trong cuốn tiểu thuyết mang yếu tố ký sự Vài ngày làm việc ở Chung sự vụ, Nguyên Sa miêu tả tấn thảm kịch của người lính và gia đình của họ qua những cái chết oan uổng và những nhầm lẫn tai hại. Bi kịch cá nhân là hệ quả của bi kịch xã hội.

     Ở nông thôn, những người nông dân mất đất mất làng, chỉ còn hai bàn tay trắng phải tha phương cầu thực, tiếng kêu thấu trời xanh. Trong Bên đập Đồng Cháy của Võ Hồng, số phận bà Lụa cũng là số phận của biết bao người đàn bà nhà quê trong chiến tranh. Trong khi hàng xóm bỏ làng ra đi, bà ngồi một mình trên ngạch cửa, hai giòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má. Bà nhớ lại hình ảnh cô Lụa thời con gái, phải lòng anh Năm Xự nhưng số phận bắt phải góa chồng từ ngày còn rất trẻ, sống dựa vào đứa con trai nhưng rồi người con lại bị bắt lính và chết trận. Hình tượng ám ảnh trong Tiếng chim vườn cũ của Nguyễn Mộng Giác, Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp của Thảo Trường,… cũng là những số phận bi kịch ở thôn quê thời ấy.

     Nơi thành phố, những con người bất hạnh cũng tìm thấy hình ảnh mình trong văn học. Đọc Thềm hoang và Ánh sáng công viên của Nhật Tiến, ta gặp người mù hát rong, cô gái điếm hết thời, người đàn bà góa bụa, đứa bé mồ côi,… Đêm dài một đời của Lê Tất Điều gợi lên niềm cảm thương vô hạn đối với những đứa trẻ khiếm thị trước tương lai mù mịt. Tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền (Khuôn mặt, Bếp lửa, Ung thư,…), Dương Nghiễm Mậu (Con sâu, Đêm tóc rối,…), Phan Nhật Nam (Dấu binh lửa, Ải trần gian,…); truyện ngắn của Y Uyên (Bão khô, Tượng đá sườn non, Chiếc xương lá mục), Nguyễn Đức Sơn (Cái chuồng khỉ, Cát bụi mệt mỏi),… biểu hiện những dằn vặt, âu lo của con người trước cái chết và sự hủy diệt.

     Tình yêu trong chiến tranh không còn là tình yêu trắc trở vì môn đăng hộ đối, vì hiểu lầm với những giận hờn vô cớ như văn học thời Tự lực văn đoàn mà là tình yêu tương tranh với từng phút giây của cuộc sống, với cái chết khắc nghiệt. Tiểu thuyết đô thị miền Nam không chỉ miêu tả tình yêu mà còn tra vấn về chính bản thể và sự hiện hữu của tình yêu, khi tình yêu bị hoài nghi trước nỗi cô đơn bất tuyệt của con người và những yêu sách của tính dục.

     Thế giới nhân vật nữ bây giờ không đặc trưng bằng những người phụ nữ đoan chính như Mai (Nửa chừng xuân, Khái Hưng) hay xung đột với đại gia đình như Loan (Đoạn tuyệt, Nhất Linh) mà là những người đàn bà nổi loạn với chính kiếp người, hờn tủi với số phận và lắm khi để mình buông xuôi theo dòng đời. Một hiện tượng đáng chú ý là sự xuất hiện của các nhà văn nữ để nói lên tiếng nói của “giới thứ hai”: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Bà Tùng Long, Minh Đức Hoài Trinh, về sau có thêm Lệ Hằng, Trần Thị NgH,… Đọc các nhà văn này, có thể cảm nhận bi kịch và khát vọng của người nữ trong chiến tranh. Mặc dù chất lượng tác phẩm không đều, những tác giả này đã đặt ra điều mà ngày nay gọi là ý thức nữ quyền trong văn học.

     1.5. Khuynh hướng văn học thương mại hóa

     Trong giai đoạn 1954-1975 những yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất hiện ở miền Nam qua hoạt động của các nhà tư sản dân tộc làm cho sản xuất bước đầu phát triển, hàng công nghệ phẩm được cung cấp tương đối đầy đủ cho dân chúng. Biệt thự, chung cư, cao ốc, nhà hàng, khách sạn, vũ trường, quán nước mọc lên ngày càng nhiều ở các đô thị. Ngoài Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, các ngân hàng thương mại được thành lập và có chi nhánh ở những thành phố lớn.

     Dù chỉ phục vụ một bộ phận thị dân, xã hội tiêu thụ đã hình thành bước đầu ở miền Nam. Trước hết, đó là nhờ các khoản viện trợ của Mỹ. Ngoài hàng tỉ đô-la viện trợ quân sự mỗi năm, Mỹ còn đổ vào miền Nam những khoản viện trợ về kinh tế. Có thể nói, chủ yếu nhờ ngoại viện mà mức sống của cư dân các đô thị, đặc biệt là những nơi có quan hệ mật thiết với người Mỹ, được nâng cao. Đồng thời, chính sách kinh tế của chính phủ cho phép nhập khẩu những mặt hàng xa xí phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của giới trung lưu mới xuất hiện.

     Vào cuối những năm 1960 – đầu những năm 1970, ở miền Nam, trên các phương tiện truyền thông đại chúng như nhật báo, báo định kỳ, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh, bích chương…, thị phần quảng cáo ngày càng mở rộng để kích thích sự tiêu dùng của quần chúng, thỏa mãn tâm lý hưởng thụ, thậm chí tạo ra và làm lây lan những nhu cầu mới cho người tiêu dùng. Các loại máy thu hình, xe gắn máy, xe hơi, hàng điện lạnh, các kiểu áo quần, giày dép, các nhãn hiệu thuốc lá, bia rượu, mỹ phẩm,… luôn được cập nhật trên thị trường và được đông đảo thị dân ưa chuộng.

     Mặc dù chưa có một nền công nghiệp phát triển và sản xuất có lúc bị đình đốn vì chiến tranh leo thang, nhưng nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975.

     Có thể ghi nhận dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, đại đa số cơ sở báo chí và xuất bản văn học là của tư nhân. Số lượng báo chí và nhà xuất bản trên lĩnh vực này do các cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp không nhiều và cũng không có ảnh hưởng đáng kể. Chính quyền can thiệp vào đời sống báo chí và xuất bản chủ yếu bằng việc tài trợ cho một số cơ sở có lợi cho Nhà nước, bằng chính sách trợ giá đối với giấy in và nhất là bằng chế độ kiểm duyệt với các sắc lệnh đi ngược lại quyền tự do xuất bản và báo chí đã ghi trong Hiến pháp, mà căn cứ vào đó chính quyền có thể tịch thu, truy tố tờ báo hay nhà xuất bản ra tòa.

     Khuynh hướng văn học thương mại hóa thể hiện trong những sáng tác trên báo chí chủ yếu thỏa mãn nhu cầu giải trí của công chúng. Hầu hết các nhật báo đều dành một trang để đăng khoảng 5-6 tiểu thuyết nhiều kỳ, trong đó có một vài tiểu thuyết kiếm hiệp dịch từ tiếng Hoa, còn lại chủ yếu là tiểu thuyết tình cảm của An Khê, Dương Hà, Nguyễn Thụy Long, Lê Xuyên, Hoài Điệp Tử,… Đó còn là sản phẩm của những nhà xuất bản chuyên ấn hành tiểu thuyết kiếm hiệp, truyện kinh dị, siêu nhân,…

     Khuynh hướng thương mại hóa của báo chí và xuất bản đã gây ra hậu quả tầm thường hóa văn học như hiện tượng đổ xô viết tiểu thuyết feuilleton, đua tranh dịch sách về tính dục, đề cao quá đáng Kim Dung, Quỳnh Dao; nhưng đặt trong bối cảnh thị trường, thì điều đó cũng dễ hiểu khi văn học trở thành hàng hóa tiêu thụ đáp ứng bữa ăn tinh thần đa dạng của độc giả.

     Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, sinh hoạt văn học đi xuống đến mức Nguyễn Mộng Giác than phiền: “Hỗ trợ cho loại sách cung cấp tình yêu đủ màu đủ vẻ là hoạt động ấn loát chú trọng đến thương mãi, và hầu như đó là ưu tư duy nhất của các nhà xuất bản […]. Thương mãi đã tràn lan lấn át phần nghệ thuật, đẩy nghệ thuật vào phần đất hẹp khiêm nhượng và lẻ loi”2. Vì vậy, khuynh hướng văn học thương mại hóa ít tác phẩm có giá trị lâu dài; một số tác giả viết tiểu thuyết feuilleton cũng không muốn in tác phẩm của mình thành sách.

     Năm khuynh hướng văn học trên đây không tồn tại và phát triển biệt lập mà đan xen, tương tác và giao thoa lẫn nhau. Trên cùng một tờ báo hay trong cùng một nhà xuất bản từng xuất hiện những tác phẩm thể hiện các khuynh hướng trái nghịch nhau. Yếu tố nhân đạo và dân chủ, khát vọng hòa bình và thống nhất, lúc đậm lúc nhạt, có thể tìm thấy trong tác phẩm của những nhà văn khác nhau về lập trường chính trị và nghệ thuật. Bản thân từng khuynh hướng cũng như từng nhà văn thuộc về một khuynh hướng nhất định cũng có những thay đổi và chuyển biến dưới tác động của lịch sử và thời cuộc.

2. Thành tựu hiện đại hóa

     Trong khoảng thời gian 20 năm biến đổi về chính trị, xã hội và trong một bối cảnh nghẹt thở vì chiến tranh, văn học miền Nam có một số đóng góp đáng kể trên con đường hiện đại hóa văn học. Về vấn đề này, so với văn học giai đoạn 1932-1945, sáng tác văn học miền Nam cũng có những đổi mới đáng ghi nhận trên các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút.

     Về thơ, trên địa bàn văn học miền Nam diễn ra đồng thời hai thực tế này: trong nhà trường và trong một bộ phận lớn công chúng và văn nghệ sĩ, Thơ Mới lãng mạn vẫn được vinh danh và ưa chuộng; nhưng trong giới sáng tác văn học bắt đầu hình thành những xu hướng cách tân tìm cách kháng cự lại ảnh hưởng của Thơ Mới. Họ giảm bớt sự hào hứng với các thể thơ bảy chữ, tám chữ vốn là sở trường của Thơ Mới, để thể nghiệm điệu tâm hồn thời đại trong thơ tự do và thơ văn xuôi.

     Có thể nói, sau 1954, thơ tự do và thơ văn xuôi tìm được môi trường phát triển thuận lợi ở miền Nam với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nhất Hạnh, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Nh. Tay Ngàn,… và cả những nhà thơ khuynh tả như Diễm Châu, Ngô Kha, Nguyễn Quốc Thái, Trần Vàng Sao, Lê Văn Ngăn,… Điều thú vị là thơ tranh đấu ở miền Nam giai đoạn ấy gần với thơ cách mạng về cảm hứng, tình điệu, nhưng lại gặp gỡ với thơ tự do trên các báo Nhân văn – Giai phẩm ở miền Bắc và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật,… ở miền Nam về hình thức hơn là Thơ Mới lãng mạn mà các tác giả từng thuộc lòng trong nhà trường.

     Như vậy, thơ tự do ở miền Nam cho thấy ảnh hưởng của Thơ Mới không bao trùm thơ Việt Nam nửa cuối thế kỷ 20. Sự liên kết giữa các câu thơ trong một khổ thơ, giữa các khổ thơ trong một bài thơ mới lãng mạn bao giờ cũng làm hiển lộ tính chất lô-gích nào đó. Nhưng sự liên kết đó trong thơ tự do hiện đại chủ nghĩa nhiều khi gây cho ta cảm giác phi logic, hay đúng hơn là logic của cái phi lý. Sự tuyển chọn của nhà thơ không dễ đoán định và nó nổi bật ấn tượng về sự lạ hóa trong kết hợp.

     Nói như vậy không có nghĩa là các nhà thơ không còn làm thơ lục bát hay thơ luật Đường. Nhưng những thể thơ này cũng gắn liền với ngôn ngữ thời đại. Chính Nguyên Sa, nhà thơ trữ tình với những vần thơ tình yêu tuyệt đẹp (Tuổi mười ba, Áo lụa Hà Đông, Tháng sáu trời mưa,…), đến một lúc đã viết những câu thơ lục bát đầy chất bụi bặm của cuộc đời thường nhật (Sân bắn, Tu, Thư cho bạn,…). Còn thơ lục bát của Bùi Giáng thì hóa kiếp cho cả những cánh bướm, cánh chuồn chuồn, con kiến, con vi trùng, sâu bọ cùng hoa hoang cỏ dại qua ngôn ngữ tân thời. Ngôn ngữ thơ hiện đại vẫn có thể kết hợp với những thể thơ truyền thống trong tác phẩm của Tô Thùy Yên, Nhã Ca, Minh Đức Hoài Trinh, Hoài Khanh, Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh, Phạm Nhuận, Kim Tuấn, Hà Nguyên Thạch, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Phan Nhự Thức,… Bên cạnh đó là những nhà thơ trẻ góp phần làm sinh sắc đời sống thi ca: Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hữu Định, Cao Thoại Châu, Mường Mán, Từ Hoài Tấn, Võ Chân Cửu, Trần Dzạ Lữ, Joseph Huỳnh Văn,…

     Về văn xuôi, sự đổi mới nghệ thuật có thể ghi nhận trên hai phương diện sau đây:

     Một là sự vận dụng phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, kỹ thuật dòng ý thức để miêu tả thế giới và con người trong truyện ngắn, tiểu thuyết. Tuy chưa thành công trọn vẹn, nhưng có một số kết quả bước đầu đáng chú ý như Hồi chuông tắt lửa của Thế Nguyên, Đêm ngủ ở tỉnh của Hoàng Ngọc Biên, Đêm xóm Lách mịt mùng của Thanh Tâm Tuyền,…

     Hai là sự hình thành một số hiện tượng mới như văn xuôi triết lý (Nẻo về của Ý của Nhất Hạnh, Mặt trời không bao giờ có thực của Phạm Công Thiện), tiểu thuyết ký sự (Trong một ngày của một người của Thái Lãng, Vòng đai xanh của Ngô Thế Vinh,…) và sự phát triển của thể tùy bút (Đất nước quê hương của Võ Phiến, Căn nhà vùng nước mặn của Mai Thảo, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng,…).

     Ngôn ngữ văn chương thời này cũng có những thay đổi: ngôn ngữ trau chuốt, tinh tế của văn xuôi miền Bắc tồn tại song song và trong sự tác động qua lại với ngôn ngữ bộc trực, sống động của văn xuôi miền Nam. Những phong cách nghệ thuật đa dạng, từ bác học đến bình dân, từ văn chương hoa mỹ đến khẩu ngữ, từ hiện đại đến truyền thống,… cùng hiện diện trong một địa bàn văn học luôn sôi nổi với những hiện tượng mới. Ảnh hưởng của báo chí đối với văn học cũng làm cho ngôn ngữ trong tác phẩm linh hoạt hơn, đồng thời dễ dãi hơn. Những câu văn đối thoại ngắn, những liên tưởng với hình ảnh dân dã đặc trưng cho lối nói của người miền Nam đi vào tiểu thuyết và được độc giả bình dân ưa chuộng. Trong khi đó, hướng đến thành phần công chúng chọn lọc, một số nhà văn nỗ lực sáng tạo ngôn ngữ trong thơ và văn xuôi, qua việc tiếp nhận các trào lưu văn học hiện đại như chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, dòng ý thức, tiểu thuyết mới,… Xét riêng về mặt hình thức, có thể nhận thấy sự khác biệt này qua tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Ngô Kha, Diễm Châu, Du Tử Lê, Nguyễn Quốc Thái, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Thế Nguyên, Thế Uyên, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Đức Sơn, Cung Tích Biền, Nguyễn Xuân Hoàng, Túy Hồng, Hoàng Ngọc Biên, Trần Thị NgH,…

     Ở miền Nam, so với thơ và văn xuôi, kịch bản văn học ít có thành tựu bằng. Những vở kịch đặc sắc không nhiều, lại càng ít được dàn dựng trên sân khấu. Những kịch tác gia như Vũ Khắc Khoan, Trần Lê Nguyễn, Dương Kiền, Vũ Lang (Nguyễn Khắc Ngữ), Lữ Kiều (Thân Trọng Minh),… không chuyên tâm dài lâu cho sáng tác kịch bản. Trong khi đó, những đoàn kịch ăn khách thường đầu tư dàn dựng những vở kịch đại chúng để chia sẻ thị phần với loại hình cải lương là đặc sản yêu thích của người miền Nam. Đoàn kịch Thụ Nhân của Viện Đại học Đà Lạt là một trường hợp thử nghiệm nghệ thuật hiếm hoi nhưng sức lan tỏa còn hạn chế.

     Trong nhà trường đại học và trên sách báo, những trào lưu sáng tác, những trường phái triết học, mỹ học, nghiên cứu và phê bình văn học được giới thiệu khá phong phú và cập nhật. Điều đó một phần do nhu cầu của công chúng, phần khác do ý thức xây dựng một nền văn học và giáo dục khai phóng, theo tinh thần mở rộng về giao lưu văn hóa. Sách về phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới,… được dịch thuật và bước đầu vận dụng vào nghiên cứu, sáng tác. Xuất hiện nhiều công trình khảo cứu, với cả những ưu điểm và hạn chế có tính lịch sử, về triết học và văn học phương Tây của các tác giả: Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Văn Hiến Minh, Lê Thành Trị, Bùi Xuân Bào, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Vũ Đình Lưu, Bửu Ý, Thạch Chương, Thế Phong, Trần Đỗ Dũng, Đặng Phùng Quân,… Nhờ tiếp thu những lý thuyết mới mà phê bình văn học ở miền Nam, tuy không phát triển tương xứng với sáng tác, nhưng cũng đã có những tìm tòi, phát hiện với Lê Tuyên, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Lê Huy Oanh, Huỳnh Phan Anh, Cao Huy Khanh, Trần Văn Nam,…

     Tư tưởng văn nghệ hiện đại phương Tây được phân tích và giới thiệu cặn kẽ trên các trang tạp chí trước khi được tập hợp để xuất bản thành sách đã có ảnh hưởng nhất định đến các nhà văn. Cùng với điều đó là việc dịch thuật và quảng bá các tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại nước ngoài. Sự tiếp thu của các nhà văn có thể tinh, có thể thô, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi cái nhìn về thế giới và cách thể hiện thân phận con người, kỹ thuật miêu tả cũng như bút pháp. Báo chí thời kỳ này thực sự là bà đỡ cho các nhà văn trẻ, những người thường được vinh danh là “những cây bút sẽ đi xa trong tương lai”. Hầu như các cây bút làm thơ, viết truyện ngắn thành danh đều đi qua cánh cửa của báo chí, đặc biệt là các tạp chí văn nghệ (Văn, Bách khoa, Văn nghệ, Văn học, Vấn đề, Khởi hành, Thời tập,…), nơi những tài năng trẻ trong sáng tác văn học được khẳng định.

     Dịch thuật là hoạt động có đóng góp lớn vào việc hiện đại hóa văn học và là lĩnh vực mà những cây bút ở miền Nam trước đây có thành tựu rõ nhất. Không kể những nền văn học có truyền thống giao lưu lâu đời với nước ta như văn học Trung Quốc, văn học Pháp; một số nền văn học khác cũng được giới thiệu. Nhiều tác phẩm văn học phương Tây và phương Đông của các tác gia H. de Balzac, A. France, A. Gide, J.P. Sartre, A. Camus, Saint-Exupéry, A. Malraux, A. Maurois, N. Kazantzaki, E. Hemingway, W. Faulkner, P. Buck, J. Steinbeck, S. Beckett, J. Baldwin, E. M. Remarque, T. Mann, H. Boll, F. Duerrenmatt, M. West, H. Hesse, S. Mrozek, Ch. Y. Agnon, E. Ionesco, I. Andritch, A. Paton, Ch. Achebe, J. Amado, S. Maugham, E. Caldwell, R. Tagore, K. Gibran, Y. Kawabata, Oe Kenzaburo, Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường,… đã được chuyển ngữ và xuất bản khá sớm. Điều thú vị là ở Sài Gòn lúc đó có lẽ không mấy người biết tiếng Nga, nhưng qua trung gian tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều tác phẩm văn học Nga được dịch thuật và xuất bản: văn học cổ điển Nga với L. Tolstoi, F. Dostoievski, I. Turghenev, A. Tshekhov,…; văn học Nga Xô-viết với M. Gorki, V. Maiakovski, M. Sholokhov, E. Evtushenko,…; văn học phản kháng với B. Pasternak, A. Solzhenitsyn, A. Tertz, V. Dudintsev,…

     Tuy nhiên, những biến động liên tục của xã hội miền Nam đã làm phân tán sự tập trung nỗ lực hiện đại hóa văn học. Nhiều tài năng trẻ đứng ở ranh giới sống chết, không đi đến cùng sự nghiệp văn học. Các tạp chí và nhà xuất bản chuyên về văn học phải rất vất vả mới duy trì sự tồn tại của mình.

__________
2 Nguyễn Mộng Giác (1975), “Nghĩ về thơ, truyện 1974”, Tạp chí Bách Khoa, số đặc biệt Xuân Ất Mão 1975, tr.30.

KẾT LUẬN

     Có thể khẳng định rằng trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã xuất hiện nhiều tác phẩm mang phẩm cách dân tộc, tinh thần nhân đạo, dân chủ và giá trị nghệ thuật theo hướng cách tân và hiện đại. Những tác phẩm này xuất hiện trên cái nền của một hoạt động sáng tác và xuất bản rất phong phú, đa dạng và phức tạp của nhiều khuynh hướng khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ thuật.

     Giới trí thức thời nào cũng có những đại biểu cho tinh thần nhân bản, cho tinh hoa văn hóa và ngôn ngữ dân tộc mà cội rễ luôn ăn sâu vào mọi tâm hồn Việt Nam. Tài năng sáng tạo gắn liền với tình yêu đất nước, tình yêu con người, tình yêu đối với văn hoá dân tộc, đối với tiếng Việt đã góp phần tạo nên những giá trị nghệ thuật trong văn học miền Nam giai đoạn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lữ Phương (1981). Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Hà Nội: Văn hóa.

2. Nguyễn Công Khanh (2006). Lịch sử báo chí Sài GònTP Hồ Chí Minh 1865-1995. TP Hồ Chí Minh: Tổng hợp.

3. Nguyễn Vy Khanh (2016). Văn học miền Nam 1954-1975: nhận định, biên khảo và thư tịch. Toronto: Nguyễn Publishings.

4. Thế Nguyên (1979). “Báo chí và xuất bản miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy”, trong Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy. Tập II. Hà Nội: Văn hóa.

5. Trần Hữu Tá (2000). Nhìn lại một chặng đường văn học. TP Hồ Chí Minh: Tổng hợp.

6. Trần Trọng Đăng Đàn (2000). Văn hóa văn nghệ … Nam Việt Nam 1954-1975. Hà Nội: Văn hóa – Thông tin.

7. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên, 1988). Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Tập 2. TP Hồ Chí Minh: NXB TP Hồ Chí Minh.

8. Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan (2007). Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh. TP Hồ Chí Minh: Tổng hợp & Văn hóa Sài Gòn.

9. Võ Phiến (2000). Văn học Miền Nam – tổng quan. California: Văn nghệ.

10. Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Phan (2008). Văn học thời kỳ 1945-1975 ở Thành phố Hồ Chí Minh. TP Hồ Chí Minh: Tổng hợp & Văn hóa Sài Gòn.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay.
NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2019 (từ  trang 710 đến trang 723)

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)