Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương (Phần 1)

LÊ THỊ THÙY
(Khoa Chính trị và Tâm lý giáo dục, Trường Đại học Hùng Vương)

TÓM TẮT

     Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương được đan hòa trong chính những giá trị vật chất và tinh thần của con người thời kỳ này. Bài viết tập trung phân tích một số biểu hiện trong đời sống thẩm mỹ thông qua đời sống vật chất của người Việt thời kỳ Hùng Vương. Trên cơ sở đó, bài viết khẳng định sâu sắc hơn giá trị và tự hào Việt Nam, trong đó có các giá trị thẩm mỹ dân tộc.

     Từ khóa: Đời sống thNm mỹ, đời sống vật chất, người Việt, thời kỳ Hùng Vương.

Phân loại ngành: Triết học

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Đời sống thẩm mỹ là một lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những hoạt động thể hiện khả năng sáng tạo, cảm thụ, hiểu biết về cái đẹp và các khía cạnh thẩm mỹ khác trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó được đan hòa trong chính những giá trị vật chất và tinh thần của con người.

     Từ thời tiền sử, tư duy thẩm mỹ của người Việt đã có sự thống nhất với tư duy thực dụng. Tính khắc nghiệt của thiên nhiên, của nhu cầu lao động sản xuất và chiến đấu để sinh tồn, buộc người Việt thời kỳ Hùng Vương phải chú ý trước hết đến các giá trị sử dụng của vật dụng, những giá trị lợi ích của các loại hình lao động và sản xuất nông nghiệp. Sau đó, họ bắt đầu quan tâm tới việc làm sao để vật dụng gọn gàng hơn, bắt mắt hơn, và như thế các giá trị thẩm mỹ ra đời. Sự thống nhất giữa giá trị thực dụng (đời sống vật chất) và giá trị thẩm mỹ (đời sống tinh thần) là một đặc trưng tiêu biểu trong đời sống thẩm mỹ cũng như ý thức thẩm mỹ của người Việt từ trong lịch sử mà những người làm nghiên cứu không thể bỏ qua. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giá trị thẩm mỹ đã nổi lên như một nhân tố độc lập do sự phát triển của nhu cầu thẩm mỹ bắt đầu được hình thành.

     Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: “Đời sống vật chất bao gồm hai bộ phận cấu thành cơ bản là hoạt động kinh tế và cuộc sống hằng ngày” [3, tr.284]. Thời kỳ Hùng Vương, hoạt động kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước dùng cày với sức kéo của trâu bò phát triển; đẩy mạnh sản xuất thủ công, đặc biệt là luyện kim – một nghề đòi hỏi công sức chuyên môn của nhiều người, cũng như chi dùng cho hàng loạt hoạt động xã hội và tôn giáo khác dần được đẩy mạnh. Điều đó cho thấy, văn hóa vật chất góp phần thể hiện yếu tố mỹ cảm của người Việt thời kỳ này. “Cuộc sống hằng ngày bao gồm các mặt ăn, ở, mặc, đồ dùng hằng ngày, giao thông… không chỉ phụ thuộc vào trình độ và đặc điểm phát triển kinh tế, mà còn chịu sự chi phối trực tiếp của điều kiện tự nhiên, môi trường và nhiều yếu tố khác như truyền thống, tập quán, quan điểm thNm mỹ…” [3,tr.284]. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích làm rõ biểu hiện của đời sống thẩm mỹ người Việt thời kỳ Hùng Vương thông qua hoạt động sản xuất; qua cuộc sống hằng ngày; và chế tạo vũ khí.

2. Đời sống thẩm mỹ trong hoạt động sản xuất của người Việt thời kỳ Hùng Vương

     Đời sống thẩm mỹ trong sản xuất của người Việt thời kỳ Hùng Vương trước những hoàn cảnh tự nhiên, xã hội nhất định thể hiện qua cách ứng xử ở các loại hình văn hóa khác nhau. Trước hết là sự phù hợp và phát huy các yếu tố lợi thế của tự nhiên bởi “một trong nhiều loại hình cái đẹp là sự hài hòa giữa tự nhiên với những mục đích và nhu cầu thực tiễn của con người” [2, tr.191]. Không phải ngẫu nhiên mà người Việt thờikỳ Hùng Vương lựa chọn, gắn bó với nghề trồng lúa nước. Đó không chỉ là nghề để sinh tồn mà thể hiện rõ tính tất yếu của sự thích nghi, hợp lý trước hoàn cảnh tự nhiên. Trong môi trường cảnh quan thuận lợi nhất, khí hậu nhiệt đới gió mùa, sự dồi dào nguồn nước, ánh sáng và nhiệt độ, cây lúa không chỉ đủ mà còn dư thừa những điều kiện để sinh trưởng, đâm bông kết hạt. Không phải ngẫu nhiên mà những đồng bằng phù sa phì nhiêu của ba hệ thống sông lớn nhất miền Bắc (sông Hồng, sông Mã, sông Cả) đã trở thành địa bàn tụ cư chủ yếu nhất của cư dân thời kỳ Hùng Vương. Ngay cả khi, họ phải đi đến những vùng đất ít thuận lợi hơn ở vùng núi, vùng trung du, thì nơi họ chọn ở vẫn là những thung lũng, vùng đất thấp ven sông, nơi có đủ điều kiện tiếp tục sống bằng nghề trồng lúa nước là chính. Ngoài trồng lúa, ở thời kỳ Hùng Vương, người Việt còn phát triển nhiều giống cây trồng vùng nhiệt đới khác như các loại cây củ, rau, bầu bí, cây ăn quả… của chăn nuôi gia súc quy mô nhỏ và đặc biệt là đánh bắt cá và các loài thủy sản khác. “Sống trong môi trường như vậy, người Đông Sơn thể hiện rõ xu hướng mở rộng các loại hình hoạt động kinh tế nông nghiệp khai thác đến mức tối đa nguồn lợi do thiên nhiên đem lại và họ đã tạo ra được một nền nông nghiệp có định hướng rõ ràng, nhưng cũng rất linh hoạt, đa dạng” [3, tr.287].

     Bên cạnh nghề trồng lúa, người Việt thời kỳ Hùng Vương thích nghi với tự nhiên bằng nghề đánh cá, hái lượm, khai thác rừng và săn bắn. Sống trong môi trường liền kề sông nước, đầm hồ, người Việt thời kỳ này tiếp thu kinh nghiệm và các phương pháp đánh bắt của những người đi trước, rồi nâng cao lên những bước mới nhờ áp dụng những thành tựu kỹ thuật mới. Họ sử dụng phương tiện và phương pháp thô sơ, đơn giản như: câu, lưới và các loại đồ đan bằng tre, nứa. Phương tiện đi trên sông nước là thuyền bè cũng phát triển tiến bộ. “Mô típ thuyền trang trí trên các đồ đồng lớn không chỉ nói lên vai trò quan trọng của nó trong đời sống người Đông Sơn, mà còn cho biết khả năng đóng những con thuyền lớn, đẹp của những người thợ mộc Đông Sơn” [3,tr.300]. Điều đó không chỉ cho thấy sự phát triển nghề đánh bắt thủy sản mà còn cho thấy kỹ thuật đóng thuyền thành thục và đầy óc thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương.

     Xuất phát từ nguồn lợi về tài nguyên khoáng sản với các mỏ cổ như “mỏ đa kim ở huyện Kỳ Sơn, trên bờ hữu ngạn sông Đà, có dấu vết của việc khai mỏ thời Hậu Lê; khu mỏ đồng Bát Xát, Làng Nhơn thuộc Hoàng Liên Sơn (cũ); mỏ đồng Đá Chông, Yên Cư ở huyện Ba Vì…” [3, tr.303] nằm ở vị trí thuận tiện giao thông, là những điểm quặng nhỏ, trữ lượng không lớn, nằm lộ thiên hoặc nông dưới mặt đất, dễ khai thác bằng công cụ thô sơ nên người Việt thời kỳ Hùng Vương đã đạt tới trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc trong kỹ thuật luyện kim, đúc đồng. Từ các kim loại đồng, thiếc, chì… thu được nhờ luyện quặng, người Việt đã pha chế thành các hợp kim khác nhau để đúc ra các loại hình đồ đồng, đồ sắt cần thiết. Cùng với đó là sự tồn tại, phát triển của nghề chế tạo đồ gốm, chế tạo thủy tinh, nghề mộc và sơn, nghề dệt vải, nghề đan lát, nghề chế tác đá trên cơ sở sử dụng các nguyên vật liệu từ tự nhiên. Nhờ có sự sáng tạo hợp lý, thích hợp với điều kiện tự nhiên, người Việt thời kỳ Hùng Vương đã làm cho đời sống vật chất và cả đời sống thẩm mỹ của mình vừa phong phú lại vừa có sắc thái riêng.

     Trong hoạt động sản xuất, tính thẩm mỹ trong tư duy của người Việt thời kỳ Hùng Vương còn thể hiện ở việc sáng tạo để đạt tới những thành tựu kỹ thuật to lớn trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và các hoạt động sản xuất khác nói chung. Họ đã biết làm nông nghiệp trồng lúa bằng cày, tận dụng sức kéo của trâu, bò; biết làm nghề luyện kim đồng, sắt, làm gốm, mộc, đan dệt… biết tuân theo quy luật khách quan để tiến hành sản xuất “ruộng này theo thủy triều lên xuống mà làm… Ý kiến cho rằng điều đó ám chỉ việc tháo nước vào ruộng theo con nước thủy triều không phải không có cơ sở” [3, tr.298].

     Trong đó, không thể không nói tới sự tiến bộ về công cụ sản xuất. “Công cụ sản xuất của cư dân Phùng Nguyên chủ yếu làm bằng đá. Đó là những chiếc rìu, chiếc vời mài nhẵn hoàn toàn. Kỹ thuật chế tác đá của người Phùng Nguyên thật là điêu luyện. Có thể nói rằng trong lịch sử nguyên thủy Việt Nam, chính chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên đã đưa kỹ thuật chế tác đá lên đến đỉnh cao nhất. Các phương pháp cưa, mài, khoan, tiện được sử dụng thành thạo” [5, tr.479-480].

     Công cụ cuốc, loại nông cụ có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài nhất đã cho thấy tư duy sáng tạo thNm mỹ để đạt tới sự hoàn thiện hơn của người Việt thời kỳ Hùng Vương. Cuốc đá của thời đầu Hùng Vương đã được thay thế bằng cuốc đồng, vào giai đoạn cuối Hùng Vương xuất hiện cả cuốc sắt. “So với cuốc đá và cuốc đồng, cuốc sắt có ưu thế hơn hẳn… Lưỡi cuốc kim loại nhẹ nhàng hơn, cứng rắn và sắc bén hơn, lại dễ tra cán hơn, tất nhiên sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn” [3, tr.292]. Điều đó vừa nâng cao năng suất lao động lại vừa đảm bảo tính thẩm mỹ, hướng đến ngày càng hiệu quả hơn của các công cụ. Nói cách khác, người Việt thời kỳ Hùng Vương đã nhận thức rõ tính có ích của các công cụ và thấy rằng đó chính là một khía cạnh của cái đẹp, cái thẩm mỹ.

     Cái đẹp trong tư duy thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương cũng bộc lộ ở sự tương trợ trong mối quan hệ qua lại, hai chiều giữa các ngành sản xuất. Vì nông nghiệp thời kỳ này đã phát triển đến một trình độ khá cao nên các ngành nghề thủ công có điều kiện mở rộng và tăng trưởng. “Đến lượt mình, các nghề thủ công, mà trước hết là nghề luyện kim, đã tác động trở lại nông nghiệp bằng cách cung cấp cho nông nghiệp những công cụ lao động có hiệu quả cao hơn hẳn các loại công cụ cũ, làm cho nông nghiệp phát triển vượt bậc. Đương nhiên thủ công nghiệp phát triển không chỉ nhờ và chỉ để phục vụ nông nghiệp. Nó còn chịu chi phối bởi nhiều yếu tố khác” [3, tr.301], trong đó điển hình là chiến tranh giữa các bộ lạc, liên minh bộ lạc trong quá trình hình thành nhà nước, chiến tranh chống sự xâm nhập của phong kiến phương Bắc…

     Như vậy, “Trong quá trình tiến hành sản xuất, cư dân Văn Lang – Âu Lạc không chỉ tạo ra những vật dụng hữu ích cho đời sống hằng ngày như đồ gốm, đồ trang sức, đồ đồng… một cách giản đơn, khô cứng mà họ còn thể hiện tư duy trừu tượng, tính thẩm mỹ cao trong việc tạo dáng, vẽ hình, trang trí, chạm khắc, tạo tượng… trên các đồ vật để có thể sáng tạo ra các tác phẩm vừa sắc sảo lại vừa phong phú với những nét đẹp bình dị, hài hòa, phản ánh đầy đủ tư duy, tình cảm và cuộc sống con người thời đó” [1, tr.667]. Thông qua hoạt động sản xuất, chúng ta thấy ở người Việt thời kỳ Hùng Vương một đời sống thNm mỹ hài hòa với những yếu tố phù hợp giữa con người với thiên nhiên, con người với con người; tính có ích của các vật dụng tiến hành sản xuất…

3. Đời sống thẩm mỹ trong cuộc sống hằng ngày của người Việt thời kỳ Hùng Vương

     Trong cuộc sống hằng ngày, tính hợp lý, thích nghi, hài hòa thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương được khắc họa rõ nét hơn. “Từ việc lựa chọn nơi sinh cơ lập nghiệp, xây cất nhà cửa đến tập quán ăn mặc, đi lại… đều phản ánh sự thích ứng hòa nhập với nền tảng kinh tế và điều kiện thiên nhiên” [3, tr.331] vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, sông ngòi, ao hồ sẵn, rừng rậm bao quanh… Người Việt thời kỳ Hùng Vương chọn cho mình những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đồi đất… nhưng bao giờ cũng tuân thủ nguyên tắc nằm gần các con sông lớn hay chi lưu của chúng. “Người Đồng Đậu cũng như người Phùng Nguyên – Gò Mun – Đông Sơn thường sống trên các đồi gò thấp bằng phẳng” [4, tr.97]. Từ đó họ xây nhà sàn mái cong hoặc nhà mái tròn. “Việc lựa chọn nhà sàn của người Việt cổ thể hiện lối ứng xử thông minh trước môi trường sinh thái của họ” [3, tr.336]. Cùng với đó, họ cũng “khẳng định chiến lược calo của mình, chiến lược mà những tiền bối của họ đã chọn: lấy thực vật và thủy sản làm thức ăn chủ yếu” [3, tr.346]. “Mô hình cơm – rau – cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hòa hợp cao độ của người Đông Sơn với môi sinh” [3, tr.349].

     Về trang phục, người Việt thời kỳ Hùng Vương cũng thể hiện tính thẩm mỹ của mình trong sự hòa hợp với thiên nhiên và điều kiện sản xuất, sinh hoạt, điều kiện kinh tế – văn hóa xã hội, yếu tố truyền thống và quan điểm thẩm mỹ của họ. Trang phục thể hiện rõ tính chất trang phục của cư dân vùng nhiệt đới nóng ẩm. Quần áo, váy, khăn… cắt may đơn giản, nhẹ nhàng từ những loại vải mỏng thoáng; đồng thời cũng phản ánh phần nào trình độ phát triển kinh tế – xã hội đương thời, một xã hội có nền kinh tế phát triển, có những sinh hoạt cộng đồng phong phú, có sự phân hóa giàu nghèo rõ nét từ đầu tóc (kiểu tóc cắt ngắn, kiểu búi tó, kiểu tết bím, kiểu quấn tóc ngược lên đỉnh đầu), đến lối ăn mặc, đồ trang sức. Đặc trưng nổi bật của trang phục thời kỳ Hùng Vương là “tính giản dị, gọn gàng, thích nghi cao độ với khí hậu, thiên nhiên và tính chất lao động. Hình ảnh người đàn ông tóc cắt ngắn hay búi tó, cởi trần, đóng khố, chân đi đất, còn phụ nữ thì tóc vấn cao trên đầu, mặc yếm nhỏ chỉ để che phần ngực, váy chui dài quá đầu gối, chân đi đất, không xa lạ gì với chúng ta” [3, tr.345]. Với những đặc trưng đó, thời kỳ Hùng Vương và người Việt thời kỳ Hùng Vương đã đặt những viên gạch móng đầu tiên cho truyền thống, bản sắc và tính thẩm mỹ riêng của dân tộc Việt Nam.

     Ngoài ra, trong đời sống vật chất của mình, người Việt thời kỳ Hùng Vương còn thể hiện mỹ cảm ở sự phù hợp với địa hình. Họ tạo ra các phương tiện giao thông phù hợp với điều kiện địa hình. Về giao thông đường sông (ở các con sông lớn hoặc chi lưu của chúng), thuyền bè được sử dụng với những mục đích khác nhau như dùng để đánh cá; dùng để di chuyển, chuyên chở người và đồ vật; thực hiện các mối giao lưu văn hóa với các nền văn hóa, văn minh láng giềng. Trên đường bộ, họ lại đi bộ và gánh gồng, mang vác trên vai, trên lưng. Họ còn sử dụng súc vật, chủ yếu là voi để di chuyển và chủ yếu là chuyên chở hàng hóa.

    Bên cạnh đó, đời sống thẩm mỹ còn được thể hiện ở quan hệ vật chất giữa người với người thời kỳ này. “Các thành viên còn coi sự công bằng về mặt vật chất và quyền lợi là một trong những giá trị đẹp của cuộc sống: Hùng Vương đi săn được thú, lấy bộ lòng cùng ăn ngay tại chỗ, thịt về nhà chia” [3, tr.353]. Vua dạy dân cấy lúa, săn thú… Sự phân hóa xã hội “diễn ra không thật sâu sắc, sự cách biệt giữa các giai tầng không lớn lắm” [3, tr.402]. Trong cuộc sống của họ, vấn đề lợi ích vật chất cũng đã trở thành một khía cạnh thẩm mỹ khi nó vẫn thuần khiết là sự công bằng giữa người với người, dù đó là người đứng đầu hay vô số những con người bình thường khác.

     Những khía cạnh của cuộc sống hàng ngày đã giúp ta thấy được sự hài hòa giữa con người với tự nhiên để duy trì sự tồn tại và phát triển của chính con người. Đồng thời cũng thấy được sự hài hòa, sẻ chia giữa con người với con người trước vấn đề lợi ích. Điều đó đã khắc họa những nét ban đầu trong đời sống thNm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương.

Nguồn: Tạp chí Khoa hc xã hi Vit Nam, số 8 – 2019
Ảnh đại diện: Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) thiết lập

     Mời xem tiếp:

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương (Phần 2)