Gốm hoa nâu thời Trần trang trí văn “mây như ý” tại Hoàng thành Thăng Long: nhận thức từ nghiên cứu so sánh

Tác giả bài viết: NGUYỄN DOÃN MINH*, NGUYỄN THỊ HỒNG LÊ**
(*,** Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

TÓM TẮT

     Trong quá trình chỉnh lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và lập hồ sơ khoa học sưu tập đồ gốm sứ thời Trần tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long, chúng tôi chỉ gặp 04/7.274 mảnh gốm hoa nâu trang trí văn “mây như ý”. Những mảnh gốm trên hàm chứa những giá trị đặc biệt rất cần tìm hiểu, nghiên cứu giải mã, bởi vì loại hoa văn này không được sử dụng đại trà mà thường xuất hiện ở những vị trí tôn nghiêm hoặc trên những di vật có chất lượng, phẩm cấp gắn với đối tượng sở hữu sang quý. Dựa trên cơ sở nhận thức này, nội dung bài viết sẽ tập trung khảo cứu về những mảnh gốm hoa nâu thời Trần trang trí văn “mây như ý”, phát hiện tại khu Hoàng thành Thăng Long, đồng thời so sánh chúng với những loại hình đồ gốm hoa nâu lưu giữ ở những sưu tập khác cùng trang trí loại hoa văn đó, nhằm mục đích làm rõ những đặc trưng về chất liệu, niên đại nguồn gốc cùng những giá trị của những mảnh gốm hoa nâu nói trên.

Từ khóa: Gốm hoa nâu, thời Trần, thế kỷ XIII-XIV, văn “mây như ý”, Hoàng thành Thăng Long.

Phân loại ngành: Khảo cổ học.

ABSTRACT

     During the process of classifing, researching, evaluating value and making scientific records of the collection of ceramics from the Trần Dynasty collected in the Imperial Citadel of Thăng Long, only four of 7,274 pieces of brown patterned ceramics decorated with “Lucky clouds” pattern were observed. Realising that the ceramic pieces contains special values, it is very necessary to learn, study and decipher, because this pattern is not only widely used in common generation but also often appears in sacred places or on high quality with precious objects. Based on this perception, the content of the article will focus on researching on the brown patterned ceramics pieces of the Trần Dynasty decorated with the “Lucky clouds” patternfound at Imperial Citadel of Thăng Long, at the same time in comparison with brown patterned ceramic preserved in other collections with the same pattern. This study aimed to clarify the characteristics of the material, age, origin and values of the pieces of the above mentioned brown patterned ceramics.

     Keywords: Brown patterned ceramics, Trần Dynasty, 13th and 14th centuries, patterns of lucky clouds, Imperial Citadel of Thăng Long.

     Subject classification: Archaeology.

x
x x

1. Mở đầu

     Gốm hoa nâu bao gồm loại hình gốm có nền phủ men trắng, hoa văn tô men nâu và nền phủ men nâu hoa văn tô men trắng. Đây là một trong sáu dòng men của gốm thời Trần, khai quật được ở khu di tích Hoàng thành Thăng Long. Tại khu di tích này đã tìm thấy 7.274 hiện vật, chiếm tỷ lệ 3,9% tổng số đồ gốm thời Trần, trong đó có 37 hiện vật đủ dáng và 7.178 mảnh vỡ (bao gồm 994 mảnh miệng; 5.089 mảnh thân và 1.095 mảnh đáy) (Viện Nghiên cứu Kinh thành, 2021), phân bố chủ yếu tại các hố thuộc khu ABCD ở độ sâu từ 120cm-180cm, tương đương với các lớp từ lớp 6 đến lớp 9. Những sản phẩm gốm này thường có kích thước lớn, xương gốm dày, được tạo dáng đẹp, hoa văn trang trí phóng khoáng và mang tính thẩm mỹ cao. Tiêu biểu là những loại thạp, nắp, chậu, liễn, ang và chân đèn trang trí hoa sen và văn dây lá.

     Và trong tổng số những hiện vật gốm hoa nâu trên chỉ có 04 mảnh hiện vật trang trí văn “mây như ý”, chiếm 0,07%, một tỷ lệ rất nhỏ so với số lượng di vật gốm hoa nâu phát hiện ở đây. Phải chăng sự ít ỏi của những mảnh gốm này hàm chứa những giá trị riêng biệt về phẩm cấp cùng ý nghĩa dành riêng cho đối tượng được sởhữu chúng? Bởi vì, loại hoa văn này không được sử dụng đại trà trong đời sống xã hội đương thời.

     Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đồ gốm thời Trần nói chung và đồ gốm hoa nâu nói riêng, đề cập dưới nhiều giác độ như: niên đại, nguồn gốc, kỹ thuật, tạo hình, hoa văn…

     Về gốm hoa nâu tại Hoàng thành Thăng Long, năm 2004, hai tác giả Bùi Minh Trí và Nguyễn Đình Chiến đã có đánh giá: “Đặc điểm gốm hoa nâu thời kỳ này là có kích thước lớn, dáng mập, khỏe, xương gốm dày, men trắng ngà hay trắng xanh, hoa văn thể hiện phóng khoáng hơn gốm thời Lý. Trong đó nhiều loại hình hiện vật đặc sắc chưa từng được biết đến” (Bùi Minh Trí, Nguyễn Đình Chiến, 2004: 95). Về loại văn “mây hình khánh” hay “văn mây như ý” cũng được đề cập khi viết về chiếc nắp hộp men lục thời Lý phát hiện tại hố A9. MR (Bùi Minh Trí và Nguyễn Đình Chiến, 2004: 95).

     Nghiên cứu gốm hoa nâu tương đối toàn diện hơn cảlà sách “Gốm hoa nâu ViệtNam” (2005) của hai tác giả Phạm Quốc Quân và Nguyễn Đình Chiến. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến thuật ngữ gốm hoa nâuvà 13 địa điểm đã phát hiện được gốm hoa nâu. Số lượng loại hình hiện vật gốm hoa nâu được minh họa rất phong phú và đa dạng, có niên đại trải dài từ thế kỷ XI-XV. Đặc biệt, trong cuốn sách có những hiện vật trang trí văn “mây hình khánh” trong đó có 05 hiện vật đểniên đại thời Trần. Dạng hoa văn này cũng được sách sắp xếp nương theo niên đại đồ gốm từ sớm đến muộn. Tuy nhiên, văn “mây hình khánh”, mới dừng lại ởnhận định ngắn gọn: “Mây hình khánh xuất hiện trên nhiều đồ gốm hoa nâu Lý -Trần. Cách thể hiện thường theo từng băng dài…” (Phạm Quốc Quân, Nguyễn Đình Chiến, 2005: 35).

     Về nguồn gốc sản xuất của gốm hoa nâu, có nhiều giả thuyết, nhưng bằng chứng thuyết phục hơn cả đó là tìm thấy “loại con kê đặc biệt được kê nung các sản phẩm gốm hoa nâu” phát hiện tại di chỉgốm thời Trần ở Cồn Chè -Cồn Thịnh (xã Mỹ Thịnh, huyện Mỹ Lộc, Nam Định) (Bùi Minh Trí, Nishimura Masanari, 2001: 566).

     Nghiên cứu sâu về loại văn “mây hình khánh”, vai trò cũng như dạng thức của loại hoa văn này đã được đề cập: “Trong điêu khắc, Phật giáo Lý, Trần, mây được thể hiện khá nhiều nhằm diễn tả tầng không cho các đề tài thần thoại nói chung như tiên nữ, nhạc công, rồng, phượng…” (Tống Trung Tín, 1997: 124). Và văn “mây hình khánh” thuộc biến thể hai, theo phân loại của tác giả. Tương tự như quan điểm này, tác giả Nguyễn Du Chi viết: “Loại này có nhiều trên các đồ án hình rồng, hình phượng, hình các tiên nữ nhạc công, tiên nữ dâng hoa… Chúng được thể hiện thành từng mảng cong tròn có 3 ngấn kiểu hình ô-mê-ga, hai đầu xoắn trôn ốc trông giống hình cái khánh nên các nhà nghiên cứu quen gọi là văn “mây hình khánh”, cũng có người gọi đó là văn hình “mây xoắn ốc hai đầu”. Và “sự có mặt các hoa văn hình mây trong các chạm khắc này như đã nói ở trên, muốn chứng minh cho không gian của các đồán không phải là không gian của trần thế, mà nó là không gian đầy linh thiêng của chốn thượng giới cao siêu, xa vời” (Nguyễn Du Chi, 2003: 98, 200-202).

     Trong một chừng mực nhất định, những nghiên cứu trên đã đề cập đến nguồn gốc, loại hình… của gốm hoa nâu cũng như văn “mây hình khánh-mây như ý” (từ đây bài viết sẽ sử dụng thuật ngữ văn “mây như ý”). Nhưng đặc trưng giá trị riêng của các loại hình đồ gốm hoa nâu trang trí loại hoa văn này chưa được làm rõ. Thêm nữa, nguồn gốc và ý nghĩa dạng thức của văn “mây như ý” chưa được quan tâm một cách đúng mực. Trên cơ sở nhận thức này, bài viết tập trung khảo cứu về những mảnh gốm hoa nâu trang trí văn “mây như ý” phát hiện tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long và so sánh chúng với hiện vật gốm hoa nâu lưu giữ ở những sưu tập khác cùng trang trí loại hoa văn đó, đồng thời đề cập đến nguồn gốc, ý nghĩa, tạo hình của văn “mây như ý”; từ đó, làm rõ những đặc trưng về chất liệu, niên đại nguồn gốc cùng giá trị của những mảnh gốm hoa nâu nói trên. Đặc biệt, chúng tôi còn đưa ra giả thuyết phục dựng dáng hình, cũng như giả thuyết về chủ nhân của một trong những mảnh thạp gốm hoa nâu phát hiện tại Hoàng thành Thăng Long.

2. Gốm hoa nâu thời Trần trang trí văn “mây như ý” tại Hoàng thành Thăng Long

     2.1. Chậu gốm hoa nâu

     Chậu có ký hiệu: BĐ.02.D5.L6, được khai quật trong các năm từ năm 2002-2004 tại hố D5, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Di sản Văn hoá Thăng Long -Hà Nội. Chậu có kích thước đường kính miệng 32,0cm (hình 1).

     Chậu có miệng loe, thành trong và ngoài miệng tạo vát, mặt cắt miệng có tiết diện gần giống hình tam giác có các đỉnh gần nhọn. Mép ngoài tạo với thân một góc tù (khoảng 130o), thân cong tròn, thon dần xuống phía dưới.

     Chất liệu: chậu được phủ lớp men trắng ngà, độ dày men không đều nhau do tạo các đường cạo/ khắc thủ công vào xương gốm với mục đích tô hoa văn, do vậy, có hiện tượng dồn, đọng men ở các rãnh chìm, nhưng cũng có những vị trí men chưa được phủ tới. Bề mặt rạn kính, vết rạn nhỏ, bên trong có bọt khí. Xương gốm đanh, chắc được lọc kỹ và nung ở nhiệt độ cao.

     Hoa văn trang trí: phần còn lại cho thấy mảnh chậu có 01 băng hoa văn “mây như ý” được giới hạn trên là dải văn có hình “dấu chấm hỏi”, dưới là văn đường tròn nhỏ nối tiếp nhau quanh thân. Hình văn mây được thể hiện gồm ba phần: phần đầu có dáng gần giống như một bông hoa sen có đài hoa hình tròn ở chính giữa. Hai bên, mỗi bên có hai cánh đối xứng nhau về cách tạo hình dáng: hai cánh trên vát loe hướng lên phía trên, hai cánh bên dưới uốn cụp xuống, đầu cánh tạo tròn cuộn vào phía trong; phần thân tạo hình sin uốn thành bảy nhịp bay ngược chiều kim đồng hồ; phần đuôi thon nhỏ dần xuống, điểm kết thúc hướng lên phía trên.

     2.2. Thạp gốm hoa nâu

     2.2.1. Thạp ký có hiệu BĐ02.B12.L6

     Thạp được khai quật trong các năm 2002-2004, tại hốB12, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Di sản Văn hoá Thăng Long -Hà Nội. Thạp vỡcòn lại một phần miệng và thân, kích thước đường kính miệng là 37,4 cm,chiều cao còn lại là 20,5cm. Thạp có miệng loe, vành miệng ngoài tạo gờ mép nhọn, cổ thấp có đường ngấn lõm vào phía trong, vai phình, nở rộng xuống thân, thon dần xuống phía đáy (hình 2).

     Chất liệu: thạp được phủlớp men trắng ngả xanh. Men phủ không đều, có hiện tượng đọng và chảy/rớt men từ trên xuống phía dưới. Bề mặt bóng nhẹ, rạn kính, vết rạn lớn. Xương gốm đanh, màu trắng đục, khá dày, được nung ở nhiệt độ cao.

     Hoa văn trang trí: trên vai tạo nổi băng cánh sen kép. Dựa vào khoảng cách quai và phần còn lại của mảnh vỡ, có thể xác định thạp có bốn quai ngang, bề mặt quai khắc hai đường chỉ chìm. Thân thạp trang trí các băng hoa văn chạy xung quanh, mỗi băng được ngăn cách bằng đường chỉnâu dày 0,4-0,6cm: băng thứ nhất trang trí hình văn “mây như ý” chuyển động theo chiều kim đồng hồ; kích thước văn mây: chiều dài 22cm và cao còn lại 6,5-8,5cm; giữa các hình hoa văn mây cách nhau một khoảng từ 0,5-2,0cm. Mỗi hình văn mây đều được thể hiện gồm ba phần: phần đầu gồm 3 chấm tròn có kích thước trung bình 1,6-2,1cm, bố cục trên hai đường cong xòe cân sang hai bên có đầu tròn thu cuộn vào phía bên trong; Phần thân uốn khúc thành 6 nhịp không đều nhau vút dần về phía sau; Phần đuôi nhỏ dần, trúc xuống, mềm mại như hình dải lụa đang chuyển động ngược chiều gió.

     2.2.2. Thạp gốm hoa nâu có ký hiệu BĐ02.A1.T.L9

     Thạp được khai quật trong các năm từ 2002-2004 tại hố A01, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Di sản Văn hoá Thăng Long -Hà Nội. Thạp bị vỡ còn lại một phần miệng gắn với thân, kích thước đường kính miệng là 36cm, chiều cao còn lại là 20,5cm. Thạp có dáng miệng loe, vành miệng ngoài tạo gờ, mép nhọn, cổ thấp có đường ngấn lõm vào phía trong, vai phình rộng xuống thân và thon dần xuống phía đáy (hình 3).

     Chất liệu: thạp được phủlớp men trắng ngả xanh, men phủ không đều, có hiện tượng đọng và chảy/rớt men từ trên xuống phía dưới. Bề mặt bóng nhẹ, có rạn kính, vết rạn lớn, không đều nhau. Xương gốm đanh, màu trắng đục, khá dày, được nung ở nhiệt độ cao.

     Hoa văn trang trí: trên vai tạo nổi băng cánh sen kép, phía dưới tạo quai ngang. Thân thạp vừa được chia thành băng và vừa bổ ô để trang trí hoa văn, mỗi băng và ô được ngăn cách bởi các đường chỉnâu. Phần băng ngang trang trí hình văn “mây như ý” chạy xung quang thân theo chiều kim đồng hồ, phía dưới bổ ô dọc trang trí hoa sen. Mỗi hình văn mây đều được thể hiện gồm ba phần: phần đầu được tạo giống bông hoa sen nở xoè rộng có một nhuỵ và 4 cánh dài, chiều dài cánh từ 2,0-5,0cm, rộng trung bình từ 1,3-1,8cm; phần thân uốn khúc thành 5 nhịp, doãng rộng, khoảng doãng không đều nhau; phần đuôi nhỏ dần, vút dần lên phía trên, mềm mại, uyển chuyển như hình dải lụa đang chuyển động ngược chiều gió.

     2.2.3. Thạp gốm hoa nâu có ký hiệu TAA.AH1.L7

     Thạp được khai quật trong các năm từ 2002-2004 tại khu A, nằm trong khu vực ao hồ số 01, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Di sản Văn hoá Thăng Long -Hà Nội. Thạp có kích thước đường kính miệng là 40,1cm, chiều cao còn lại 39,6cm. So với các loại thạp khác, loại này có miệng thẳng, mép cắt vát ra phía ngoài, tạo rãnh lõm nông, vai hẹp, vát nhẹ ra phía ngoài, thân thẳng hình trụ tròn (hình 4).

     Chất liệu: thạp được phủ lớp men trắng ngả xanh, men phủ không đều, có hiện tượng đọng và chảy/rớt men từ trên xuống phía dưới. Bề mặt men bóng nhẹ, rạn kính, vết rạn nhỏ, bên trong có bọt khí. Xương gốm đanh, màu trắng đục, khá dày, được nung ở nhiệt độ cao. Hoa văn trang trí: trên vai thạp tạo nổi băng cánh sen kép gồm nhiều cánh nhỏ, các cánh nổi khối cao. Phía dưới tạo các quai ngang, bề mặt quai khắc hai đường chỉ chìm. Thân thạp được chia thành ba băng hoa văn theo chiều ngang, chạy xung quanh thân, ngăn cách giữa các băng là các đường chỉ nâu có độ dày trung bình từ 0,6-0,8cm. Băng thứ nhất trang trí văn “mây như ý”, chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Mỗi hình văn mây đều được thể hiện gồm ba phần: phần đầu giống bông hoa sen nở xoè rộng có một nhụy và 4 cánh dài, chiều dài cánh từ 2,0-5,0cm, rộng trung bình từ 1,3-1,8cm; phần thân uốn khúc thành 5 nhịp kép giống như hình thân rồng uốn khúc; phần đuôi nhỏ dần về điểm kết thúc, trúc xuống. Băng thứ hai và thứba trang trí hoa sen dây có dáng mềm mại. Có thể thấy 04 mảnh gốm trang trí văn “mây như ý” trên mang những đặc điểm chung của các loại hình gốm hoa nâu thời Trần. Đó là: xương gốm dày, đanh, màu trắng đục và màu trắng xám (ghi xám), thớ gốm to, thô hơn các dòng men khác, lỗ khí khá dày. Sắc men tươi sáng, trắng ngà hoặc trắng ngả xanh, phủ không đều, có hiện tượng rạn và rớt men. Kỹ thuật tạo hoa văn khá đa dạng: tô màu, khắc chìm và tạo nổi. Sự khác biệt duy nhất so với đồ gốm hoa nâu phát hiện tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long là 04 mảnh gốm trên được trang trí văn “mây như ý”(I).

3. Gốm hoa nâu thời Trần trang trí văn “mây như ý” tại một số sưu tập khác

     3.1. Thống gốm hoa nâu tại Bảo tàng Quảng Ninh

     Thống hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Quảng Ninh có ký hiệu BTQN 6283/G758, khai quật được tại đền An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh trong các năm từ2017-2018, cùng vết tích kiến trúc thời Trần ở phủ đệ của An Sinh vương Trần Liễu. Thống có kích thước rất lớn: đường kính miệng 111,5 cm; chiều cao 71,5-73 cm, đường kính đáy 68-69 cm (hình 5).

     Thống có dáng chậu, miệng loe, thân trên gần thẳng đứng, thân cong khum, thon dần xuống đáy. Phần tiếp giáp giữa thân và đáy tạo 2 lỗ tròn nhỏ gần đối xứng nhau (xuyên từ trong ra ngoài).

     Chất liệu: toàn bộ thống được phủ lớp men trắng ngả vàng, độ dày men không đều nhau, các đường chỉ chìm và nét chạm khắc nông sâu khác nhau, có hiện tượng đọng men chảy dài từ trên xuống dưới. Xương gốm được làm từ đất sét trắng, đanh, chắc, do được nung ở nhiệt độ cao. Silic được cho là thành phần chủyếu, “chiếm 67-85%, tiếp sau đó là tỷ lệ nhôm (9-15%) và sắt (2-20%)” (Bảo tàng Quảng Ninh, 2021: 35).

     Hoa văn trang trí: từ trên xuống dưới thống trang trí 6 băng hoa văn, giới hạn bởi 7 đường chỉ (hình 5). Đáng lưu ý là băng hoa văn thứhai trang trí hình văn “mây như ý” rộng từ 7,5-8,0cm. Mây có đuôi dài nằm ngang, chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Kích thước văn mây: dài 17-18cm và cao 6,5-7cm; giữa các hình văn mây cách nhau một khoảng từ 0,5-1cm. Mỗi hình văn mây có cấu trúc gồm ba phần: phần đầu có dáng gần giống như một bông hoa có đài hoa hình elip ở chính giữa. Hai bên, mỗi bên có hai tua cuốn hình giống cánh hoa, cánh phía trên tạo cong vát hướng lên trên, đầu cánh tạo nhọn trúc nhẹ xuống, hai cánh bên dưới uốn cong vào phía trong, đầu gần tròn; Phần thân tạo hình sin uốn thành năm nhịp bay ngược chiều kim đồng hồ; phần đuôi thon nhỏ dần xuống điểm kết thúc (Bảo tàng Quảng Ninh, 2021: 7).

     Nguồn gốc: năm 1237, sau sự kiện “loạn sông Cái”, Trần Thái Tông ban đất An Sinh cho Trần Liễu làm phủ đệ. Năm 1251, khi An Sinh vương Trần Liễu mất, khu phủ đệ này có thể vẫn được con cháu trong hoàng thất là Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Khang, Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu… giữ gìn làm nơi thờ tự ông và vợông là Thiện Đạo quốc mẫu (Bảo tàng Quảng Ninh, 2021: 11). Do vậy, thống gốm hoa nâu An Sinh tồn tại và định niên đại ở thế kỷ XIII là khá logic với các sự kiện nêu trên của nội tộc nhà Trần.

     Chức năng sử dụng: dựa vào kích thước, hình dáng, hoa văn trang trí được tạo tác tỉ mỉ, nhất là hoa văn 8 con rồng trên thân, cũng như vị trí phát hiện của chiếc thống này, có thể phỏng đoán hai khả năng: (1) đây là đồ dùng của tầng lớp thuộc quý tộc nhà Trần, cho các hoạt động nghi lễ (tế lễ) của đời sống cung đình (miếu/đường) hoặc đời sống tôn giáo (chùa); (2) là đồ dùng trong đời sống hàng ngày của gia đình An Sinh vương Trần Liễu (Bảo tàng Quảng Ninh, 2021: 79-80).

     3.2. Chum gốm hoa nâu tại Bảo tàng Hải Dương

     Chum được phát hiện năm 1981 tại nghĩa trang xã Hiệp An, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Hải Dương với ký hiệu BTHD/1017Gm 200. Kích thước đường kính miệng 28cm, chiều cao 45cm, đường kính đáy 34cm (hình 6).Chum có dáng miệng loe, vành miệng ngoài tạo gờ, mép tạo nhọn, cổ thấp, tạo rãnh lõm vào phía trong, vai phình, thân nởrộng, thon dần vềđáy, đáy bằng. Chất liệu: chum gốm hoa nâu được phủlớp men trắng ngảvàng, men phủkhá mỏng nhưng rất tỉmỉvà đều nhau, gần như không thấy hiện tượng men chảy/đọng. Tuy nhiên, bềmặt bịmòn men, nhiều chỗbịbong, tróc, bềmặt men rạn kính nhỏ. Xương gốm màu trắng ngảxanh xám, đanh, chắc.

__________
1. Văn “mây như ý” hay hoa văn “mây như ý” là cách gọi khác nhau cho cùng một khái niệm chỉ những đồ án/ họa tiết được trang trí. Từ điển Hán -Việt mục Hoa văn giải thích: Hoa văn hình hoa. Nên chữ “Văn” đã bao gồm nghĩa là hoa văn. Ví dụ: Văn hình rồng = hoa văn hình rồng; văn hoa sen = hoa văn hoa sen…; Trên trang Baidu.com (của Trung Quốc) khi tra: Như Ý vân văn = Hoa văn mây Như ý. Nên chữ “văn” có thể hiểu là hoa văn, là họa tiết trang trí. Trong những trường hợp cần nhấn mạnh tác giả sẽ dùng chữ “hoa văn” thay cho chữ “văn”.