Lễ hội dân gian người Việt ở ven biển tỉnh Ninh Thuận

Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ  LÂM NHÂN
(Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh)

     Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của cư dân nông nghiệp và ngư nghiệp. Trong đó, lễ hội của người Việt ở tỉnh Ninh Thuận vừa bao hàm các yếu tố nông nghiệp, vừa chứa đựng yếu tố ngư nghiệp. Những đặc trưng này có giá trị tương đồng và khác biệt so với lễ hội dân gian ở các vùng khác. Bài viết này dựa trên nền tảng khảo sát thực trạng văn hóa phi vật thể của người Việt ở tỉnh Ninh Thuận năm 2011 – 2013 để đánh giá, phân tích và đưa ra những định hướng nhằm góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian với vấn đề biển đảo hiện nay.

x
x x

     Lễ hội từ lâu đã có một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân, là sinh hoạt văn hóa dân gian không thể thiếu ở mọi vùng quê. Theo Từ điển Việt Nam văn hóa tín ngưỡng phong tục của Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, lễ hội (cũng gọi là hội lễ) được định nghĩa là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội của một tập thể, một tổ chức thuộc giới, nghề, ngành, hoặc tôn giáo trong phạm vi một địa phương hoặc trong cả nước. Lễ hội là có lễ và hội, lễ để tưởng niệm anh hùng dân tộc, tổ sư nghề, một đấng thần linh. Hội có nhiều hình thức: hội giao duyên, hội thi tài, hội văn chương, hội thượng võ. Những lễ hội truyền thống còn kèm theo nhiều sự cúng tế và các tục cổ. Nhiều lễ hội có giá trị lịch sử, đặc biệt là gắn liền với lịch sử dân tộc, với sự tôn kính thành hoàng ở các làng. Tại vùng các dân tộc, lễ hội càng thể hiện đậm đà tín ngưỡng dân gian của quần chúng. Hội gắn liền với lễ, có sự hòa hợp, thống nhất thế giới tâm linh và đời sống văn hóa của cộng đồng [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, 2005: 633].

     Theo các sử liệu, người Việt ở Ninh Thuận đến định cư từ nhiều vùng, nhiều địa phương khác nhau trong quá trình tịnh tiến khai hoang ruộng đất theo đường bộ của nông dân và theo đường biển của ngư dân khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Người Việt ở Ninh Thuận đến nhiều nhất là từ các tỉnh “Nam Ngãi Bình Phú” (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Trên bước đường khẩn hoang, người Việt đã mang theo các phong tục tập quán, các giá trị văn hóa đến Ninh Thuận. Những giá trị văn hóa này hòa cùng với văn hóa bản địa trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa đã hình thành bản sắc văn hóa đặc sắc của người Việt ở Ninh Thuận. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân (chủ quan và khách quan), nhiều di sản văn hóa phi vật thể của người Việt ở Ninh Thuận đang bị lãng quên hoặc không được đề cao nên bị thất truyền, mai một đi rất nhiều. Đặc biệt là các lễ hội truyền thống của cư dân người Việt sinh sống ven biển miền Trung. Thực trạng việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của người Việt ở tỉnh Ninh Thuận được chúng tôi tìm hiểu thông qua tổng điều tra văn hóa phi vật thể của người Việt ở Ninh Thuận năm 2011 – 2012. Kết quả khảo sát cho thấy tỉnh Ninh Thuận là vùng đất còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có các lễ hội truyền thống cần được bảo tồn và phát huy.

     Để thống kê lễ hội truyền thống của người Việt ở tỉnh Ninh Thuận, chúng tôi đã tiến hành khảo sát toàn bộ 281 thôn/khu phố thuộc 53 xã/phường trên toàn tỉnh Ninh Thuận. Kết quả như sau:

1. Thực trạng cơ sở thờ tự và mức độ tổ chức lễ hội tại các cơ sở thờ tự ở Ninh Thuận

     1.1. Cơ sở thờ tự ở các huyện/thành phố

     Theo số liệu thống kê1, toàn tỉnh Ninh Thuận hiện có 139 cơ sở thờ tự, gồm các đình, đền, lăng, miếu… trong đó, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có 62 cơ sở (chiếm 44,6%), huyện Ninh Hải có 37 cơ sở (chiếm 26,6%), huyện Ninh Phước có 22 cơ sở (chiếm 15,8%), huyện Thuận Nam có 8 cơ sở (chiếm 5,8% ), còn lại 02 huyện Ninh Sơn và Thuận Bắc cùng có 05 cơ sở thờ tự (chiếm 3,6%). Như vậy, số lượng cơ sở thờ tự tập trung nhiều nhất là ở thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, kế đến là huyện Ninh Hải và huyện Ninh Phước.

     1.2. Diện tích các cơ sở thờ tự – nơi mở hội

     Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, diện tích mở lễ hội có quy mô từ 100 m2 đến dưới 500 m2 chiếm 45,2%; diện tích từ 500 m2 đến dưới 1.000 m2 chiếm 19,4%; diện tích trên 1.000 m2 chiếm 30,6%. Huyện Ninh Hải, các lễ hội có quy mô trên 1.000 m2 chiếm 43,2% so với diện tích mở lễ hội của toàn huyện. Huyện Ninh Phước có 77,2% lễ hội được mở ở nơi có diện tích từ 1.000 m2 trở lên… Như vậy, theo kết quả của khảo sát, về mặt diện tích, các thiết chế văn hóa cổ truyền có diện tích từ 100 m2 đến trên 1.000 m2 ở tất cả các huyện và thành phố chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là một thuận lợi cho việc tổ chức những lễ hội với quy mô lớn ở Ninh Thuận.

     1.3. Mức độ tổ chức lễ hội

     Những địa phương có số lượng lớn các cơ sở thờ tự thường diễn ra nhiều loại hình lễ hội khác nhau. Tại Ninh Thuận, bảng số liệu cũng cho thấy, các lễ hội chính được tổ chức 1 lần/năm chiếm tỷ lệ cao nhất (81,3%). Tuy nhiên, cũng có 18,7% các lễ hội chính được tổ chức 2 lần/năm (2,2%), 3 lần/năm (0,7%), 2 năm/lần (4,3%), 3 năm/lần (9,4%), 4 năm/lần (0,7%).

     1.4. Thời gian tổ chức lễ hội truyền thống của người Việt tại các cơ sở thờ tự thuộc các huyện và thành phố tỉnh Ninh Thuận

     Cũng giống như người Việt ở Bắc Bộ hay Nam Bộ, người Việt ở Trung Bộ (trong đó có Ninh Thuận) tổ chức lễ hội truyền thống (dù là ở cấp thôn như lễ cúng đình, miếu hay lễ hội cấp vùng như lễ hội Bà Chúa Xứ) tại một địa điểm cụ thể, hữu hạn, đó là những không gian thờ tự: một ngôi đình, ngôi miếu, đền, lăng hay chùa. Đây là những địa điểm thiêng.

     Khi tìm hiểu thời gian tổ chức lễ hội (tổng hợp theo tháng) ở từng huyện trong toàn tỉnh, kết quả số liệu như sau:

     Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là nơi tổ chức lễ hội nhiều nhất (62 lễ hội) so với các huyện khác trong toàn tỉnh. Trong 62 lễ hội được tổ chức tại đây, có 22 lễ hội diễn ra trong tháng 2 âm lịch (chiếm 36,1% so với các lễ hội ở các tháng khác trong năm), 18 lễ hội được tổ chức vào tháng 3 âm lịch (chiếm 29,5% so với các lễ hội ở các tháng khác trong năm). Đứng sau Phan Rang – Tháp Chàm về số lượng các lễ hội là huyện Ninh Hải – nơi có 37 lễ hội được tổ chức định kỳ. Trong đó có 20 lễ hội được tổ chức trong tháng 3 âm lịch (chiếm 54,1% so với các lễ hội ở các tháng khác trong năm). Huyện Ninh Phước cũng có 20 lễ hội được tổ chức định kỳ, trong đó có 12 lễ hội được tổ chức trong tháng 3 âm lịch (chiếm 60% so với các lễ hội ở các tháng khác trong năm).

2. Cảnh quan văn hóa vật thể và đối tượng thờ cúng

     Khi nghiên cứu văn hóa phi vật thể, cần thiết phải chú ý đến những yếu tố vật thể đi kèm. Không thể có một lễ hội lớn mà cảnh quan văn hóa vật thể xập xệ. Không thể có lễ rước nếu lễ hội không còn kiệu. Không gian văn hóa vật thể bị lấn chiếm, công trình kiến trúc bị hư hại thì giá trị văn hóa phi vật thể của lễ hội cũng sẽ suy giảm, thậm chí đến mức giải thiêng.

     Lễ hội được tổ chức ở các cơ sở thờ tự – nơi thờ các vị thần, thành hoàng, thánh mẫu, những nhân vật lịch sử có công với đất nước, những người tổ có công lập làng… Một trong những điều kiện để lễ hội được diễn ra, đặc biệt là ở các hội của những nhân vật lịch sử, đó là phải được vua chúa sắc phong thì nhân dân mới được tổ chức thờ cúng.

     2.1. Sắc phong, thần phả

     Khi tìm hiểu về số lượng sắc phong, thần phả đang được lưu giữ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho thấy bảng số liệu như sau:

     Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có 28/62 địa bàn cho biết hiện đang lưu giữ các sắc phong, ở huyện Ninh Hải là 14/20 địa bàn còn giữ được các sắc phong và Ninh Phước là 10/13. Dựa vào số lượng thấy được Phan Rang – Tháp Chàm là nơi lưu giữ nhiều sắc phong nhất trong toàn tỉnh Ninh Thuận, nhưng khi xem xét cụ thể số lượng sắc phong có được so với số lượng sắc phong còn được lưu giữ, thì huyện Thuận Nam là huyện có tỷ lệ lưu giữ các sắc phong cao nhất tỉnh Ninh Thuận.

     Toàn tỉnh Ninh Thuận có 139 cơ sở thờ tự, nhưng chỉ có 25 thần phả được lưu giữ cho đến hiện nay. Trong đó, nơi lưu giữ thần phả nhiều nhất vẫn là Phan Rang – Tháp Chàm (11 cơ sở thờ tự – chiếm 44% so với những cơ sở thờ tự còn lưu giữ được thần phả trong toàn tỉnh). Kế đến là 9 cơ sở thờ tự và 3 cơ sở thờ tự hiện đang lưu giữ thần phả ở huyện Ninh Hải và huyện Ninh Phước.

     2.2. Cảnh quan văn hóa vật thể nơi diễn ra lễ hội

     Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận có tổng số 139 cơ sở thờ tự, nhưng chỉ có 65 cơ sở thờ tự có cổng tam quan (46,8%). Số lượng hoành phi còn lưu giữ ở các cơ sở thờ tự là 32,4%, câu đối là 42,4%. Hiện tại, còn 21/139 lễ hội (chiếm 15,1%) còn lưu giữ kiệu và vẫn còn 80 cơ sở thờ tự có chấp kích và bát bửu (57,6%). Điều này có thể nhận định rằng, các yếu tố truyền thống của lễ hội đang dần mất đi. Ví dụ như không còn kiệu thì không thể tổ chức lễ rước thánh được…

     2.3. Đối tượng thờ tự

     Việc thờ thần ở từng huyện cũng có sự khác biệt đáng kể. Ở thành phố Phan Rang – Tháp Chàm: Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền là những vị thần được thờ nhiều nhất – 27 cơ sở thờ tự (chiếm 43,5% so với toàn thành phố); 23 cơ sở thờ tự thờ Ngũ hành (chiếm 37,%). Tại huyện Ninh Hải, có 11 cơ sở thờ tự thờ Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền chiếm 29,7% so với toàn huyện; 9 cơ sở thờ tự thờ thần Nam Hải (24,3% so với toàn huyện); 8 cơ sở thờ tự thờ Ngũ hành (21,6% so với toàn huyện). Huyện Ninh Phước, có 14 cơ sở thờ tự thờ Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền chiếm 66,7% so với việc thờ thần toàn huyện.

3. Các nghi thức trong lễ hội

     3.1. Nghi thức rước trong lễ hội

     Nghi thức rước cũng là một phần trong các lễ hội, có nhiều loại hình đa dạng, tùy vào tính chất của từng lễ hội mà tổ chức nghi thức rước phù hợp. Kết quả khảo sát về các nghi thức rước trong lễ hội như sau: Trong tổng số 139 lễ hội nhưng chỉ có 3 lễ hội có nghi thức rước nước từ xưa đến nay, 4 lễ hội trước đây có nghi thức rước nước nhưng nay không còn giữ nghi thức này nữa (2,9%). Còn lại 132 lễ hội, chiếm 95% lễ hội toàn tỉnh từ trước đến nay không có nghi thức rước nước.

     Nghi thức rước sắc phong diễn ra ở nhiều lễ hội hơn so với nghi thức rước nước, có 16 lễ hội (11,5%) thực hiện nghi thức rước sắc phong. Mặt khác, cũng có 6 lễ hội trước đây có tổ chức rước sắc phong, nhưng hiện nay không còn lưu giữ hình thức rước này nữa (4,3%). Số còn lại là 117 lễ hội từ trước đến nay không thực hiện nghi thức rước sắc phong.

     Tìm hiểu về nghi thức rước thánh, số liệu cho thấy toàn tỉnh hiện tại có 16 lễ hội duy trì hình thức rước thánh từ xưa đến nay, chiếm 11,5%. Nhưng cũng có 4 lễ hội hiện nay không còn duy trì nghi thức rước thánh nữa (2,9%). Và có 119 lễ hội từ trước đến nay không tổ chức thực hiện nghi thức rước thánh (85,6%).

     3.2. Nghi thức tế diễn ra trong lễ hội

     Trong các lễ hội, việc thực hiện các nghi thức tế là một trong những phần quan trọng, hiện tại toàn tỉnh có 86,3% lễ hội có nghi thức tế (120 lễ hội). Tùy theo từng loại lễ hội mà người ta có các thủ tục tế khác nhau. Việc thực hiện các thủ tục tế cần phải có sự chuẩn bị về đội hình chủ tế, đội hình xướng quan, đội hình hầu tế, đội nhạc lễ, trang phục cho những người tham gia thực hiện thủ tục tế…

     Việc thực hiện tất cả 05 nghi thức của thủ tục tế: quán tẩy, dâng hương hoa, dâng rượu, hóa chúc, lễ tạ trong các lễ hội có sự chênh lệch nhau không đáng kể, nhưng dâng rượu là thủ tục tế được nhiều lễ hội thực hiện nhất (120/139 lễ hội). Số liệu cho thấy tình hình duy trì, củng cố, bảo tồn nghi thức tế từ trước đến nay của các lễ hội trong bối cảnh hiện tại khi kết quả khảo sát chỉ ra rằng chỉ có 01 lễ hội hiện nay không còn thực hiện các thủ tục tế nữa.

     Một trong những nghi thức quan trọng trong các lễ hội là nghi thức múa hát thờ. Có một số loại hình múa hát thờ được một số lễ hội tổ chức là: múa bóng rỗi, múa địa nàng, múa lân, múa rồng. Tuy nhiên, mức độ tổ chức nghi thức này ở các lễ hội có sự chênh lệch khác nhau.

     3.3. Hình thức múa hát thờ trong lễ hội

     Số lượng các lễ hội tổ chức múa bóng rỗi rất ít, chỉ có 2/139 lễ hội được duy trì tổ chức từ xưa cho đến nay. Cũng có 02 lễ hội trước đây có tổ chức múa bóng rỗi nhưng hiện nay không còn duy trì hình thức này nữa. 135/139 lễ hội từ trước đến nay không tổ chức nghi thức múa bóng rỗi.

     Về múa địa nàng, hiện nay toàn tỉnh chỉ còn 02 lễ hội có tổ chức nghi thức múa địa nàng, có 01 lễ hội trước có nghi thức múa địa nàng nhưng nay không còn tổ chức. Và 135/139 lễ hội từ trước đến nay không có tổ chức múa địa nàng.

     Số lượng lễ hội tổ chức múa rồng nhiều hơn so với các lễ hội có múa bóng rỗi và múa địa nàng, hiện có 4 lễ hội tổ chức múa rồng, có 2 lễ hội trước đây có tổ chức múa rồng nhưng hiện nay không còn nữa. Và 133/139 lễ hội không tổ chức múa rồng từ trước đến nay.

     Trong tất cả các loại hình múa hát thờ, múa lân là loại hình được nhiều lễ hội tổ chức thực hiện nhất. Hiện tại, toàn tỉnh có 11 lễ hội có tổ chức múa lân, trong đó có 8 lễ hội duy trì hình thức múa lân từ xưa đến nay và có 3 lễ hội trước đây không có hình thức múa lân, nhưng hiện nay có đưa múa lân vào lễ hội.

     3.4. Đọc văn tế

     Bên cạnh thực hiện các thủ tục tế, một số nghi thức múa hát thờ, thì đọc văn tế cũng là một trong những “thủ tục” quan trọng trong các lễ hội.

     Có hai hình thức đọc văn tế là văn tế chữ Hán và văn tế chữ Quốc Ngữ. Hiện tại, toàn tỉnh có 21 lễ hội đọc văn tế chữ Hán (15,1%), 93 lễ hội đọc văn tế chữ Quốc Ngữ (66,9%).

     3.5. Hệ thống nghi lễ tại các lễ hội

     Hệ thống nghi lễ cũng được tiến hành song song với các nghi thức khác trong các lễ hội, tuy nhiên tùy từng loại hình lễ hội mà có hệ thống nghi lễ khác nhau. Kết quả khảo sát số liệu về hệ thống các nghi lễ được thể hiện như sau:

     Lễ thỉnh sắc: hiện tại có 54 lễ hội vẫn tiếp tục duy trì nghi lễ thỉnh sắc, chiếm 38,8%. Có 01 lễ hội trước đây không có nghi lễ này nhưng hiện nay đã bổ sung. Song lại có đến 16 lễ hội (11,5%) trước đây đã từng thực hiện lễ thỉnh sắc nhưng hiện nay đã bãi bỏ. Và có 68 lễ hội từ trước đến nay không thực hiện lễ thỉnh sắc, chiếm 48,9% so với các lễ hội trong toàn tỉnh.

     Lễ túc yết: có 91 lễ hội đang duy trì tổ chức, chiếm 65,5%, nhưng có 7 lễ hội trước đây cũng tổ chức lễ túc yết nhưng hiện nay không còn tổ chức nghi lễ này. Toàn tỉnh có 41 lễ hội không tổ chức nghi lễ túc yết, chiếm 29,5%.

     Lễ tỉnh sanh: là một trong những nghi lễ được khá nhiều lễ hội tổ chức, toàn tỉnh có 94 lễ hội vẫn còn duy trì tổ chức lễ tỉnh sanh từ xưa cho đến nay, chiếm 67,6%; có 7 lễ hội đã bãi bỏ nghi lễ này. Bên cạnh đó, có 38 lễ hội không thực hiện lễ tỉnh sanh từ trước cho đến nay.

     Lễ vật được dâng lên cúng các thần rất nhiều chủng loại. Tuy nhiên, theo bảng số liệu cho thấy, có một số lễ vật phổ biến như sau:

     Trong tổng số 132 lễ hội được khảo sát về lễ vật tế lễ, dâng cúng thì heo sống là lễ vật được chọn để dâng cúng nhiều nhất (88 lễ hội, chiếm tỷ lệ 66,6%). Ngoài ra, còn có một số lễ vật dâng cúng khác trong lễ hội như gà, vịt, cá, xôi, chè, các loại bánh… Có thể nhận định rằng: các loại lễ vật dâng cúng trong lễ hội của người Việt ở Ninh Thuận rất phong phú, đa dạng và còn bảo lưu tốt các yếu tố truyền thống.

     3.6. Trò chơi dân gian trong lễ hội

     Trò chơi dân gian là một trong những phần không thể thiếu của lễ hội. Qua khảo sát, hiện tại ở Ninh Thuận chỉ còn 21 lễ hội có trò chơi dân gian. Các loại trò chơi phổ biến như: kéo co, đập niêu/đập ấm, bắt vịt/thả vịt, nhảy bao bố, đua ghe, đua thuyền,… trong đó “kéo co” là trò được tổ chức phổ biến nhất (12 lễ hội, chiếm tỷ lệ 57,1%); tiếp đến là trò chơi “bắt vịt, thả vịt” và trò chơi “đập niêu/đập ấm” (đều được tổ chức tại 7 lễ hội, chiếm tỷ lệ 33%); “bóng chuyền” và “đua thuyền” được tổ chức tại 4 lễ hội, chiếm tỷ lệ 19%. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế chúng tôi nhận định rằng: thực trạng trò chơi dân gian trong lễ hội ở Ninh Thuận đang suy giảm đáng kể về cả mặt lượng và chất.

4. Một số đánh giá, nhận xét

     Lễ hội truyền thống của người Việt ở Ninh Thuận (ở các đình, đền, miếu, lăng) diễn ra chủ yếu vào dịp Thanh minh tháng 3 (42,4%) và tháng 2 (25,2%); Quy mô của lễ hội, thông thường là quy mô cấp thôn, nhưng cũng có lễ hội diễn ra theo quy mô nhiều thôn/ khu phố cùng tham gia. Nhìn chung, phần lớn các lễ hội vẫn duy trì những nét cơ bản của lễ hội cổ truyền như: nghi thức rước, nghi lễ, thủ tục tế, đọc văn tế… Tuy nhiên, cũng có một số lễ hội đã lược bỏ phần nào các nghi thức, các nghi lễ. Quy mô lễ hội không chỉ phụ thuộc vào tính chất của lễ hội mà còn phụ thuộc vào diện tích di tích. Diện tích di tích càng lớn, diện tích mở hội càng rộng. Song song đó, việc bảo lưu, giữ gìn các sắc phong, hoành phi, đồ thờ, tượng thờ bằng đồng,… là điều rất quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị đặc sắc của lễ hội cổ truyền người Việt. Nhưng theo thời gian, các hiện vật này đang bị hao mòn dần, cần được bảo dưỡng, bảo quản đúng cách để những dấu ấn văn hóa lễ hội cổ truyền của người Việt được lưu mãi với thời gian.

     Các nghi thức trong lễ hội ở Ninh Thuận được bảo lưu khá tốt, nhất là thủ tục tế/một nghi thức quan trọng trong lễ hội. Có tới 118/139 lễ hội còn lưu giữ thủ tục tế và có đội tế, chiếm tỷ lệ 84,9%. Trang phục của đội tế cũng được bảo lưu khá tốt, hầu hết là áo dài khăn đóng (đồng tiền mờ) màu xanh, đen, chủ tế thường mặc áo màu đỏ. Tuy nhiên, xu hướng “bắt chước” nhau giữa thôn/khu phố nọ và thôn/khu phố kia cũng bắt đầu xuất hiện, điều này sẽ làm giảm và dần mất đi bản sắc của từng lễ hội.

     Lễ vật dâng cúng của các lễ hội ở Ninh Thuận: ngoài các món ăn truyền thống như bánh, xôi, trà, rượu, trái cây được người dân dâng lên thần, cúng heo sống là một nghi thức quan trọng của lễ hội. Thủ tục tế heo sống còn được lưu giữ khá tốt, có tới 88/132 lễ hội có cúng heo sống, chiếm 66,6%. Có thể nhận định rằng các loại lễ vật dâng cúng ở Ninh Thuận rất đa dạng và còn bảo lưu tốt các yếu tố truyền thống.

     Trò chơi dân gian trong lễ hội có sự suy giảm đáng kể, chỉ có 21/139 lễ hội còn trò chơi dân gian. Trò chơi phổ biến nhất ở các lễ hội này là kéo co, bắt vịt… Các loại hình trò chơi dân gian trong lễ hội cũng bị pha tạp và cải biên nhiều. Các lễ hội có trò chơi dân gian được khôi phục đã thu hút được khá nhiều sự tham gia của nhân dân. Khi tiến hành khảo sát lễ hội cầu ngư ở huyện Ninh Hải, chúng tôi nhận thấy sự phục hồi các trò chơi dân gian ở đây rất mạnh, trong lễ hội có tới hơn 10 trò chơi dân gian. Đặc biệt, trong dịp Liên hoan làng biển Việt Nam tại Ninh Thuận vào tháng 8.2011, nhiều trò chơi truyền thống của người dân đã được phục hồi và tham gia vào lễ hội như: hè cù, đua rồng, đua thuyền thúng… Tuy nhiên qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng lễ hội ở Ninh Thuận bắt đầu có sự tham gia và lấn át của các loại hình trò chơi mới: việc tổ chức giao lưu thi đấu thể thao (thi đấu bóng đá, bóng chuyền, chạy việt dã…), sự xuất hiện các trò chơi hiện đại phần nào thay thế, lấn át các trò chơi truyền thống, điều này cũng là một thực trạng đáng báo động với các lễ hội truyền thống ở địa bàn Ninh Thuận nói chung.

     Qua khảo sát, chúng tôi cho rằng sở dĩ thực trạng lễ hội truyền thống của người Việt ở tỉnh Ninh Thuận như trên là do một số nguyên nhân:

     – Trong một thời gian dài, vì lý do kinh tế, cơ chế hoặc một số các lý do khách quan và chủ quan khác, lễ hội của làng không được tổ chức. Có những thôn/ khu phố trong nhiều năm không tổ chức lễ hội, vì vậy khi muốn phục hồi lễ hội thì họ gặp nhiều khó khăn (nhiều người già am hiểu về tổ chức nghi lễ đã cao tuổi và đã mất, những người trẻ trong làng không nhớ được quy trình, nghi thức tổ chức, đồ rước, các nghi trượng, nghi vật, trang phục tế bị hư hỏng, mất mát…), họ phải tìm hiểu, học tập, mô phỏng ở thôn/ khu phố khác một cách máy móc, dẫn đến tình trạng lễ hội thôn/khu phố này giống lễ hội thôn/khu phố kia, mất đi bản sắc của từng lễ hội. Bên cạnh đó, loại hình hát bội, hát bả trạo trong lễ hội, bản thân các thôn/khu phố không có nghệ nhân hoặc đoàn hát, phải đi mời đoàn ở các nơi khác về, dẫn đến tình trạng có năm thì làm, có năm lại không vì lý do kinh phí.

     – Vấn đề quy hoạch đô thị, quy hoạch khu công nghiệp dẫn đến phải di dời chùa, miếu, đình, một số nơi sáp nhập các miếu, đình lại một chỗ, di dời các làng nghề truyền thống… Một số nơi có khu công nghiệp, số lượng công nhân nhiều và chủ yếu từ nơi khác đến, mỗi người đều có những tập quán khác nhau ở địa phương của họ. Văn hóa truyền thống của cư dân bản địa không được họ coi trọng. Do đó, một số nơi, cư dân đông nhưng hoạt động văn hóa truyền thống lại không có. Bên cạnh đó, ở một số địa phương với việc quy hoạch đô thị hoặc tách nhập các đơn vị hành chính. Nhiều đơn vị xã, thôn trước kia không còn vai trò gì trong đời sống văn hóa của các cộng đồng thôn, một số thôn bị tách ra khỏi xã của mình, nhập vào các xã khác, không còn đình, không còn miếu, chùa, không còn Thành hoàng làng.

5. Vấn đề bảo tồn và phát huy

     Trên cơ sở nắm bắt được thực trạng văn hóa phi vật thể nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng của người Việt ở Ninh Thuận, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị khoa học để bảo tồn và phát huy. 

     – Thứ nhất: Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa ở các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở

+ Trước hết, phải làm cho cán bộ cơ sở nắm rõ khái niệm văn hóa với tính lý thuyết cũng như tính thực hành của nó. Đồng thời, không chỉ nâng cao nhận thức về phương diện lý thuyết, mà còn phải từng bước nâng cao nhận thức của cán bộ cơ sở về phương pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể. Hiện tại, có sự mất cân đối giữa văn hóa cổ truyền và văn hóa mới: Nhiều người quan niệm, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở chủ yếu là xây dựng văn hóa mới, đưa văn hóa mới xuống cơ sở, còn văn hóa cổ truyền của cộng đồng (làng) không có vai trò đáng kể trong cuộc sống đương đại ở cơ sở. Vì thế, cũng là hiển nhiên khi họ chỉ dồn kinh phí (vốn không phải là nhiều) cho các hoạt động văn hóa mới (thông tin cổ động, thể thao, văn nghệ quần chúng…). Theo chúng tôi, vấn đề kinh phí ở đây không phải là ít hay nhiều mà quan trọng hơn nó phản ảnh nhận thức, quan điểm của người dân và của lãnh đạo địa phương đối với văn hóa cổ truyền và văn hóa mới. Nếu chỉ dành kinh phí cho hoạt động văn hóa mới, người dân lập tức sẽ hiểu rằng văn hóa cổ truyền là cái không được khuyến khích và điều đó sẽ dẫn đến hành vi thờ ơ của họ trong việc thực hành văn hóa cổ truyền. Thực tế cho thấy rằng, ở nơi nào lãnh đạo quan tâm đến văn hóa cổ truyền thì nơi đó huy động được sức dân trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc (đóng góp xây dựng lại đình, chùa, khôi phục lễ hội…) đúng với quan điểm xã hội hóa văn hóa của Đảng và Nhà nước ta.

+ Khắc phục từng bước cách nhìn nhận, đánh giá về các hoạt động văn hóa, nhất là lĩnh vực văn hóa tâm linh, các mặt (tốt – xấu, tích cực – tiêu cực, tiến bộ – lạc hậu, tín ngưỡng – mê tín dị đoan, mỹ tục – hủ tục) trong cách thẩm định văn hóa.2 Quan điểm cần phải quán triệt ở đây là: Xem xét một hiện tượng văn hóa phi vật thể phải coi nó là một thực thể; Những loại hình văn hóa phi vật thể đó có phải là di sản văn hóa của dân tộc; Chức năng của các loại hình di sản văn hóa phi vật thể trong đời sống đương đại, những chức năng xã hội nguyên thủy của các di sản văn hóa phi vật thể nay có thể đã biến đổi, thay vào đó là những chức năng mới như thế nào.

Thứ hai: Đầu tư nghiên cứu và bảo tồn lễ hội dân gian ở làng biển tỉnh Ninh Thuận

     Là một trong 28 tỉnh, thành phố có biển, Ninh Thuận có bờ biển 105 km kéo dài từ Bình Tiên đến Cà Ná, có nhiều vũng, vịnh đẹp nổi tiếng như Bình Tiên, Vĩnh Hy, Ninh Chữ. Trải qua thời gian, nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như phong tục tập quán, văn hóa tín ngưỡng ứng xử với nghề đi biển như tục thờ cá ông, lễ cúng đình làng; trong văn hóa dân gian làng biển như: hát múa bả trạo, múa náp, múa siêu; các điệu hò biển, hát ru, hát đối đáp, ca dao tục ngữ, thể hiện cả trong ngôn từ, phương ngữ; sự thay đổi trong công cụ lao động, ngư lưới cụ, phương thức đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản… đã ít nhiều có sự biến đổi. Đây là vốn văn hóa quý cần được nghiên cứu và bảo tồn vì nó mang dấu ấn đặc trưng của cư dân làm nghề biển.

     Ninh Thuận là vùng đất đa dân tộc với các tộc người Việt, Chăm, Raglai… cùng sinh sống. Hiện nay, những nghiên cứu về văn hóa của người Chăm, Raglai ở Ninh Thuận rất nhiều, trong khi nghiên cứu về văn hóa của người Việt chiếm một tỷ lệ khiêm tốn. Hơn nữa, người Việt ở đây đã sống bằng nghề biển từ lâu đời nhưng chưa có nghiên cứu sâu về văn hóa làng biển. Đây là một mảng còn thiếu, đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần phải tiếp tục tìm hiểu.

     Nghiên cứu văn hóa của cư dân làm nghề biển ở các làng chài trên cả nước nói chung và Ninh Thuận nói riêng có ý nghĩa quan trọng bởi lẽ Việt Nam là một quốc gia biển. Hiện nay, biển và văn hóa biển có vai trò mũi nhọn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế – xã hội mà còn an ninh quốc phòng. Những chính sách được thực hiện trong thời gian qua chủ yếu đầu tư nguồn vốn và kỹ thuật để khai thác biển mà chưa chú ý đến bảo tồn văn hóa biển, liên quan đến phong tục tập quán, tri thức dân gian, lễ hội… Vì thế, nhu cầu cấp bách hiện nay là một mặt tích cực đầu tư nghiên cứu, mặt khác xây dựng chính sách để khôi phục và bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của ngư dân. Nên chăng có một bảo tàng về văn hóa biển như ý tưởng của nhiều nhà khoa học đã đề xuất trong thời gian gần đây. Và để có thể thực hiện được điều này thì ngay bây giờ chúng ta cần phải quan tâm, đầu tư việc bảo tồn các làng cổ ven biển như làng Vĩnh Hy, làng Cà Ná, làng Quảng Thuận… đây là những “bảo tàng sống” về văn hóa biển của người Việt ở Ninh Thuận.

     – Thứ ba: Cần có một chính sách văn hóa riêng đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, đặc biệt là lễ hội dân gian làng biển ở tỉnh Ninh Thuận.

     Do tính chất quan trọng của văn hóa phi vật thể trong đời sống xã hội đương đại nên việc khởi thảo một chính sách văn hóa quốc gia đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể là điều kiện tiên quyết đối với quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung và quá trình quản lý văn hóa nói riêng. Vấn đề tiếp theo của chính sách văn hóa (khó khăn phức tạp hơn) đó là việc thể chế hóa những đường lối, chủ trương đó sao cho phù hợp với thực tiễn xã hội. Ở đây là một loạt vấn đề: hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật bảo đảm cho chính sách vận hành được, các chế độ tài chính và bộ máy tương ứng, tạo dư luận xã hội,…

+ Tìm ra cơ cấu tổ chức xã hội, thiết chế văn hóa phù hợp với từng loại hình thái văn hóa phi vật thể (có nghĩa là ở đó hình thái văn hóa phi vật thể ấy được bảo lưu và phát triển tốt nhất). Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý và chỉ đạo hoạt động văn hóa ở các địa phương, các cơ sở.

     Những năm trước đây, ở các tỉnh miền Trung Trung Bộ, ngành văn hóa thông tin thường tổ chức hai năm một lần lễ hội văn hóa thể thao miền biển, lễ hội văn hóa thể thao miền núi. Tháng 8.2011, tỉnh Ninh Thuận tổ chức sự kiện Liên hoan làng biển Việt Nam, đây là một sự kiện nhằm quảng bá cho du lịch biển Ninh Thuận đồng thời tạo phong trào bảo tồn và phát huy các lễ hội, phong tục tập quán truyền thống các dân tộc ở Ninh Thuận. Trên thực tế, chúng ta có thể thấy rằng nếu tổ chức không tốt, các lễ hội này không những không thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền (trong đó có văn hóa phi vật thể) mà đôi khi lại càng làm cho quá trình mai một của văn hóa phi vật thể ở các cộng đồng diễn ra nhanh hơn. Sở dĩ chúng tôi nêu ra như vậy là vì: Lễ hội của tỉnh hai năm mới tiến hành một lần, và đây là một cuộc tổng biểu diễn (có tính chất lắp ráp, lắp ghép) của các tiết mục đơn lẻ (hát bả trạo, hát tuồng, hát dân ca…), đấy là chưa kể sự can thiệp của các nhà văn hóa quần chúng và nghệ thuật chuyên nghiệp. Vì thế, ở các cộng đồng, người ta không còn tổ chức lễ hội của cộng đồng mình thường xuyên và với mục đích tự thân nữa, họ chỉ chú trọng vào các tiết mục để “mang chuông đi đánh xứ người”. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại quy luật của văn hóa cổ truyền ở các cộng đồng. Giả sử như, số tiền đầu tư cho lễ hội của tỉnh như thế để đầu tư hỗ trợ ban đầu cho việc chấn hưng lễ hội ở các cộng đồng thì chắc chắn hiệu quả của chính sách văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước ta sẽ cao hơn. Ở đây, chúng tôi đánh giá như vậy không có nghĩa là tỉnh không nên tổ chức festival biển. Chúng tôi cho rằng, mục đích và mục tiêu của việc tổ chức các sự kiện là khác nhau. Tuy nhiên, văn hóa cần được đầu tư hài hòa và cân đối giữa cổ truyền và hiện đại sao cho các giá trị văn hóa cổ truyền có thể phát huy tốt trong cuộc sống đương đại là việc làm cần thiết và cấp bách.

     Bối cảnh xã hội hiện nay của đất nước nói chung, Ninh Thuận nói riêng đã cho phép chúng ta thực hiện những chính sách, đầu tư phù hợp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa. Chúng tôi cho rằng quá trình phát triển xã hội chỉ có thể được xem là bền vững khi những thành tựu tăng trưởng kinh tế gắn liền/song song với những kết quả tương ứng trong phát triển văn hóa. Văn hóa cần được xem là một yếu tố then chốt trong việc phát triển kinh tế. Việc khai thác lễ hội truyền thống vào hoạt động du lịch là cần thiết. Tuy nhiên, trước khi khai thác, cần phải đầu tư một cách khoa học và nghiêm túc. Đồng thời, cần phải nhìn nhận rằng: không phải bất cứ sự tăng trưởng kinh tế, hay khai thác du lịch nào cũng đảm bảo sự phát triển văn hóa tương ứng, đi kèm với nó. Sự cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa cần phải được cân nhắc ở mọi quy mô phát triển, ở từng nhóm lợi ích khác nhau, cũng như trong từng bối cảnh kinh tế – xã hội và văn hóa cụ thể của địa phương. Đối với Ninh Thuận, việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống cũng có những đặc điểm riêng và cần có những biện pháp thích hợp để công việc đó phù hợp và đạt được những hiệu quả thiết thực.

     Chú thích:

     1. Kết quả khảo sát các thôn/khu phố trên toàn tỉnh Ninh Thuận, năm 2011 – 2012.

     2. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi có chứng kiến một hiện tượng “Làng chuẩn bị giết heo tế thần trong lễ túc yết, chính quyền địa phương không đồng ý và yêu cầu phải đưa heo vào lò mổ giết. Nếu giết tại đình làng sẽ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm” Nếu làm như thế thì còn gì ý nghĩa của nghi thức túc yết? mà không làm thì lại vi phạm luật. Đây cũng là vấn đề tranh luận của văn hóa truyền thống trong quá trình phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Ánh – Đỗ Ngọc Anh – Phan Quốc Anh. 2013. Văn hóa phi vật thể người Việt ở tỉnh Ninh Thuận. Thành phố Hồ Chí Minh: Đại học Công nghiệp.

2. Đại học văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. 2012. Số liệu Tổng điều tra văn hóa phi vật thể Ninh Thuận.

3. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo. 2005. Từ điển văn hóa tín ngưỡng phong tục. Hà Nội: Văn hóa Thông tin.

4. Viện Văn hóa – Thông tin. 2003. Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể – Tài liệu tập huấn cho cán bộ văn hóa các tỉnh/thành phố. Hà Nội.

5. Viện Văn hóa – Thông tin. 2005. Văn hóa phi vật thể Hà Nội. Hà Nội: Thế giới.

6. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=11505

Nguồn: Miền Trung – Tây Nguyên / Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Lễ hội dân gian người Việt ở ven biển tỉnh Ninh Thuận
(Tác giả: PGS.TS Lâm Nhân)