BẢN SẮC VĂN HOÁ trong phát triển: SỰ CÒN MẤT của Tộc Người Sán Dìu ở Quảng Ninh
1. Tộc người Sán Dìu ở Quảng Ninh
“Quảng Ninh là hình ảnh của nước Việt Nam thu nhỏ”, là tỉnh địa đầu phía đông – bắc nước ta, có đồng bằng, trung du miền núi, biên giới, biển đảo, với diện tích tự nhiên 611.081,3km2. Theo tổng điều tra dân số ngày 01/4/2009, Quảng Ninh có 1.144.381 người, với 22 thành phần dân tộc, trong đó: dân tộc Kinh có 1.001.103 người, chiếm 87,47% dân số toàn tỉnh; 21 dân tộc thiểu số còn lại với dân số 143.278 người, chiếm 12,53% dân số toàn tỉnh. Có 6 dân tộc thiểu số số dân trên 1.000 người, gồm: dân tộc Dao 68.540 người, chiếm 47,80% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; Tày: 29.849 người, chiếm 20,80%; Sán Dìu: 20.899 người, chiếm 14,60%; Sán Chay (gồm Cao Lan và Sán Chỉ): 16.107 người, chiếm 11,20%; Hoa: 5.503 người, chiếm 3,80%; Nùng: 1.266 người, chiếm 0,88%. Còn lại là các thành phần dân tộc thiểu số khác như: Mường, Thái, Khơ-me, Hmông, Thổ, Giáy,… chiếm 1,80%.
Người Sán Dìu ở Quảng Ninh, có dân số theo các năm như sau: Năm 1979 có 10.477 người; năm 1989 có 14.691 người; năm 2009 có 20.899 người. Người Sán Dìu cư trú trên địa bàn toàn tỉnh.
Người Sán Dìu tự nhận mình là San Déo nhín (山瑶人) và cũng được gọi theo lứa tuổi như: Người lớn gọi là “San Déo láo” (山瑶老); người trẻ gọi “San Déo chế” (山瑶子). Ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, nói tiếng thổ ngữ Quảng Đông (土語廣東). Tộc người Sán Dìu có nguồn gốc ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc, thiên di sang Việt Nam và định cư hơn 300 năm nay.
2. Vài nét về văn hoá truyền thống của người Sán Dìu
Hoạt động kinh tế
Người Sán Dìu cư trú trên một dải bán sơn địa rộng lớn, có rừng, có núi đồi, có đồng bằng và biển hồ. Việc khai thác lâm thổ sản, săn bắn, đánh bắt, lấy măng, lấy củi, hái các loại quả, nấm và các loại cây thuốc dược liệu quý,… đã cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho đời sống của đồng bào.
Trồng trọt: Trong sản xuất nông nghiệp, đồng bào cũng có nhiều loại ruộng như: Ruộng cao (cao thén) trồng lúa nương, ngô, sắn,…; ruộng đất pha cát (láy pha sa) trồng khoai lang, lạc, khoai sọ, củ từ,…; ruộng thấp (láy thén) cấy lúa nước và các loại hoa màu; ruộng nương (láy xé) trồng lúa nương, ngô, kê, sắn và mía,…; ruộng lầy thụt (sim phang thén) chỉ cấy được một vụ lúa trong năm, còn các vụ khác như: mùa hè cấy rau muống, mùa đông cấy rau cải soong, rau cần,…
Chăn nuôi: Các loại gia súc như lợn, trâu, bò; các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng,… Chăn nuôi theo phương thức hộ gia đình, phương pháp chăn nuôi chủ yếu là chăn thả tự nhiên.
Các nghề thủ công: Phổ biến nhất là nghề đan lát. Ngoài ra, đồng bào còn một số nghề thủ công khác như: nghề rèn, nghề dệt sợi, nghề mộc. Những nghề này ít người biết làm, nên các sản phẩm làm ra chỉ để cung cấp trong cộng đồng.
Văn hoá tổ chức cộng đồng
– Tổ chức xã hội: Trước Cách mạng Tháng 8-1945, người Sán Dìu cũng bị chi phối bởi hệ thống chính trị – xã hội thực dân nửa phong kiến. Các khu cư trú của người Sán Dìu được tổ chức từ trên xuống dưới với các cấp phủ, châu, tổng, xã, làng, thôn. Cai quản phủ, châu là người Kinh, cai quản từ cấp tổng trở xuống là người Sán Dìu.
Bên cạnh tổ chức hành chính, người Sán Dìu có một tổ chức do chính đồng bào sáng lập ra gọi là tổ chức “Phường”. Phường là tổ chức tương thân, tương ái, trợ giúp nhau, các thành viên trong một xóm làng, quy tụ thành một phường. Thông qua cách bầu cử dân chủ để chọn ra một người có uy tín, được mọi người kính trọng giữ chức vụ Trưởng phường. Trưởng phường có nhiệm vụ đôn đốc, chỉ đạo các thành viên trong phường tham gia các công việc cộng đồng như: xây dựng đường sá, cầu cống, đình miếu hay giúp đỡ gia chủ (trong phường) trong những việc cưới hỏi, tang ma, dựng nhà, giải quyết các mâu thuẫn xích mích trong gia đình và cộng đồng, duy trì các phong tục tập quán, văn hoá truyền thống của dân tộc.
– Tổ chức gia tộc, gia đình: Trước Cách mạng Tháng Tám (1945), không còn nhiều kiểu đại gia đình tứ – ngũ đại đồng đường cùng sống, cùng sản xuất và cùng hưởng thụ như trước mà đã chuyển sang gia đình nhỏ phụ quyền với hai hoặc ba thế hệ (ông bà – cha mẹ – con cái). Các con trưởng thành (con trai thứ và út) sau khi lấy vợ đều được gia đình, gia tộc và cộng đồng giúp dựng nhà mới ra ở riêng, người con trai trưởng sau khi lấy vợ, phải ở với bố mẹ để phụng dưỡng, thờ cúng tổ tiên.
Văn hoá vật chất
– Làng bản, nhà cửa
Làng bản của người Sán Dìu chủ yếu toạ lạc ở những sườn đồi hay chân đồi, mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà. Nơi ở lí tưởng là vùng bán sơn địa, nơi đó phía trước là cánh đồng, sau lưng là đồi rừng, sông suối để tiện cho việc cấy lúa và trồng hoa màu.
Người Sán Dìu gọi nhà là “ộc”, nhà ba gian hai chái, với bộ sườn kết cấu đơn giản. Vì kèo thường là năm cột, kèo đơn bằng gỗ nguyên cây, xà và kèo gác lên ngoãm đầu cột, rồi buộc lại với nhau bằng dây lạt hay dây rừng. Mái nhà được lợp bằng rơm rạ, cỏ tranh,… Xung quanh nhà được dựng nan tre rồi vắt rơm trộn bùn thành tường vách nhà.
– Ẩm thực
Lương thực hằng ngày của đồng bào là gạo tẻ, chủ yếu được nấu thành cơm và cháo loãng. Ngoài ra, gạo tẻ được giã thành bột dùng để làm bánh cuốn, bánh đúc,… Gạo nếp thường được dùng trong những dịp lễ tết, nếp dùng để thổi xôi và cũng được giã thành bột để làm bánh bạc đầu, bánh Tà loòng ệt, bánh trôi…
Thức ăn hằng ngày của người Sán Dìu rất đơn giản, cơm, rau là thành phần chủ đạo trong cơ cấu bữa ăn, các loại thịt, cá được thay đổi từng ngày song không thường xuyên. Thức ăn được chế biến rất phong phú từ luộc (sap), xào (xáo), hấp (hip) cho đến nướng (chác), rán (hoc),... tạo ra sự tinh tế trong cách chế biến và thưởng thức món ăn của đồng bào.
Văn hoá ẩm thực còn thể hiện sâu sắc hơn trong các ngày lễ tết của đồng bào, với những món ăn đậm bản sắc dân tộc như: khau nhôộc, thịt thính (nhôộc trụ chạo), thịt ướp chua (diẹp nhôộc), bánh lá ngải (ngòi bảnh), xôi nhuộm màu (ngủ sệch phan), bánh chưng gù, bánh tà loòng ệt,…
Về thức uống, đồng bào có nhiều loại thức uống khác nhau. Đầu tiên phải kể đến là rượu, rượu cũng có rượu cất (chuý chíu) và rượu nếp cái (phan chíu). Các thức uống hằng ngày được đồng bào ưa dùng là nước cháo loãng (chốc ím), nước chè xanh, nước lá vối,…
Về hút thuốc và ăn trầu. Đàn ông Sán Dìu hút thuốc lào (Sôc en), phụ nữ ăn trầu như một thói quen, họ ăn trầu cũng là để nhuộm răng.
– Trang phục
Nam giới thường mặc hai chiếc áo, áo trong màu trắng, áo ngoài có màu nâu hoặc đen. Hai áo này chỉ khác nhau về màu sắc và khích thước, áo trong ngắn hơn áo ngoài, còn kiểu dáng giống nhau. Áo có năm thân, cổ cao, cài khuy bên phải, tay áo hẹp, áo chỉ dài quá đầu gối một chút. Quần màu nâu hay đen, cắt theo kiểu chân què, cạp lá toạ, thắt lưng màu chàm. Thường ngày, trong lao động thì đi chân trần, khi đi xa, đi chơi mới đi dép quai ngang hay đi giày.
Bộ trang phục nữ của đồng bào gồm có khăn đội đầu, áo trong, áo ngoài, dây lưng, váy và xà cạp. Phụ nữ Sán Dìu vấn tóc, đội khăn gần giống người miền xuôi. Áo trong ngắn hơn áo ngoài, áo trong màu trắng, áo ngoài màu chàm nhưng cùng một kiểu dáng. Đó là loại áo tứ thân, cổ cao, nẹp trơn không có khuy, bên trong nẹp đáp thêm vải màu trắng để khi mặc lộ ra ngoài. Cách mặc cũng có sự phân biệt giữa tuổi tác. Người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt áo bên trái, sau khi mặc chiếc nẹp bên trong được lộn ra, tạo thành đường chéo nhau từ cổ xuống ngực. Người già mặc áo vạt trái vắt phủ lên vạt bên phải rồi dùng thắt lưng hoa lí, tím hay đỏ thắt lại. Váy của phụ nữ Sán Dìu rất độc đáo, chỉ là 2, 4, hay 5, 6 mảnh vải được đính trên một xà cạp, tạo cho mảnh nọ chờm trên mảnh kia khoảng 10 đến 15cm. Do vậy, váy nhiều mảnh này có cái tên rất thú vị: váy lá (xệch khun). Xà cạp (kiọc sen) bằng vải màu đen hoặc màu chàm.
Đồ trang sức của đồng bào gồm vòng kiềng, khuyên tai, nhẫn được làm bằng bạc. Đặc biệt phụ nữ Sán Dìu có chiếc túi trầu (loi thoi) hình múi bưởi, được may và thêu thùa rất công phu.
Văn hoá tinh thần
– Tín ngưỡng
Tín ngưỡng của đồng bào Sán Dìu rất phong phú. Với thế giới quan đầy sinh động, đồng bào tin theo thuyết “vạn vật hữu linh”, tam giáo đồng nguyên (Nho – Phật – Đạo),… Đồng bào quan niệm rằng: con người có hai phần đó là linh hồn và thể xác. Thể xác là cái tạm thời, khi chết thể xác mất đi, chỉ có linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Do vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được đồng bào coi trọng hàng đầu.
Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Sán Dìu còn thờ thần cửa, thổ công, vua bếp. Đây là những vị thần bảo hộ, không cho các ma quỷ vào trong nhà, phù trợ cho các thành viên trong gia đình được mạnh khoẻ. Những gia đình có con nhỏ hay người trong thời kì sinh nở đều có bàn thờ mụ (Pha công, pha mủ).
Đồng bào Sán Dìu có khái niệm “cúi” (ma). Khái niệm này dùng để chỉ chung các thần, thánh, tổ tiên và ma quỷ dữ, nhưng cũng có sự phân biệt rõ ma lành (hén cúi) là thần thánh, Phật, tổ tiên… và ma dữ (thoọc cúi) là cô hồn, người chết không nơi thờ phụng.
Những người làm thầy cúng thờ Phật Quán Thế Âm, thờ Tam Thanh và thờ tổ sư. Bàn thờ Phật và bàn thờ Tam Thanh được đặt một nơi riêng nhưng phải cao hơn bàn thờ tổ tiên, còn bàn thờ tổ sư được đặt ngang hàng với bàn thờ tổ tiên.
– Lễ tết, lễ hội
Các ngày lễ tết được phân bố theo thời gian trong năm. Do vậy, hầu như tháng nào đồng bào cũng có tết như: Tết Nguyên Đán (Sin nén chẹt phoi), Tết Thanh minh (Sênh mếnh chẹt phoi), Tết mùng 5 tháng 5 (Lống són chẹt phoi), Tết rằm tháng 7 (Mộc nén ka chẹt), Tết cơm mới (Sệch sin phan), Tết Đông chí (Đông chi chẹt phoi), Tết Tất niên (Khiu nén chẹt phoi).
Lễ hội lớn nhất của người Sán Dìu là lễ hội Đại phan (Thai phan). Đây là hệ thống các nghi lễ như: lễ dựng vương đàn, ngũ nhạc lầu, lễ nhập phướn, lễ chém thảo chiều, ngũ đại thiên vương chạy đàn, lễ leo gươm, lễ cấp sắc, lễ giải oan hồn, hát soọng cô,… Lễ hội được tổ chức từ 5 đến 7 ngày với sự hiện diện của các vị thầy cúng cao tay cùng sự tham gia của hàng nghìn người dân. Ngoài lễ Đại phan còn có nhiều lễ hội khác như: lễ thượng điền, lễ hạ điền, các lễ ở đình làng, hội xuân…
– Văn nghệ dân gian
Người Sán Dìu có vốn văn nghệ dân gian khá phong phú, được thể hiện ở các lĩnh vực: về diễn xướng có hát đối đáp giao duyên Soọng cô, các bài cúng tế của các thầy cúng, nhạc khí có tù và (ngói cọc), sáo, thanh la, trống da,…; về vũ chỉ dùng trong các bài cúng tế dùng trong lễ Đại phan, ma chay, cúng giải hạn,…; về hội hoạ, có một số người biết chủ yếu để sao chép tranh thờ, tranh cúng, khắc những con dấu, ấn tín của thầy; về văn học, lĩnh vực này khá phát triển trong nhân dân lao động, với loại hình văn học dân gian chủ yếu là thơ ca ứng tác và truyền khẩu. Bên cạnh thơ ca còn có ca dao, tục ngữ, câu đố cũng rất phong phú được đồng bào đúc rút từ kinh nghiệm trong đời sống. Đồng bào cũng có nhiều truyện thơ đặc sắc phải kể đến như: Dựng đất mở trời (Hoi then dịp thi), Vua cóc ở Man Cay Coóc, Slún nghi, Món lóng,… Trò chơi dân gian đánh cầu lông (tả khìu), đánh khăng, đánh quay, đuổi gà vào chuồng, đuổi chó vào cũi, kéo co, cà kheo…
– Tri thức bản địa
Trong cuộc sống, người Sán Dìu tích luỹ được nhiều tri thức bản địa vô cùng quý giá và đặc sắc như: tri thức bản địa về nông nghiệp, tri thức bản địa về y học,…
3. Xu hướng biến đổi văn hoá của người Sán Dìu ở Quảng Ninh
Sự phát triển của kinh tế – xã hội trong quá trình CNH – HĐH đất nước trong bối cảnh hiện nay, đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi văn hoá của tộc người Sán Dìu. Sự biến đổi đó đã làm thay đổi diện mạo văn hoá của người Sán Dìu theo hai xu hướng sau: Một là, khẳng định cốt lõi văn hoá truyền thống và bổ sung thêm những yếu tố mới của văn hoá hiện đại; Hai là, làm mai một, biến dạng bản sắc văn hoá và tiếp thu văn hoá ngoại lai không cùng nguồn gốc, sự tác động của văn hoá ngoại lai chưa được thẩm định, đánh giá thấu đáo. Cả hai xu hướng trên cùng tồn tại và phát triển song hành trên các lĩnh vực văn hoá, tạo nên sự cộng sinh giữa văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại. Điều này được thể hiện trên các bình diện văn hoá sau:
Về lĩnh vực hoạt động kinh tế
Hoạt động kinh tế truyền thống của người Sán Dìu có sự biến đổi nhiều, các nghề truyền thống không chỉ bó hẹp như trước, mà có đủ nghề từ lao động phổ thông đến lao động trí óc.
Về lĩnh vực văn hoá tổ chức cộng đồng
Tộc người Sán Dìu vẫn giữ được tổ chức “Phường”. Tuy nhiên, tổ chức tương thân, tương ái này hiện nay nội dung hoạt động đã được thu hẹp lại, chỉ bó gọn trong việc tang ma. Các việc trọng đại khác như: cưới xin, làm nhà mới,… được các gia đình tự lo liệu, không cần sự trợ giúp từ tổ chức Phường.
Tổ chức gia tộc, gia đình ngày càng được củng cố. Anh em, con cháu trong gia đình, họ tộc luôn đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc và cuộc sống. Các cuộc họp mặt ít được diễn ra, vì anh em trong dòng họ lập nghiệp mỗi người một nơi và cũng nhờ công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các thành viên trong dòng họ dễ dàng trao đổi, thông tin cho nhau nên việc gặp gỡ trực tiếp thường được tổ chức trong các dịp như: sinh nhật, cưới hỏi, tang ma,…
Về lĩnh vực văn hoá vật chất
Về phương diện văn hoá vật chất có thể nhận thấy có sự thay đổi mạnh mẽ về nhà ở, ăn uống và trang phục. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ hoạt động nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, cùng với sự cư trú đan xen với người Kinh đã làm thay đổi không gian cư trú của tộc người này. Hiện nay vào trong những cộng đồng người Sán Dìu ở Quảng Ninh, chúng ta không còn thấy những ngôi nhà tranh, vách đất với bộ vì kèo đơn giản, mà thay vào đó là những ngôi nhà được xây gạch kiên cố, lợp mái ngói đỏ, có những nhà mái bằng bê tông cốt thép chắc chắn, thậm chí đã có nhiều ngôi biệt thự. Chính vì vậy, không gian kiến trúc nhà ở cổ truyền của tộc người Sán Dìu hiện nay không còn hiện diện trong các thôn, xóm, khu phố của người Sán Dìu sinh sống.
Về ăn uống, cơ bản người Sán Dìu vẫn chọn gạo tẻ là lương thực hàng ngày và chủ yếu được nấu thành cơm và cháo loãng. Tuy nhiên, cháo ít xuất hiện trong bữa ăn của người Sán Dìu. Thức ăn hàng ngày của người Sán Dìu chủ yếu là cơm, rau, là thành phần chủ đạo trong cơ cấu bữa ăn.
Các món ăn từ thịt, cá và nhiều món ăn hiện đại khác được thay đổi từng ngày. Các món ăn truyền thống chỉ làm vào các dịp lễ tết hoặc sinh nhật như: khau nhôộc, bánh lá ngải, xôi nhuộm màu, bánh chưng gù, bành tà loòng ệt,… Tập tục ăn trầu chỉ còn thấy ở các bậc cao niên trong cộng đồng, các bậc trung niên hiện nay không còn giữ tập tục này.
Trang phục truyền thống của người Sán Dìu ở Quảng Ninh đã từng rơi vào quên lãng. Năm 2007, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, tổ chức phục dựng lễ hội Đại phan, trong đó có may lại trang phục của dân tộc Sán Dìu, song cũng không đúng nguyên bản trang phục cổ truyền. Ngày nay, do giao lưu, hội nhập văn hoá và dưới tác động của kinh tế thị trường, trang phục truyền thống của người Sán Dìu không được sử dụng hàng ngày, thậm chí nhiều người Sán Dìu chưa từng nhìn thấy trang phục của dân tộc mình. Tâm lí hiện nay của người Sán Dìu là không thích mặc trang phục truyền thống vì không tiện lợi, không phù hợp với lối sống hiện đại. Tuy nhiên, đồng bào rất muốn bảo tồn và lưu giữ trang phục truyền thống của mình trong các dịp lễ hội.
Về lĩnh vực văn hoá tinh thần
Ngày nay, tín ngưỡng của người Sán Dìu đã được đồng bào tinh giản tối đa tính phức tạp của loại hình văn hoá này như: việc cúng bái đã hạn chế rất nhiều; các nghi lễ trong cưới xin, tang ma,… đã loại bỏ đi những thủ tục rườm rà không cần thiết, số ngày tổ chức các nghi lễ được rút ngắn. Các ngày lễ tết trong năm vẫn được đồng bào duy trì như: Tết Nguyên Đán, Tết Thanh minh, Tết mùng 5 tháng 5, Tết rằm tháng 7, Tết cơm mới, Tết Đông chí, Tết Tất niên. Lễ hội của người Sán Dìu đã được phục dựng lại là Lễ hội Đại phan (2007) và được đồng bào tự tổ chức theo quy mô dòng họ. Văn nghệ dân gian và tri thức bản địa là hai khoảng trống lớn đang bị bỏ ngỏ. Kho tàng về sách cổ, dân ca, truyện, các bài thuốc dân gian… dần rơi vào quên lãng và theo các bậc cao niên về thế giới thiên cổ. Số người am hiểu về văn nghệ dân gian và tri thức bản địa ngày càng cạn dần.
4. Những vấn đề đặt ra hiện nay
Các giá trị văn hoá tốt đẹp đã, đang tồn tại và sẽ xuất hiện những yếu tố mới trong đời sống văn hoá xã hội của đồng bào như: thực hiện nếp sống văn minh về việc cưới, việc tang và lễ hội; thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; xây dựng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,… Các yếu tố này, đang phát huy tác dụng và đã đi vào cuộc sống của đồng bào.
Song, bên cạnh đó văn hoá tộc người Sán Dìu hiện nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Bởi, các yếu tố văn hoá ngoại lai đã phần nào làm cho nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng bào bị phá vỡ, không còn giữ được sự thuần khiết như trước, mà bị bào mòn, bị pha trộn, lai căng đi rất nhiều.
Thêm nữa, sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Internet, ngoài những bổ ích, tiện lợi phục vụ trong công việc và cho cuộc sống, thì cũng có nhiều điều không phù hợp với thuần phong mĩ tục mà đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất là giới trẻ như: tệ nạn nghiện game, xâm hại tình dục, mâu thuẫn học đường,… Đây là thực trạng đang gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Những hiện tượng đó làm băng hoại các giá trị văn hoá được coi là chuẩn mực và những hành vi lệch chuẩn ngày càng gia tăng. Điều này rất dễ dẫn đến tình trạng hụt hẫng, nhiễu loạn trong đời sống văn hoá xã hội của người Sán Dìu.
Nhiều nét đẹp văn hoá truyền thống trong đời sống của đồng bào, như: đám cưới truyền thống, hát đối đáp giao duyên, ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực, văn nghệ dân gian,… đã dần rơi vào quên lãng. Đây là kết quả của sự du nhập văn hoá vào lối sống hiện đại, thông qua các kênh thông tin và sự giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hoá với nhau.
Biến đổi văn hoá đã và đang tạo ra tình trạng hụt hẫng, nghèo nàn và gây nhiễu loạn trong đời sống văn hoá của tộc người Sán Dìu. Tình trạng phai nhạt bản sắc văn hoá đang diễn ra nhanh chóng và phổ biến, biểu hiện qua rất nhiều yếu tố văn hoá trong cuộc sống như: thờ ơ với trang phục truyền thống, không sử dụng tiếng mẹ đẻ, không còn những cuộc hát đối đáp giao duyên,… Hiện tượng “Kinh hoá”, “Tây hoá” đang đe doạ đến bản sắc văn hoá của người Sán Dìu. Nhất là một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay chỉ quan tâm đến văn hoá thời đại, với lối sống ngày càng trở nên thực dụng, chủ nghĩa cá nhân mà quên dần đi bản sắc văn hoá của dân tộc đã được ông cha đúc kết từ ngàn đời.
Từ những vấn đề đặt ra hiện nay, cần có các giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tộc người Sán Dìu tại cộng đồng.
Mỗi cá nhân phải nhận thức được tầm quan trọng của bản sắc văn hoá dân tộc, từ đó luôn có ý thức học hỏi vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc để bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị bản sắc văn hoá của dân tộc mình.
Gia đình phải thực hiện đúng chức năng, vai trò và trách nhiệm trong việc truyền dạy văn hoá truyền thống dân tộc, đạo hiếu,… Phát triển kinh tế bền vững phải dựa trên những chuẩn mực văn hoá truyền thống của dân tộc.
Tăng cường vai trò của dòng họ, gia tộc trong việc giáo dục thế hệ trẻ về cội nguồn dân tộc, hiếu kính, truyền thụ tri thức bản địa, bí kíp gia truyền,… Những tri thức văn hoá đó cần được sống mãi, không bị mai một, thất truyền.
Cộng đồng là nơi giữ gìn nhiều yếu tố văn hoá, phong tục tập quán truyền thống nhất. Tuy nhiên, phải biết khôi phục, biết “gạn đục khơi trong”, phải nhận thức cho đúng các giá trị văn hoá đích thực, biết loại bỏ những hủ tục, mê tín đã được khoa học chứng minh, biết làm sống lại và phát huy các mĩ tục như: các điệu dân ca, Soọng cô, hội xuân,… làm nên bản sắc dân tộc.
5. Kết luận
Văn hoá truyền thống của tộc người Sán Dìu không chỉ biến đổi về hình thức, cấu trúc đơn thuần, mà còn biến đổi cả về quan niệm, nội dung, đạo đức, lối sống truyền thống. Sự biến đổi đó đang làm văn hoá truyền thống của người Sán Dìu bị biến đổi, bị mai một, lai tạp một cách nhanh chóng. Phát triển theo hướng đi lên, nhưng trong quá trình phát triển thì phải biến đổi, biến đổi như thế nào để phát triển trong sự bảo tồn các giá trị văn hoá đích thực, đòi hỏi các cấp, ban ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương có những chính sách, chương trình cụ thể để bảo tồn và phát huy hiệu quả các di sản truyền thống quý báu của ông cha ta.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, để giữ gìn bản sắc văn hoá trong phát triển kinh tế – xã hội của tộc người Sán Dìu, cần phải làm sống lại các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp làm nên bản sắc dân tộc, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hoá của nhân loại vào trong đời sống cộng đồng. Đặc biệt, giáo dục thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, cần phải giữ gìn được cốt lõi văn hoá truyền thống, những giá trị văn hoá đích thực của dân tộc, để hội nhập mà không đánh mất mình, tránh lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, xa rời văn hoá truyền thống.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Ma Khánh Bằng, Người Sán Dìu ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.
2. Trần Quốc Hùng, Nghi lễ vòng đời người Sán Dìu ở Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Đại học Huế, 2012.
3. Trần Quốc Hùng, Phát triển bền vững vùng dân tộc, miền núi tỉnh Quảng Ninh – Kết quả cùng những vấn đề đặt ra hiện nay, Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế Phát triển bền vững và xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi do Ngân hàng Thế giới và Đại học Thái Nguyên đồng tổ chức, 2014, tr. 43.
4. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Địa chí Quảng Ninh, NXB Thế giới, Hà Nội, 2001.
5. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng tới năm 2020, Quảng Ninh, 2007.
TRẦN QUỐC HÙNG 1
__________
1. Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh.