Bàn thêm về VAI TRÒ TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ của TRƯƠNG VĨNH KÝ
DƯƠNG THU HẰNG
(Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên)
1. A tòng hay tiên phong?
Lâu nay, khi bàn về vai trò truyền bá chữ Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký vẫn có hai luồng ý kiến có xu hướng đối lập. Một là những nhận định đánh giá cho rằng Trương Vĩnh Ký là người có công đầu trong việc phổ cập chữ Quốc ngữ ở Việt Nam, xếp ông ở vị trí “cột mốc đánh dấu một cuộc xuất phát” [1]. Luồng ý kiến thứ hai có xu hướng phủ định vai trò truyền bá chữ Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký, mà Phạm Thế Ngũ [6] là một đại diện tiêu biểu.
Có thể thấy, phía quy công, lấy bằng cứ là những công việc, tác phẩm thực tế của Trương Vĩnh Ký; bên buộc tội, nệ vào chủ trương của chính quyền thực dân được cụ thể hoá bằng các nghị định, thông tư. Nhưng ít người lưu tâm đến tính niên đại và theo đó là những tương tác của hai “bằng chứng” này. Vì thế, công việc của chúng tôi là thử tạo một dấu nối giữa hai cách đánh giá này.
Sau khi thống kê đối chiếu, chúng tôi thấy: Việc phổ biến chữ Quốc ngữ và bãi bỏ chữ Hán, chữ Nôm là một chính sách quan trọng của chính quyền Pháp, cả về chính trị và văn hoá: “tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ Quốc ngữ, sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu để lập ra ở Bắc Kì một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông…” [7, tr. 22]. Đó là biến Việt Nam thành thuộc địa và tách người dân Việt, trong đó trí thức Nho học có vai trò dẫn đạo tinh thần, ra khỏi văn hoá truyền thống vốn nhiều ràng buộc với Trung Hoa. Và phương thức để thực hiện mục tiêu này là chữ Quốc ngữ. Thời điểm chính thức thực hiện chính sách này là ngày ban hành nghị định ngày 22/2/1869 của thống đốc Nam Kì và phải đến tận năm 1910 mới được thực thi tại Bắc Kì với thông tư ra ngày 01/6 về việc phổ biến chữ Quốc ngữ. Trong gần một nửa thế kỉ đó, chính quyền thuộc địa đã ban hành khá nhiều thông tư, nghị định nhằm mau chóng đồng hoá người Việt. Bên cạnh đó, chính quyền thực dân sẵn sàng trọng thưởng hoặc bổ dụng nắm giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước cho những ai giỏi tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Song thực tế không diễn ra thuận lợi như hình dung ban đầu của người Pháp. Chính Legrand de la Liraye – một quan chức của chính quyền thực dân đương thời đã thừa nhận (ngày 05/1/1873): “Sau 10 năm thí nghiệm, việc dùng những mẫu tự Latin không bắt rễ được vào dân chúng trong 6 tỉnh của chúng ta…” [7, tr. 109].
Trương Vĩnh Ký là một trong những người Việt Nam đầu tiên cộng tác với Pháp. Là thông ngôn đầu tiên cho chính quyền thực dân và sau này ở nhiều cương vị khác, như: giáo sư Pháp văn, Chánh tổng tài Gia Định báo, giám đốc trường Sư phạm thuộc địa…, chắc chắn ông phải có vai trò nhất định trong việc thực thi các chính sách của nhà cầm quyền đương thời.
Song, chính bảng đối chiếu trên cũng cho thấy ngày 22/2/1869, nhà cầm quyền Pháp chính thức ban hành nghị định về việc dùng chữ Quốc ngữ trong các giấy tờ chính thức trong khi ba năm trước đó, 1866, Trương Vĩnh Ký đã cho ra đời ấn phẩm Quốc ngữ đầu tiên là Chuyện đời xưa. Và, khoảng cách giữa tác phẩm biên khảo đầu tiên của Trương Vĩnh Ký (Chuyện đời xưa – 1866) và Niên giám bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Pháp năm 1879 là 13 năm. Như vậy, việc coi Trương Vĩnh Ký là một công cụ tay sai thực hiện các chính sách của nhà cầm quyền không dễ “đứng” được trước thực tế này. Thậm chí, trong chừng mực nào đó có thể nghĩ tới một nhận định khác, rằng: các hoạt động của ông đã là những gợi ý hữu hiệu cho nhà cầm quyền xem xét điều chỉnh các thông tư, nghị định sau này. Chẳng hạn, sau 3 năm thực thi chính sách ép buộc, đến năm 1872, người Pháp nhận ra rằng không thể cưỡng bức việc dùng chữ Quốc ngữ bằng cách bắt người Việt đoạn tuyệt với văn hoá truyền thống của họ: “Người ta sẽ không chống lại việc học chữ viết bằng mẫu tự La tinh nếu tiếng An Nam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung Hoa cơ bản và cổ điển.” [7]… Thật ra, Trương Vĩnh Ký đã ý thức và thực hiện điều này từ nhiều năm trước đó bằng cách đưa chữ Quốc ngữ từng bước một thâm nhập vào đời sống qua những câu chuyện kể quen thuộc, như Chuyện đời xưa, qua các mẩu tin ngắn hay các bài viết trong mục “Thứ vụ” trên Gia Định báo… Người Pháp cho thiết lập trường học để phổ cập chữ Quốc ngữ từ năm 1880 trong khi Trương Vĩnh Ký đã chủ trương điều này từ năm 1866, khi ông biên soạn Chuyện đời xưa và khi ông làm Chánh tổng tài Gia Định báo từ năm 1869. Theo Nghị định ngày 16/11/1906, người Pháp quyết định cải tổ học chánh bản xứ bằng việc yêu cầu viết sách giáo khoa bằng chữ Quốc ngữ còn Trương Vĩnh Ký đã soạn Sơ học quy chánh (3 tập) hay Quốc ngữ tự vận từ năm 1876… Phân tích thông tư cuối cùng, đầy đủ nhất về việc phổ biến chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp ra ngày 01/6/1910 càng có cơ sở để khẳng định rằng: đến năm 1910 (DTH nhấn mạnh) người Pháp mới thực sự ý thức đầy đủ được là muốn phổ biến chữ Quốc ngữ phải thông qua các hoạt động văn hoá cụ thể và cách mà người Pháp cho là “phương thức tốt nhất để truyền bá chữ Quốc ngữ là tạo cho nó một chỗ đứng bên cạnh chữ nho trong việc ghi chép những tài liệu chính thức và văn thư hành chánh…” [7, tr. 45] đều đã được Trương Vĩnh Ký “phát biểu” và hành động từ trước đó 44 năm (1866). Đứng trước sự lựa chọn một thứ văn tự chính thức cho dân tộc, giữa 4 phương án: Hán, Nôm, Quốc ngữ theo mẫu tự Latin và Pháp, trong tình thế người Pháp chủ trương đồng hoá quyết liệt, Trương Vĩnh Ký – ở vị thế một viên chức trong bộ máy hành chính của chính quyền thuộc địa – đã chủ động, rành rọt và kiên định chọn chữ Quốc ngữ: “Chữ Quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hoá” (DTH nhấn mạnh) [4]. Đồng thời, chúng ta chưa, hay không thể tìm thấy bất cứ tư liệu nào, kể cả nguồn Pháp văn, cho thấy ông tán thành hoặc hăng hái với việc dạy và phổ biến tiếng Pháp ở Việt Nam, nhiều nhất cũng chỉ là một sự lặng im trước một vài phát ngôn của giới chức thực dân. Rõ ràng, Trương Vĩnh Ký đã không hành động như một kẻ a tòng, hay một công cụ. Song liệu ông có “vẽ đường cho hươu chạy”, hay nói khác đi, mục đích hành động của Trương Vĩnh Ký là gì? Dưới đây, do khuôn khổ hạn chế của một bài viết, chúng tôi trở lại khảo sát hoạt động báo chí của ông để kiếm tìm một lời giải (công việc khảo cứu, dịch thuật, phiên âm sẽ được đề cập ở một lần khác).
2. Hoạt động báo chí của Trương Vĩnh Ký
Trước hết, dựa vào vị trí và công việc bản thân, Trương Vĩnh Ký đã thực hiện việc truyền bá chữ Quốc ngữ thông qua tờ Gia Định báo và tập san Thông loại khoá trình. Ban đầu, nhà cầm quyền Pháp cho phát hành tờ Gia Định báo như một tờ công báo, lưu hành ở công sở, nhân viên thư lại sẽ là người thực thi và truyền khẩu lại những nội dung chính của báo đến dân chúng. Nhưng từ khi Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm (1869), tờ báo có thêm một nhiệm vụ quan trọng khác là cổ động cho một lối học mới, phát triển chữ Quốc ngữ; và đương nhiên tờ báo được lưu hành rộng rãi hơn, thu hút được sự chú ý của đông đảo nhân dân nhiều tầng lớp. Chúng tôi trích dẫn lời rao của Trương Vĩnh Ký trên Gia Định báo ra ngày 24/2/1870 để minh chứng: “Từ nay sấp tới ta trông cậy sẽ có nhiều chuyện cho người ta coi: vì nhờ có tờ chạy cho các thầy giao tập Quốc ngữ và các thầy thông ngôn các nơi trong cả sáu tỉnh mỗi tuần hay là nửa tháng thì chạy tờ về mà học lại những chuyện các nơi các tỉnh để làm vô Gia Định báo cho thiên hạ hay” [3].
Như vậy, Trương Vĩnh Ký đã tìm cách biến viên chức địa phương thành những “tuyên truyền viên” cho chữ Quốc ngữ, đồng thời đào luyện họ thành những cộng tác viên cho tờ báo của mình. Ý định này được ông thực hiện một cách rất cụ thể. Ông quy định cách thức viết một bài báo và công việc của người biên tập [3], đặt yêu cầu về tính thời sự và tính hiện thực của thể loại báo chí – một đòi hỏi khác hẳn với tâm lí nệ cổ của sáng tác trước đây [2]. Trách nhiệm cá nhân của người viết báo, hay “tác quyền” – một tiêu chí của khoa học thời hiện đại cũng được Trương Vĩnh Ký hướng dẫn thực hiện [3]. Để báo có nội dung phong phú và hữu ích đối với độc giả, Trương Vĩnh Ký đã gợi ý đề tài cho các cộng tác viên của mình như sau:
“Lời cùng các thầy thông ngôn, kí lục, giáo tập, vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Định báo ở tại Saigon, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ ở các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi, nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay là nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình như:
Ăn cướp, ăn trộm
Bệnh hoạn, tai nạn
Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt
Cháy chợ cháy nhà, mùa màng thể nào
Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân.” [3]
Tất cả những điều nêu trên chứng tỏ Trương Vĩnh Ký luôn như nhất với một trong ba chủ trương quan trọng của tờ Gia Định báo là Khuyến khích dân chúng học chữ Quốc ngữ.
Với tập san Thông loại khoá trình – tạp văn hay những bài học giáo dục cho học sinh các trường tiểu học, làng xã, địa phương, chúng ta có thể thấy được sự tiếp biến văn hoá linh hoạt của Trương Vĩnh Ký. Xin điểm qua vài nét đặc thù của Thông loại khoá trình như sau: Mục giải thích câu chữ, lời nói và chú giải văn bản được làm tỉ mỉ và chiếm một phần quan trọng của tập san là một hiện tượng hoàn toàn mới, phục vụ chủ trương giúp học trò “biết chữ nghĩa văn chương”. Các bài “Tên cây trái tuỳ xứ mà kêu” số 4, hay “Vật tuỳ xứ mà kêu” số 5 chứng tỏ tác giả đã có ý thức về tính đa dạng văn học và có cái nhìn toàn cảnh về văn hoá Việt Nam. Bằng hình thức văn xuôi Quốc ngữ mới mẻ, tự nhiên, mục “Nhơn vật nước Annam” đã kể những câu chuyện lí thú về các danh nhân, các nhân vật lịch sử, để lại dấu ấn dân tộc đậm nét. Phần văn nghệ dân gian với ca dao, câu đố, câu hát, trò chơi, nói cho và trả, nói ngược, vè, câu nói khó,… cũng được Trương Vĩnh Ký xem như một nguồn tư liệu quý để vừa giáo dục đạo đức vừa bảo tồn văn hoá truyền thống của dân tộc. Một điều đặc biệt đáng lưu tâm ngay ở số 1 và số 2, Trương Vĩnh Ký đã giới thiệu văn hoá phương Tây một cách trực tiếp qua các bài “Tập đọc tập nói tiếng Phangsa” và “Một hai câu tiếng Phangsa”, nhưng từ số 3 trở đi không thấy xuất hiện nữa mà thay vào đó là một số mẩu chuyện ngụ ngôn phương Tây. Phải chăng ngụ ngôn là thể loại gần gũi mang tính nhân loại nên dễ được tiếp nhận hơn là các bài dạy học tiếng Phangsa đơn thuần? Trong tâm thức của người dân Việt Nam, kẻ thù xâm lược là không thể dung thứ và những gì thuộc về chúng đều đáng ghét, đáng xa lánh, loại bỏ. Làn sóng phản đối dữ dội việc sử dụng chữ Quốc ngữ đương thời cũng chính là một minh chứng cho quan niệm Ta về ta tắm ao ta. Song mặt khác, người dân đất Việt vốn ham hiểu biết, chuộng sự công bằng, thích cười và rất tôn thờ các nhân vật có công với đất nước. Có thể vì lẽ đó mà Trương Vĩnh Ký luôn nhấn mạnh mục đích giáo dục của tập san: “Chánh ý là thuật đạo lành lẽ ngay của đấng tiên thánh tiên hiền khuyên răn, truyền thuần phong mĩ tục xưa nay…” [5] và với nội dung phong phú kể trên chứng tỏ ông đã rất hiểu “khẩu vị” của nhân dân ta, để qua con đường ấy, từng bước đưa văn hoá Việt Nam xích lại gần nền văn hoá thế giới thông qua cây cầu chữ Quốc ngữ.
Nhìn chung, tập san Thông loại khoá trình không phải là một tuyển tập thơ văn quy phạm cổ điển, cũng không phải là một tờ báo mang thông tin thường nhật mà là một tập san văn chương có dáng dấp hiện đại với đề mục rõ ràng, nội dung phong phú,… Nếu việc xuất bản Gia Định báo nằm trong chủ trương của thực dân Pháp thì Thông loại khoá trình nằm trong chủ trương truyền bá chữ Quốc ngữ và cao hơn là truyền bá văn hoá tích cực của riêng Trương Vĩnh Ký. Tập san Thông loại khoá trình là đoạn đường sáng trên con đường dịch chuyển, giao hoà văn hoá Đông-Tây, tân-cựu của ông.
3. Kết luận
Ở Việt Nam, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp năm 1858 đã tạo nên những chấn động trong mọi lĩnh vực. Từ một nước phong kiến, Việt Nam dần trở thành một xứ sở nửa thuộc địa. Về mặt văn hoá, chính sách cai trị của chính quyền thực dân chủ yếu nhằm mau chóng đồng hoá người Việt để dễ bề khai thác và mở rộng thuộc địa, song mặt khác cũng tạo điều kiện hình thành lớp trí thức mới, những người Tây học nặng lòng với giống nòi, quê hương. Trương Vĩnh Ký là người được bộ máy cai trị thực dân lựa chọn như một thông dịch viên theo nghĩa đen, song từ vị thế đó ông tiến xa hơn vị thế được lựa chọn để chủ động chọn con đường nương theo Pháp nhằm canh tân đất nước, tự cải thiện vị thế của mình thành một nhịp cầu văn hoá. Cơ sở của sự lựa chọn đó là trình độ học vấn sâu rộng, năng lực thiên phú về nhiều lĩnh vực, sự trải nghiệm, cảm quan và chủ kiến sau nhiều lần trực tiếp tiếp xúc với văn minh phương Tây. Tại thời điểm ấy, Trương Vĩnh Ký là người hiếm hoi có đủ điều kiện để chủ động kết hợp văn hoá Đông – Tây mang lại cho đời sống văn học đương thời nhiều hoạt động mới mẻ, hữu ích đặc biệt và trước hết chính là việc truyền bá chữ Quốc ngữ qua kênh thông tin báo chí và các hoạt động dịch thuật, biên khảo. Không phủ nhận thực tế, rằng: giữa chủ trương/chính sách cai trị của chính quyền Pháp và hoạt động văn hoá của Trương Vĩnh Ký – với tư cách, khi là người hợp tác, khi là nhân viên thừa hành – có nhiều chỗ song trùng, hô ứng nhưng theo chúng tôi, có nhiều bằng cứ để thấy ở Trương Vĩnh Ký một người chủ trương tự trị văn hoá hơn là một nhà hoạt động chính trị với vũ khí là văn hoá.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Hoàn, Dẫn theo Vũ Thanh (tổng thuật), Hội thảo khoa học văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, Văn học, số 5, 2002, tr. 33-40.
2. Trương Vĩnh Ký, Gia Định báo, số 3, ra ngày 28/1/1870.
3. Trương Vĩnh Ký, Gia Định báo, số ra ngày 24/2/1870.
4. Trương Vĩnh Ký, Lời đầu sách Vần Quốc ngữ, 1876.
5. Trương Vĩnh Ký, Cho ai nấy đặng hay, Thông loại khoá trình, số 11, 1889.
6. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 3, Anh Phương ấn quán, 1965, tr. 66.
7. Nguyễn Văn Trung, Chữ, văn Quốc ngữ thời kì đầu Pháp thuộc, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn, 1974, tr. 22.