Bàn về tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở vùng Huế (Phần 1)

(“Cửu Thiên Huyền Nữ” belief in Hue area)

Tác giả bài viết: Tiến sĩ ONISHI KAZUHIKO
(Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, ViệtNam)
(Visiting Researcher, Research Institute of Religion, Vietnam)

Lời nói đầu

     Mục đích của báo cáo này là khảo sát tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ (九天玄女) ở Huế, qua đó nhìn lại tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung, tín ngưỡng dân gian Huế nói riêng, đã tiếp thu Đạo giáo Trung Quốc như thế nào.

     Trong khi bàn về ảnh hưởng Đạo giáo đối với hệ thống nữ thần và tín ngưỡng dân gian Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông cho rằng “Một trong những đặc trưng tiêu biểu của loại hình tín ngưỡng dân gian là tiếp biến hình tượng-cụ thể hóa những vị thánh thần có dáng dấp, chức năng, tâm tính-tuy chỉ là suy tưởng-phù hợp với tầng lớp bình dân nghèo khó” [Nguyễn Hữu Thông, 2001, tr. 51-52].

     Vì vậy, trong bản báo cáo này, chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đặc trưng tiếp biến (trường hợp tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ) cùng những lý do của quá trình tiếp biến. Để giải quyết vần đế này, chúng tôi khảo sát lại hình dáng, chức năng và bối cảnh thông qua các cứ liệu thư tịch ghi chép về vị nữ thần này.

1. Tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ

     Trước hết, chúng tôi đưa ra một số tài liệu cơ bản miêu tả tín ngưỡng nữ thần này ở Trung Quốc. Tiếp theo, chúng tôi tiến hành so sánh hình thái tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở miền Bắc Việt Nam, vùng Huế và miền Nam Việt Nam với các ghi chép trong thư tịch của Trung Quốc.

     1.1. Tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở Trung Quốc

     Một trong những văn bản tài liệu Đạo giáo cơ bản về Cửu Thiên Huyền Nữ là truyện Cửu Thiên Huyền Nữ được ghi trong Dung Thành tập tiên truyện (墉城集仙伝)1 (DTTTT) do đạo sĩ Đỗ Quang Đình (杜光庭) (850?-933) biên soạn. Truyện ghi lại tiểu sử về vị nữ thần này, trong truyện có đoạn chép:

     Dịch nghĩa: Cửu Thiên Huyền Nữ là thầy của Huỳnh Đế, và là học trò Thánh Mẫu Nguyên Quân (tức Tây Vương Mẫu). (—) Xi Vưu tạo ra tai họa tuy ý, có 81 bọn anh em, thân thú nhân ngữ, (—) tạo hình Ngũ hổ làm hại lê dân, (—) không theo lệnh Đế, Đế muốn đánh nó, Huyền Nữ tức truyền bùa Lục Giáp Lục Nhâm Bình Tin cho Đế (—).

九天玄女者黄帝之師, 聖母元君之弟子. (—)蚩尤肆孽, 弟兄八 十一人,獣身人語, (—)作五虎之形以害黎庶. (—)不用帝命,帝 欲征之. (—)玄女即授帝六甲六壬兵信之符, (—)”.

     Như nêu trên, Cửu Thiên Huyền Nữ truyền cho bùa Lục Giáp Lục Nhâm Bình Tin để giúp đỡ Huỳnh Đế đánh Xi Vưu. Vì vậy, người ta cho rằng nữ thần này là một vị thần quân sự linh thiêng. Chúng tôi đặc biệt lưu ý đến tên Lục Giáp Lục Nhâm (六甲六壬) được ghi trên bùa. “Lục Giáp Lục nhâm” là thần cách hóa của sự phối hợp can chi (干支), sau này chúng trở thành nhóm những vị tướng thần có chức năng trừ tà ma [Mã 2002/1996, tr. 335-340].

     Kinh điển Đạo giáo Hoàng Đế độn giáp duyên thân kinh (黄庭遁甲縁身経)2 được dẫn trong bộ Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) chép: “Nếu muốn trừ ác quỷ thì vẽ bùa Lục Giáp, Lục Ất mang đi, đồng thời kêu gọi thần Giáp Dần, ma quỷ đều bỏ chạy” (若辟除悪鬼者、書六甲六乙之符持行、并呼甲寅神、鬼皆散逃). Trong những vị thần đó, Lục Giáp thường đứng ở vị trí hàng đầu. Thí dụ, sách Bão phác tử (抱朴子 (quyển 17, Đăng Thiệp: 登渉) do Cát Hồng (葛洪) (283-343ca.) biên soạn, chép một lời chú nổi tiếng là “Lục Giáp Bí Chúc” (六甲秘祝). Đó chính là bùa Tứ Tung Ngũ Hoành (四縦五横符) được người Việt Nam hay dùng khi hành lễ trừ tà ma, [Giran 1912, tr.162; Huỳnh Ngọc Trảng, những người khác 1993a, tr. 161- 164; Hồ Tường 2005, tr. 170]. Trong DTTTT, tên (thần) can chi có vai trò thực hiện uy lực của Cửu Thiên Huyền Nữ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng giữa hai vị thần này có quan hệ khá mật thiết.

     Thế nhưng, theo nghiên cứu trước đây của ông Miyakawa Hisayuki, tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ bắt đầu phổ biến từ thời nhà Đường đến thời Ngũ Đại [Miyakawa 1983, tr. 376, tr. 378-379, và tr. 380 (chú thích 4), tr. 393]. Hơn nữa, truyện Thủy Hử (水滸伝) được hình thành thời nhà Minh cũng đã góp phần làm cho tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ được phổ biến sâu rộng hơn. Vì trong truyện Thủy Hử, có đoạn (lần thứ 42) ghi Cửu Thiên Huyền Nữ báo cho Tống Giang – nhân vật nam chính của tiểu thuyết này rằng người và 108 hảo hán là hóa thân của 108 vị thần tinh tú tức 36 vị Thiên Canh (三十六天罡) và 72 vị Địa sát (七十二地煞). Ở đây đức Cửu Thiên Huyền Nữ được khắc họa như một vị thần có vị trí trung gian giữa Tống Giang và những vị thần tinh tú đó [Mã 2002/1996, tr. 120]. Hơn nữa, trong truyện còn có đoạn (lần thứ 80) chép: vị nữ thần này huấn luyện chiến thuật cho Tống Giang [Sakuraba 1994: 100]. Như vậy, cùng với những vị thần tinh tú, danh xưng của đức Cửu Thiên Huyền Nữ được phổ biến không những ở trong truyện thần tiên Dung Thành tập tiên truyện mà còn ở cả tiểu thuyết cổ điển như truyện Thủy Hử của Trung Quốc [Mã op.cit.: 120-121].

     1.2. Tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở miền Bắc Việt Nam

     Chúng tôi mới tìm thấy tài liệu xung quanh tín ngưỡng về Cửu Thiên Huyền Nữ ở Việt Nam nói chung và miền Bắc Việt Nam nói riêng trong Đại Việt Sử Lược (大越史略 quyển 3, phần năm Đại Định 大定thứ 21 (1160), thời nhà Lý). Sách chép rằng: “Mùa xuân, tháng giêng, dựng đền Nhi Nữ và Xi Vưu ở phường Bố Cái” (春, 正月,起二女蚩尤祠于布蓋坊)3. Ở đây, người ta chỉ tìm thấy tên Xi Vưu mà thôi. Liên quan đến các ghi chép nêu trên, sách Tây Hồ chí4 (西湖志), phần chép về đền Huyền Nữ (玄女祠) có đoạn sau đây:

     Dịch nghĩa: Đền nằm trong châu Loa, Phương Đàm, giai Bố Cái, nay là ấp Trích Sài. Đền được xây dựng vào mùa xuân năm Canh Thìn niên hiệu Đại Định thứ 21 thời Lý Thái Tông. Lúc đó, Xi Vưu quấy đảo, nên đền đã được dựng lên ở đây để trấn giữ. Nay vẫn còn, tục gọi là Công chúa Loa.

     祠在布蓋階方潭中螺州. 今摘柴邑中是. 李英宗大定廿一年庚申春所 所建. 間者, 在蚩尤妖気作. 故 (建)祠于此以鎮之. 今存.俗称螺公 主是也.

     Sách ghi địa chỉ của ngôi đền này thuộc ấp Trích Sài. Ấp Trích Sài thuộc địa phận phường Bưởi, quận Ba Đình bây giờ (phía tây bắc nội thành Hà Nội) [Bùi Thiết 1993, tr. 463]. Sách còn ghi rằng ngôi đền này được dựng lên để trấn yêu khí của Xi Vưu. Sau đoạn này, sách còn chép một bài phụ lục: “dựa vào văn bản sử liệu, đền Huyền Nữ Xi Vưu được xây, có lẽ có việc thiếu nhầm”: 按史文建玄女蚩尤祠. 蓋闕誤”. Tác giả bài phụ lục này không ghi cụ thể văn bản sử liệu nào và “thiếu nhầm” cái gì.

     Chúng tôi cho rằng có lẽ “văn bản sử liệu” mà sách đề cập chính là đoạn chép trong sách Đại Việt sử lược hay là Đại Việt sử ký toàn thư kể trên. Còn cái gọi là “thiếu nhầm”, việc ghi thêm tên “Xi Vưu” cho ngôi đền này trong “văn bản sử liệu” thì không hợp mục đích xây dựng ngôi đền. Hoặc, lại có khả năng từ “Huyền nữ” (玄女) là do viết nhầm của Nhị nữ (二女) trong tài liệu kể trên.

     Dù sao đi nữa, ít nhất chúng tôi có thể rõ được hai điều. Thứ nhất là thời điểm năm 1160, Xi Vưu đã được thờ phụng. Thứ hai là có khả năng trong tín ngưỡng thời Lý đã có sự phối hợp Xi Vưu với Cửu Thiên Huyền Nữ.

     Có thể xác định được rằng: cho đến thế kỷ XVIII, Xi Vưu trở thành đối tượng tín ngưỡng theo cách thức là phối hợp với Cửu Thiên Huyền Nữ. Những lời “thần chú hộ thân” trong sách Tam giáo chính độ thực lục5 (三教正度実録) được in ra vào năm Bảo Thái (保泰) thứ 4 (1723 ) chép:

      Dịch nghĩa: Chú rằng, Sắc tứ tung ngũ hoành, ta mới xuất hành, Vũ vương6 bảo hộ con đường, Xi Vưu hay lánh binh. Thần ta phù hộ từ bên trong, khi về quê hương mình thì bọn cướp không dấy lên. Cấp cấp Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh, Na mô Quan Thế Âm Bồ Tát, ba tiếng.

     呪曰, 勅四縦五横, 吾今出行, 武王衛道, 蚩尤避兵. 吾神中護, 殃煞潜驚, 還帰本郷, 盗賊不得起, 妖魔怪不得行, 急急如九天玄女律令. 南無観世音 菩薩, 三声[dòng thứ 5, trang 4b-dòng thứ 2, trang 5a].

     Trước khi thực hiện nghi lễ đám ma, các vị thầy cúng hoặc nhà sư dùng “thần chú hộ thân” để tự bảo vệ bản thân mình trước ma quỷ. Có lẽ, những nghi lễ này thường được sử dụng cho nên trong các bản sách được in lại nhiều lần, có thể đơn cử trường hợp bản in năm Gia Long (嘉隆) thứ 16 (1817), mang tên là Tân tuyên tam giáo chính độ thực lục7(新鐫三教正度実録) cũng có phần “thần chú hộ thân” [dòng thứ 3-6 , trang 2a] giống như bản in năm Bảo Thái.

     Phần giống nhau trong Tam giáo chính độ tập yếu8 (三教正度輯要)- bản tóm lược của Tam giáo chính độ thực lục (三教正度実録) được in ra vào năm Thành Thái 成泰 thứ 11 (1899) cũng chép như sau:

     Dịch nghĩa: Chú nói, Sắc tứ tung ngũ hoành, ta mới xuất hành, Vũ vương bảo hộ con đường, Xi Vưu lánh binh. Thần lành bảo hộ, Ương sát hay tiền ẩn và kinh sợ. Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh.

     呪曰, 勅四縦五横, 吾今出行, 武王衛道, 蚩尤避兵. 吉神守護, 殃煞潜驚, 急急如九天玄女律令 [dòng thứ 4-6, trang 3a].

     Như đã nêu trên, dù Tam giáo chính độ thực lục có mang màu sắc Phật giáo như gọi “Na mô Quan Thế Âm Bồ Tát” nhưng cốt lõi của “thần chú” này là sự phối hợp giữa Cửu Thiên Huyền Nữ, Xi Vưu và lời chú tứ tung ngũ hoành vốn mang tên là “Lục Giáp Bí Chúc”. Hơn nữa, qua việc Tam giáo chính độ tập yếu bỏ sót câu “Na mô Quan Thế Âm Bồ Tát”, chúng tôi cho rằng hạt nhân quyền uy của thần chú là Cửu Thiên Huyền Nữ tăng lên.

     Các ông Gustavu Dumoutier, Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp đã chỉ ra rằng cho tới sau thế kỷ XX, những văn bản hệ thống của Tam giáo chính độ thực lục vẫn được thầy cúng hoặc nhà sư sử dụng trong các sách nghi lễ [Dumoutier 1904: 1-2; Nguyễn Văn Khoan 1933: 29; Trần Văn Giáp 1939: 246].

     Như thế thì, trong ý thức cấp bậc những người tín ngưỡng dân gian9, Cửu Thiên Huyền Nữ là một vị thần có uy lực mạnh mẽ để thực hiện việc trừ tà ma.

     Ông Gustavu Dumoutier lại ghi rằng: “Cửu Thiên Huyền Nữ hoặc nữ thần đen tối trên các tầng trời. Đó là sự tồn tại cao quý nhất ở chín tầng trời của tín đồ Đạo giáo, một vị phù thủy nắm giữ toàn bộ kỹ thuật quân sự, sách vở quân sự. Cửu Thiên Huyền Nữ định ra: vào ngày 30 Tết, vẽ hình cung tên trên sân trong gia đình để trừ tà ma” [Dumoutier 1907: 56]. Dù ghi lại nghi lễ trừ tà ma được thực hiện trong ngày Tết, song nội dung chủ yếu của những lời ông Dumoutier là Cửu Thiên Huyền Nữ vẫn được coi như là một vị thần cai trị việc quân. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng chức năng việc trừ tà ma của Cửu Thiên Huyền Nữ được phát sinh ra từ uy lực mạnh mẽ vốn có của nữ thần quân sự.

     1.3. Tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở vùng Huế và miền Nam Việt Nam

     Về hệ thống tín ngưỡng dân gian ở vùng Huế, ông Trần Đại Vinh khẳng định là đức Cửu Thiên Huyền Nữ có chức năng tổng hợp và là nữ thần nằm ở vị trí hàng đầu trong những vị nữ thần khác như Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi (天依阿那演玉妃), Thánh Mẫu Liễu Hạnh (柳杏聖母) [Trần Đại Vinh 1995, tr. 112]. Ông cũng đã nêu lên một cách chi tiết một số chức năng của nữ thần này là tổ nghề mộc và tổ nghề nề [op.cit.: 151-152]. Theo ông Huỳnh Đình Kết giới thiệu, nhiều làng vùng Huế lập miếu thờ thần này; ông cũng đánh giá nữ thần này là nữ thần được tôn vinh là tổ sư bách nghệ, là tổ sư nghề mộc” [Huỳnh Đình Kết 1998: 38-39]. Ông Kết còn đề cập đến chức năng khác của nữ thần này là có “bổn mạng” (vị thần phù hộ sinh mệnh) của các bà vợ ở trong gia đình, nên trong mỗi gia đình Huế đều lập bàn thờ vị nữ thần này [ibid]. Hơn nữa ông Kết lại chỉ ra rằng nữ thần này được thờ ở Thự Thanh Bình là cơ quan phụ trách về ca múa thời Nguyễn, đồng thời là thủy tổ của tổ chức hội đoàn nghề nghiệp của các nghệ nhân múa hát truyền thống Huế [op. cit.: 178-179].

     Ở miền Nam Việt Nam cũng có tín ngưỡng thờ Cửu Thiên Huyền Nữ giống như vùng Huế. Ví dụ, khảo sát của nhóm Huỳnh Ngọc Trảng đã khẳng định rằng “Bà cũng cứu độ cho giới nữ, đồng thời là vị tổ của các nghề thủ công (thợ mộc, thợ may —), (—). Cửu Thiên Huyền Nữ được thờ ở các miếu ngoài đình hoặc ngay trong chánh điện của đình (—)” [Huỳnh Ngọc Trảng 1993., tr. 76-77].

     Có thể thấy, trong khái niệm tín ngưỡng đức Cửu Thiên Huyền Nữ ở cả vùng Huế và miền Nam Việt Nam có điểm tương đồng, đó là: vị thần này có nhiều chức năng khác nhau như là sư tổ nghề mộc, nghề nề, nghề múa hát và “bổn mạng“ của phụ nữ nữa.

Tiểu kết

     So sánh tình hình tiếp thu và triển khai tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở miền Bắc Việt Nam với vùng Huế và miền Nam Việt Nam, thì thấy tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở miền Bắc vẫn đảm trách về quân sự và việc trừ tà ma. Đồng thời, trong cách thức tiếp thu tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ có một đặc trưng là sự phối hợp giữa nữ thần này và thần linh khác. Ví dụ, sự phối hợp giữa Cửu Thiên Huyền Nữ và Xi Vưu đã phản ánh trong những lời thần chú trong hệ thống sách Tam giáo chính độ thực lục mà các thầy cúng hoặc nhà sư Việt Nam thường dùng.

     Ở vùng Huế và miền Nam Việt Nam thì hình như chức năng của vị nữ thần này được đa dạng hóa như trở thành vị tổ sư bách nghệ, trong đó nổi bật lên là vai trò tổ sư nghề mộc. Sự khác biệt này, là do sự tiếp thu trong một thời gian lâu dài và được trải rộng trên khắp lãnh thổ Việt Nam mà có. Song, theo chúng tôi thì trong tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ tại vùng Huế khá giống với trường hợp ở miền Bắc, đó là vẫn có tín ngưỡng thần trừ tà ma phát sinh từ uy quyền và chức năng của vị thần quân sự.

     Để minh chứng cho giả thuyết này, ở chương sau, chúng tôi xem xét lại một số tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ tại vùng Huế thông qua các văn bản sử liệu liên quan đến vấn đề này

__________
1 Bộ Dung Thành tập tiên truyện (墉城集仙伝) được trích dẫn từ Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) (quyển 114).

2 Kinh Hoàng Đế Độn Giáp Duyên Thân (黄庭遁甲縁身経) được trích dẫn trong Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) quyển 14, bộ Tam Động Kính Giáo (三洞経教部).

3 Theo phần năm Đại Định thứ 21 của Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書) (quyển 4, Bản kỷ), cũng chép giống như Đai Việt sử lược: “Mùa xuân, tháng giêng, dựng đền Nhị Nữ Xi Vưu ở phường Bố Cái” (春, 正月, 起二女蚩尤于布蓋坊).

4 Tây Hồ chí (西湖志): hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A 3192/1. Sách không ghi rõ về tác giả và niên đại biên soạn. Nhưng qua việc khảo sát địa danh thì có thể đoán định niên đại soạn sách này vào khoảng những năm dưới thời Nguyễn. Bởi vì bài chép huyện Quảng Đức (広徳県) trong phần đền Vũ Chương Hầu (武章侯祠) ghi kèm chú thích: “nay là Vĩnh Thuận” (今永順). “Vĩnh Thuận” là tên một huyện nằm ở phía tây Hà Nội. Huyện được đặt vào năm 1805 và bãi bỏ vào năm 1915 [Bùi Thiết 1993: 498]. Vì thế, chúng tôi suy đoán rằng sách này được biên soạn trong thời gian vẫn còn tên
huyện Vĩnh Thuận.

5 Tam giáo chính độ thực lục (三教正度実録) (bản năm Bảo Thái thứ 4) hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.3025.

6 Vũ Vương (武王): Chúng tôi cho rằng phải chăng Vũ Vương chính là Chu Vũ Vương (周武王). Vì theo bài báo cáo cha Thecla được chép vào năm 1750, trong phần tín ngưỡng những vị thần quân sự lúc bấy giờ, tên Chu Vũ Vương được nêu lên hàng đầu cùng với tên Thái Công Vọng: 太公望[St.Thecla, Dror 2002/1750: 126].

7 Tân tuyên tam giáo chính độ thực lục (新鐫三教正度実録) (bản năm Gia Long: 嘉隆 thứ 16) hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AC.544.

8 Tam giáo chính độ tập yếu (三教正度輯要) (bản năm Thành Thái thứ 11) hiện lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris (Bibliothèque nationale, Paris), ký hiệu A.36.

9 Ông Phan Kế Bính chép: “Đồng cốt là những người thờ về chư vị như thờ bà Liễu Hạnh công chúa, Thượng ngân công chúa, Cửu thiên huyền nữ...” [Phan Kế Bính 1992/1915, tr.302; Hésnard 1980, tr.131, 303 (note 824)]. Theo ông, cho đến nửa đầu thế kỷ XX, ông bà đồng cốt thờ phụng cả đức Cửu Thiên Huyền Nữ nữa.

Nguồn: Văn hóa – Lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận và quan hệ với bên ngoài

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

     Còn tiếp: Kính mời Quý độc giả xem tiếp phần 2:

   Bàn về tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở vùng Huế 

Phần 2: Những văn bản sử liệu về tín ngưỡng Cửu Thiên Huyền Nữ ở vùng Huế