Các hình thức tương tác cơ bản giữa Văn học Dân gian và Văn học Viết
TRẦN ĐỨC NGÔN
TÓM TẮT
Các hình thức tương tác cơ bản giữa văn học dân gian và văn học viết- hai loại khác nhau của cùng nghệ thuật ngôn từ là thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền văn học dân tộc. Các hình thức đó là: nhại, mô phỏng, vay mượn chất liệu, vay mượn phong cách. Bài viết tập trung làm rõ các khái niệm này.
x
x x
Cần xem văn học dân gian và văn học viết là hai loại khác nhau của nghệ thuật ngôn từ nhưng cùng có chung một đối tượng phản ánh là hiện thực xã hội và lịch sử. Vì vậy, mối quan hệ tương tác là một tất yếu khách quan trong đời sống và quá trình phát triển của hai loại hình nghệ thuật này.
Trong nền văn học Việt Nam, văn học dân gian xuất hiện sớm, trong một thời gian dài của lịch sử (trước thế kỷ thứ X) chưa có văn học viết, vì thế đã không diễn ra quá trình tương tác này. Thời kỳ Lý, Trần mở ra những trang mới cho lịch sử văn học thành văn. Mặc dù, chịu ảnh hưởng rất nhiều của Hán học, văn học thời Lý, Trần cũng không nằm ngoài quy luật của sự tương tác với văn học dân gian truyền thống của dân tộc.
Trong các thời kỳ sau, mối quan hệ tương tác trở nên thường xuyên hơn dưới ảnh hưởng của tinh thần dân tộc và dân chủ trong xã hội, đặc biệt từ thời kỳ cách mạng vô sản (nhân tố dân tộc và dân chủ được ủng hộ từ các nhà chính trị và sau đó là các nhà lãnh đạo chính quyền, đã được phát huy mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật). Dưới ánh sáng của các văn bản về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng cầm quyền, nền văn học dân tộc phát triển hài hòa giữa dân gian và bác học. Ở Việt Nam, không có sự “quay lưng” của văn học bác học đối với văn học dân gian. Khác với ở châu Âu, tầng lớp quý tộc coi văn học dân gian và cả văn hóa dân gian là biểu hiện của một ý thức thấp kém, một thị hiếu nghệ thuật tầm thường, điều đó ảnh hưởng không ít đến mối quan hệ tương tác giữa hai dòng văn học; tuy nhiên, ngay cả tình trạng trên cũng không phủ định được sự tương tác mà chỉ làm giảm quá trình và mức độ tương tác mà thôi. Điều này chứng tỏ rằng, sự tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết là quy luật chung của mọi nền văn học.
Sự tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết trước hết được nhìn nhận từ nhóm xã hội, nghĩa là từ phía người sáng tác. Nói văn học dân gian là sản phẩm của những người bình dân, văn học viết là sản phẩm của trí thức và những người thuộc tầng lớp trên của xã hội chỉ là một cách nói đại thể và đúng với các thời đại trước. Nhìn tổng quát thì sự tương tác giữa hai loại nghệ thuật ngôn từ này phản ánh sự tương tác giữa hai nhóm xã hội (trước đây thường gọi là tầng lớp hoặc giai cấp) trong quá trình sáng tác. Đó là mối quan hệ giao lưu tự nhiên. Các thành viên của nhóm này chen vào nhóm kia và ngược lại. Ca dao có câu:
Kinh đô cũng có kẻ rồ
Thôn quê cũng có sinh đồ trạng nguyên.
Những người bình dân có thể leo lên những nấc thang cao trong xã hội bằng con đường học hành, thi cử. Ngược lại cũng có nhiều nho sĩ thất thế, về sống trong lòng dân chúng nơi thôn dã. Những “phần tử lạc ngũ” (chữ dùng của V.I. Lênin) thường tạo một sự hòa đồng mới, đem vốn văn học của mình gieo vào mảnh đất chung của những người cùng sống, cùng hợp tác và làm việc. Do đó giữa văn học dân gian và văn học viết, ranh giới hoàn toàn không rõ ràng. Không ít nhà thơ, nhà văn đã “reo rắc” văn chương bác học vào môi trường dân gian và cũng không ít các sinh đồ trạng nguyên từ nông thôn “cấy trồng” văn học dân gian vào môi trường bác học.
Nhìn vào xã hội hiện đại, vấn đề ranh giới giữa văn học dân gian và văn học viết còn mờ nhạt hơn nữa. Một cá nhân trong xã hội đương đại có thể vừa sáng tác văn học viết, lại vừa sáng tác văn học dân gian. Tại những thời điểm khác nhau, anh ta có thể làm hai nhiệm vụ khác nhau về bản chất: một nhiệm vụ sáng tác nghiêm túc (viết trường ca, truyện ngắn, làm thơ…) để đăng báo, in sách; tại thời điểm khác, anh ta có thể bông đùa trước bạn bè, ngẫu hứng làm thơ hoặc nghĩ ra một câu chuyện hài hước. Hai loại nghệ thuật ngôn từ đều của cùng một tác giả nhưng mang những đặc trưng khác nhau về phương thức sáng tác, lưu truyền. Sự tương tác này diễn ra trong cùng một cá nhân sáng tạo. Có điều, khi sáng tác văn học viết, anh ta rất có ý thức về quyền tác giả của mình, còn khi sáng tác văn học dân gian, anh ta không quan tâm, thậm chí cố tình từ chối quyền đó. Điển hình nhất hiện nay là những câu thơ, bài thơ trào phúng, rõ ràng có xuất phát điểm (tác giả) hẳn hoi nhưng khi truyền bá, không ai quan tâm đến tên người sáng tác nữa. Người ta có ý thức quên chứ không phải vô tình. Ngay chính tác giả nhiều khi, để tránh phiền toái, cũng không nhận là cha đẻ của đứa con tinh thần đó nữa. Đó chính là cội nguồn của mối tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết.
Về biểu hiện của mối quan hệ này, có các hình thức cơ bản sau đây:
1. Hình thức nhại
Nhại là một lối sáng tác rất phổ biến trong văn học dân gian. Hoàn toàn không có chuyện văn học dân gian nhại văn học dân gian. Những người làm văn học dân gian không bao giờ nhại nhau. Các trường hợp nhại đều là văn học dân gian nhại văn học viết.
Bản thân từ “nhại” cũng mang ý nghĩa hài hước rồi. Văn học nhại là một loại văn học hài hước. Bắt đầu từ sự nghiêm trang trong văn học bác học, văn học dân gian bẻ cong thành một tác phẩm khác, mất đi ý nghĩa đích thực và hoàn toàn mang ý nghĩa trào lộng. Thơ Bút Tre dân gian là hiện tượng tiêu biểu cho văn học nhại. Những bài thơ của Trưởng ty Văn hóa Vĩnh Phú cách đây 40 năm vốn là những bài thơ nghiêm túc, chỉ có điều là hơi nôm na, không được chuyên nghiệp lắm. Những bài thơ nhại Bút Tre tự nhiên phát triển khá nhiều trong những năm 70 của thế kỷ trước. Đại loại có những bài thơ theo lối trần tục hóa như sau:
Con đò dịch đít sang ngang
Xa xa có một cái làng thò ra
Chắc chắn Bút Tre thật không bao giờ viết như vậy.
Hiện tượng nhại còn có đối với cả thơ Tố Hữu, thơ Minh Huệ và một số nhà thơ khác. Chúng tôi ngờ rằng, trong số các bài thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, có thể có những bài thơ nhại có xuất xứ từ trong dân gian.
Trong văn học dân gian cổ truyền, hiện tượng nhại diễn ra chủ yếu ở mảng thơ ca trào phúng và trên sân khấu chèo.
Hình thức nhại đích thực là của văn học dân gian. Chỉ có một chiều nhại: văn học dân gian nhại văn học viết; không có chiều ngược lại: văn học viết nhại văn học dân gian.
2. Hình thức mô phỏng
Nếu hình thức nhại là của văn học dân gian thì hình thức mô phỏng lại thường là của văn học viết. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, có nhiều trường hợp văn học viết nhại văn học dân gian. Phương Tây và Nga, thời trung đại từng có giai đoạn văn học nhại phát triển – giai đoạn hình thành nền văn học viết. Chúng tôi cho rằng, sử dụng từ “nhại” trong trường hợp này không đúng. Nhại phải gắn liền với sự châm biếm hoặc hài hước, trào lộng. Các nhà nghiên cứu từng cho rằng đây là những tác phẩm ngụy dân gian. Quả thật, những tác phẩm này, nhiều người rất dễ lầm tưởng là văn học dân gian. Ngay cả một vài nhà nghiên cứu cũng đã từng lầm tưởng như vậy. Bài thơ “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…” mãi sau này mới bị phát hiện ra là của Á Nam Trần Tuấn Khải viết vào đầu thế kỷ XX; câu thơ của Bảo Định Giang “Tháp Mười đẹp nhất bông sen, nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”, nhiều người trước đây đã lầm tưởng là ca dao Nam Bộ; bài thơ “Trên trời mây trắng như bông, ở dưới cánh đồng bông trắng như mây” được gọi là ca dao mới nhưng kỳ thực đó là bài thơ mô phỏng ca dao.
Hiện tượng mô phỏng văn học dân gian tiêu biểu nhất xảy ra trên thế giới là các trường hợp nhà văn viết truyện cổ tích văn học và truyện ngụ ngôn (Gơrim, L.Tônxtôi, Laphôngten). Trong Kinh Thánh Tân ước có rất nhiều truyện ngụ ngôn nhưng đó là văn học bác học mô phỏng truyện ngụ ngôn vốn là một thể loại văn học dân gian.
Việc đi tìm sự khác nhau giữa tác phẩm dân gian đích thực và tác phẩm mô phỏng dân gian là rất khó khăn, tuy rằng một vài trường hợp có thể phân biệt được (ví dụ: truyện cổ tích văn học thường hay có những đoạn tả cảnh hoặc diễn tả tâm lý nhân vật, còn truyện cổ tích dân gian thì chỉ kể về hành động của nhân vật mà thôi). Thành ra đây là nơi giao thoa, lẫn lộn giữa văn học dân gian và văn học viết.
Một ví dụ cụ thể, truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng của Puskin, được sáng tác từ nguồn truyện dân gian nhưng yếu tố mô tả khá nhiều. Những chi tiết biển xanh nổi sóng, biển xanh giận dữ khi ông lão đánh cá ra gặp cá vàng để đưa ra những yêu cầu quá mức của bà vợ… đều không phù hợp với truyền thống thể hiện trong truyện cổ tích dân gian. Đó là sáng tạo của Puskin, làm nên những giá trị nghệ thuật mới mà truyện cổ tích dân gian không có được. Tuy nhiên, nếu không phải nhà chuyên môn thì khó lòng nhận thức được sự khác biệt của truyện cổ tích văn học so với truyện cổ tích dân gian.
3. Hình thức thâm nhập lẫn nhau về chất liệu văn học
Đây là hiện tượng phổ biến, diễn ra theo cả hai chiều, từ dân gian vào bác học và ngược lại. Rất nhiều ngôn từ, điển tích của văn chương bác học đã đi vào dân gian:
Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thuý Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi
***
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà
Mối sầu tinh đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Các từ Thuý Kiều, Kim Trọng, tinh đẩu, tào khê lấy từ nguồn văn học bác học.
Ngược lại, rất nhiều ngôn từ nghệ thuật của văn học dân gian đã có mặt trong những tác phẩm văn học viết. Sự tiếp nhận văn học dân gian của văn học viết được xem như là quy luật của lịch sử văn học. Đối với đa số các dân tộc trên thế giới, văn học dân gian bao giờ cũng có trước, văn học viết hình thành sau và được xây dựng trên nền tảng văn học dân gian. Vì vậy, tiếp thu chất liệu của văn học dân gian là hiện tượng phổ biến trong văn học viết. Những tác phẩm văn học viết nổi tiếng, giàu tính dân tộc nhất, thường tiếp thu có sáng tạo nhiều chất liệu từ văn học dân gian. Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du là một ví dụ tiêu biểu:
Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
***
Nàng rằng: “Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm, trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng !
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh”.
Các từ và cụm từ trúc mai, trong ấm ngoài êm, bưng mắt bắt chim, đèo bòng được lấy từ kho tàng thơ ca dân gian người Việt.
Sự vay mượn không chỉ diễn ra ở cấp độ từ ngữ mà còn ở các cấp độ cao hơn, tổng hợp hơn như hình tượng, cấu trúc, đề tài và trừu tượng hơn là tư tưởng, quan điểm nghệ thuật.
Sự thâm nhập lẫn nhau về chất liệu văn học, dù diễn ra phổ biến, vẫn không làm xoá nhoà ranh giới giữa văn học dân gian và văn học viết. Mỗi tác gia văn học viết đều có ý thức rõ ràng rằng mình sử dụng chất liệu văn học dân gian để làm gì và sử dụng như thế nào. Sự có mặt của chất liệu văn học dân gian trong các tác phẩm văn học viết làm cho các tác phẩm này gần gũi với dân gian nhưng không làm biến chất bác học. Cũng như vậy, không vì mang trong mình chất liệu văn học viết mà văn học dân gian bị biến đổi bản chất của mình. Chúng ta có thể lấy Tam quốc chí và Tây du ký, hai tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của Trung Quốc làm ví dụ. Những mẩu chuyện trong hai tác phẩm nổi tiếng này vốn từ lâu được kể trong dân gian bởi các thuyết thoại nhân (những người chuyên đi kể chuyện ở ngoài chợ hoặc trên đường phố để kiếm ăn). Tập hợp những mẩu chuyện rời rạc để thành tiểu thuyết chương hồi là công lao to lớn của La Quán Trung và Ngô Thừa Ân. Toàn bộ chất liệu dân gian được hai nhà văn thời Minh Thanh nhào nặn, tạo nên những tác phẩm văn học viết đích thực, không phải là dân gian nữa.
Quá trình vay mượn chất liệu văn học để sử dụng thực chất là quá trình sáng tạo lại. Điều này xảy ra cả trong văn học dân gian và văn học viết, nhất là đối với văn học viết. Nhiều nhà văn, nhà thơ đương đại viết lại truyện cổ dân gian nhưng không phải dưới hình thức mô phỏng mà là sáng tạo mới. Truyện cổ dân gian chỉ là cái cớ (vay mượn) để tác giả nói lên những suy nghĩ hoàn toàn khác của mình về xã hội và nhân sinh. Những điều tác giả nói có khi rất xa lạ với quan niệm truyền thống trong dân gian nhưng lại phù hợp với quan niệm của thời đại mới. Ví dụ, nhân vật Thuỷ Tinh trong truyện dân gian Sơn Tinh, Thuỷ Tinh bị người đời coi là nhân vật phản diện, hàng năm gây hại cho dân. Một vài nhà văn đương đại lại đứng ra bênh vực cho Thuỷ Tinh, cho rằng đây là một chàng trai si tình, rằng tình yêu của chàng là chân thành và bất diệt.
4. Hình thức thâm nhập lẫn nhau về phong cách
Phong cách là những yếu tố (thuộc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật) được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm văn học khác nhau, trở thành những yếu tố cố định, bền vững và đồng thời là những tín hiệu thẩm mỹ có giá trị, được mọi người thừa nhận, tạo nên sự khác biệt giữa dòng văn học này với dòng văn học khác, giữa tác gia này với tác gia khác. Phong cách thể hiện sự phong phú, đa dạng trong sánh tác văn học nghệ thuật.
Văn học dân gian có phong cách thể loại, văn học viết có phong cách tác gia. Trong quá trình phát triển văn học, hai phong cách này có sự thâm nhập vào nhau.
Đây là hình thức tương tác cao nhất giữa văn học dân gian và văn học viết. Hình thức này tạo ra một chất lượng mới trong các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ.
Phong cách là chất lượng. Các nhà văn, nhà thơ trẻ chưa thể tạo cho mình một phong cách. Chỉ những tác gia văn học có tài năng mới định hình được về phong cách. Vì vậy, phong cách cũng là bản lĩnh của tác giả thể hiện qua tác phẩm. Văn học dân gian cũng có bản lĩnh của mình, nếu không thì phong cách dân gian không thể trường tồn trong suốt chiều dài của hàng ngàn năm lịch sử.
Sự thâm nhập lẫn nhau về phong cách cũng diễn ra theo hai chiều như sự thâm nhập lẫn nhau về chất liệu văn học. Tuy nhiên, ở đây, chiều dân gian vào bác học mạnh hơn là chiều từ bác học vào dân gian. Thật khó tìm những tác phẩm văn học dân gian mang phong cách bác học. Những trường hợp như bài ca dao sau đây không nhiều trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam:
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.
Thuở sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu đã từng ca ngợi bài ca dao: lời thơ không kém gì thơ Kiều. Phong cách bác học của bài ca dao thể hiện khá rõ, có thể lẫn với văn học viết nếu người đọc không biết rõ xuất xứ của nó.
Hiện tượng văn học viết mang phong cách dân gian thì có nhiều. Tiêu biểu nhất trong nền thơ ca Việt nam, có lẽ là Nguyễn Bính. Thơ ông tràn đầy phong cách dân gian:
Giếng thơi mưa ngập nước tràn,
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.
***
Nhà em cách bốn quả đồi,
Cách ba ngọn núi, cách đôi cánh rừng,
Nhà em xa cách quá chừng,
Em van anh đấy, anh đừng yêu em.
Có thể nói, sự thâm nhập của phong cách dân gian vào thơ Nguyễn Bính không diễn ra trên bình diện vay mượn chất liệu thơ ca mà là sự đồng điệu với tâm hồn dân tộc của nhà thơ. Chỉ có thực sự uống nước từ nguồn mạch dân gian và tắm mình trong nguồn mạch ấy, thơ Nguyễn Bính mới có được phong cách như vậy.
Những tác gia văn học khác cũng có nhiều câu mang phong cách dân gian, mặc dù không phải toàn bộ tác phẩm.
Trên đây là bốn hình thức tương tác cơ bản giữa văn học dân gian và văn học viết. Sự tương tác này, một mặt, làm cho cả hai loại của nghệ thuật ngôn từ trở nên phong phú, làm nên những đỉnh cao về chất lượng; mặt khác, cũng làm cho ranh giới của hai loại này trở nên mờ nhạt, nhiều khi lẫn lộn, khó phân biệt. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, dù có tương tác thường xuyên và sâu sắc đến đâu chăng nữa, văn học dân gian và văn học viết (văn học thành văn) cũng không khi nào là một. Những đặc trưng cơ bản của hai loại nghệ thuật ngôn từ vẫn được duy trì, chúng không loại trừ nhau mà bù trừ nhau, tôn vinh nhau, làm rực rỡ nền văn học dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề về phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Xuân Kính (1991), Thi pháp học và việc nghiên cứu thi pháp văn học nghệ thuật dân gian. Tạp chí Văn hóa dân gian, Số 3.
3. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Các hình thức tương tác cơ bản giữa Văn học Dân gian và Văn học Viết (Tác giả: Trần Đức Ngôn) |