Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi

Tác giả bài viết: TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
(Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế)

1. Đặt vấn đề

     Di sản múa dân gian là tài sản vô giá của người Tà Ôi, là sợi dây gắn kết cộng đồng là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc. Chính trong lao động sáng tạo cùng với lối ứng xử đẹp của con người với con người, của con người với môi trường tự nhiên đã tạo nên loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, chứa đựng những nét đặc trưng riêng có của người Tà Ôi. 

     Người Tà Ôi cho rằng múa là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thế giới siêu nhiên.

     Trong nhạc lễ múa, khi vị chủ lễ làm phép xin thần linh, ma quỷ về dự lễ, chứng giám cho lòng thành của dân làng thì hòa chung với tiếng trống, tiếng cồng chiêng là sự cổ vũ của dân làng, những chàng trai, cô gái nhảy múa xung quanh sân nhà Rông tạo nên không khí đầy nhiệt huyết, đầy sức sống. Tất cả hòa vào nhau tạo thành một bản nhạc rộn ràng, đầy lạc quan, báo hiệu những điều tốt đẹp bắt đầu. Thông qua múa truyền thống mà tinh thần dân tộc được nâng cao, ý thức đoàn kết như được tiếp nối tạo nên sức mạnh toàn diện của dân tộc Tà Ôi. Chính vì những lẽ đó mà nghệ thuật múa của người Tà Ôi có những đặc điểm sâu sắc và riêng biệt so với các dân tộc thiểu số khác ở nước ta.

2. Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi

     2.1. Các điệu múa truyền thống

     Trước đây, trong công trình nghiên cứu, chúng tôi đã thống kê ra được 21 điệu múa với 3 nội dung: múa trong lao động có 13 điệu múa, múa trong sinh hoạt có 4 điệu múa và múa trong tín ngưỡng có 4 điệu múa.1 Những điệu múa đều mang tính phổ biến. Chúng tôi đã sưu tầm và ghi chép được thêm 7 điệu múa cổ mà chỉ có những người già Tà Ôi còn nhớ.

     – Điệu Azưng Radoóc: Xuất hiện trong các đám tiệc như đâm trâu, đám cưới… phụ họa phần diễn tả cho các điệu hò, điệu hát. Trong lễ đâm trâu, khi con trâu được cột vào cây nêu, trai gái, già trẻ đi xung quanh con trâu vừa múa, vừa hát, vừa đánh trống, thanh la, cồng chiêng. Khi biểu diễn con gái đi trước hát và múa, con trai đi sau vừa đệm nhạc, vừa hát. Ở sân khấu hiện đại thì điệu múa này lại mang ý nghĩa khác đó là phản ánh sự đúng sai trong mối quan hệ của hai làng kết nghĩa.

     – Điệu Azưng zêl: Trong đám cưới, mọi người tập trung thành vòng tròn hát múa những bài vui tươi cầu chúc cho đôi vợ chồng mới cưới được hạnh phúc dài lâu. Điệu này vừa nhún nhảy vừa vỗ tay theo nhịp người hát.

     – Điệu Xía Cu múi: Dùng trong đám ma, người ta đi chung quanh nhà để quan tài, vừa đi, vừa đánh trống, thanh la vừa hát điệu dân ca Ra rọi và múa. Điệu múa này thường không sôi nổi, người múa đi chậm chạp, nhích từng bước nhẹ nhàng tay buông xuôi, hai bàn tay xòe ra hai bên.

     – Điệu Azưng Curu: Điệu múa đồng bóng xuất hiện trong lúc cầu bóng hộ về nhập. Khi bóng hộ về nhập vào người nào đó, người đó đứng dậy vung tay, vung chân quay qua, quay về, quay lui, quay lại người bóng đứng ở giữa múa, xung quanh có vài người hầu bóng vừa đi theo nhịp trống và tiếng thanh la, khèn bè hòa vào. Điệu này người múa không có hát hò mà chỉ có người đứng phía sau tường hoặc vách nhà hát, họ hát theo điệu Câmprưng (âm ngang).

     – Múa hội mùa: Được biên đạo múa theo 5 giai đoạn:

     + Giai đoạn 1: Người múa tay cầm rựa, lưng đeo gùi, nam đi trước, nữ đi sau họ múa theo động tác phát rẫy.

     + Giai đoạn 2: Cảnh đốt rẫy, nam tay cầm rìu, rựa, bên hông đeo gùi nhỏ để bỏ các dụng cụ lao động, còn nữ múa động tác xúc cá dưới suối để lên nấu ăn cho chồng.

     + Giai đoạn 3: Thao tác trỉa lúa, động tác này cả nam và nữ đều múa, con trai cầm gậy chọc lỗ, nữ cầm lúa trỉa thành hàng đi sau.

     + Giai đoạn 4: Thao tác làm cỏ lúa, người múa chủ yếu là nữ, cầm cuốc nhỏ làm cỏ còn nam giới lại đóng vai đi săn thú quanh rẫy.

     + Giai đoạn 5: Thao tác tuốt lúa, chỉ có nữ tham gia múa, hông đeo giỏ để đựng hạt lúa, mọi người dàn thành hàng ngang, tay để ngang hông, tuốt nhẹ lúa rồi bỏ vào giỏ.

     – Điệu múa Tong: Hay còn gọi là múa giữ rẫy, nam giới dang tay rộng chạy tới, chạy lui nhiều lần và sẽ tưởng tượng công việc đang đuổi thú dữ, bảo vệ nương rẫy. Khi múa phải cầm theo giáo, atút, crờlông tirỉa và kèm theo những tiếng hú thất thanh. Còn nữ giới thì nhún nhảy theo nhịp điệu đuổi thú rồi hòa chung vào cùng với tốp nam để thể hiện một ý chí tập thể được bền chặt, tức là cầu mong có một mùa màng bội thu.

     – Điệu Vỗ Kuun giải chiến: Điệu múa này bắt đầu là một cô gái tên Căn Đôi Ra Dư xuất hiện trước sân với điệu bộ xúc cá, 5 động tác, 3 nhịp/động tác. Có anh chàng nhà nghèo tên là Cu Pỏa vừa đi vừa múa, đôi mắt quan sát xung quanh với điệu bộ săn thú. Hai người quấn quýt điệu múa nhẹ nhàng với nhạc khèn bè. Múa trao vòng cầu hôn cho cô gái. Cô gái cầm chiếc vòng được trao rồi mừng rỡ múa.

     Cùng lúc đó bà mẹ của Căn Đôi Ra Dư xuất hiện và ném chiếc vòng trên tay của con gái đi. Anh chàng nghèo đôi mắt ngạc nhiên và lo lắng. Đúng lúc đó anh chàng nhà giàu tên là A Rơn vừa tới vừa múa khoe khoang, trao vòng bạc cho bà mẹ cô gái, mặt bà mẹ phấn khởi đưa vòng bạc cho con gái, cô gái không nhận, bất chợt cô gái chạy tới ôm anh chàng nghèo, bà mẹ lôi cô gái ra.

     Nhạc cồng chiêng nổi lên với điệu nhạc Rarưp, hai chàng trai giao chiến bằng kiếm và khiêng, bà mẹ can không được.

     Cồng chiêng chuyển nhịp Rarưp sang điệu Palư, ông Vỗ Kuun đi tới vừa đi vừa hát điệu Tăngi, mọi người đều đứng im, bà mẹ chắp tay lên ngực, cô gái cúi mặt ngồi xuống, đúng một ngân Tăngi vừa xong, Vỗ Kuun liền hát điệu Cà lơi và cầm tay cô gái kéo lên và đưa tới cho anh chàng nhà nghèo, ông Vỗ Kuun đứng giữa mẹ cô gái và anh chàng giàu có bắt đầu múa Palư điệu Curu 2 vòng, tất cả các loại nhạc nổi lên, mọi người xếp hình chữ U, cô gái đứng ngoài nghiêng đầu vào trong ôm lấy anh chàng nhà nghèo, Vỗ Kuun cầm tay mụ già và anh chàng nhà giàu giơ lên cao chào khán giả.

     Về nguồn gốc của điệu múa này và nhân vật Vỗ Kuun thì họ có truyện kể như sau: “Ngày xưa khi người Tà Ôi mới hình thành và đi tìm ra được nhiều vùng đất mới để ở thì họ chia ra làm thành nhiều làng với các tên gọi như A Vao, A Vương, Phuang… tất cả các làng này đều ở hai bên bờ của con suối Târ Renh.

     Ở dòng suối Târ Renh đó, ai ai cũng biết ông Vỗ Kuun, ông thật đáng trân trọng bởi tài trí của mình, ông không ích kỷ mà luôn luôn đem tài trí của mình ra để giúp đỡ gia đình và làng bản. Ông hát alý rất giỏi, nhờ đó mà cuộc sống làng bản quanh suối Târ Renh có cuộc sống yên bình.

     Lúc đầu, người Tà Ôi có rất nhiều phong tục lạc hậu, ông Vỗ Kuun là người cứng rắn dám chống lại các ý kiến của Yàng Co (thần Núi), Yàng Đăq (thần Nước) khiến cho các Yàng này không còn đòi ăn trâu, ăn bò hằng năm nữa, trong lao động ông là người chắc chắn, những cây cao to chỉ một mình ông đốt sạch, đào sạch gốc, dân làng thấy vậy mà bắt chước nên rẫy của họ nhà nào cũng được mùa.

     Có những lần giữa các làng bên kia núi Ka Lưi sang cướp bóc hoặc chặn đoàn người đi trao đổi hàng hóa, ông Vỗ Kuun biết chuyện liền đi đến đánh nhau vớichúng làm cho bọn chúng trở thành người lương thiện.

     Một lần nọ, giữa hai làng A Ka và Ka Lưi có chuyện xích mích lớn lắm không làng nào chịu thua, việc diễn ra chỉ vì các trai làng của làng A Ka đi chơi về ngang qua rẫy của làng Ka Lưi thấy mía lên cao, dài đốt ngon lắm, họ liền bẻ vài cây để ăn, trong lúc đang ăn thì bị người của làng Ka Lưi bắt được, họ bỏ chạy cũng không được, nói láo cũng không xong nên trai làng A Ka bị phạt vạ nặng lắm.

     Già làng Ka Lưi tính ra sự mất mát nhiều mía thì phải đền gấp nhiều lần, cả trăm rẫy bắp cũng không đủ, phải đền thêm cả trâu, bò nữa để họ cúng Yàng kẻo không sợ Yàng bắt vạ. Sự việc đó đã làm cho trai làng A Ka khiếp sợ, họ về báo với già làng của mình thì chẳng giải quyết được việc gì mà lại thêm bị la mắng. Cả đoàn trai làng A Ka liền tìm đến ông Vỗ Kuun để nhờ vả.

     Khi gặp được ông Vỗ Kuun rồi cả bọn mừng lắm, chúng kể lại sự việc và cầu xin ông Vỗ Kuun cứu giúp. Vỗ Kuun không nói gì cả, im lặng đi về hướng làng Ka Lưi, Vỗ Kuun cầm chiếc khèn bè lên thổi, ông thổi lúc đầu thì chẳng ai để ý, họ vẫn cãi cọ nhau rồi đòi đền, đòi phạt rồi dần dần tiếng khèn inh ỏi len lỏi vào tai từng người. Họ như có bùa mê làm mê hoặc, cả làng Ka Lưi dừng việc, dừng tay để nghe tiếng khèn. Điệu khèn bè của ông Vỗ Kuun rất thông thạo lòng người, biết ai buồn, biết ai vui mà thổi vào lòng mọi người và được nhiều người yêu thích điệu khèn này, họ như lương thiện hẳn lên quên đi việc bắt người làng A Ka nộp phạt. Nhờ có tiếng khèn đó mà hầu khắp các bản làng Tà Ôi đều biết đến Vỗ Kuun.

     Ngày nay, cứ mỗi lần có lễ hội, tiếng khèn lại cất lên để tưởng nhớ Vỗ Kuun người đã bày cho dân làng biết làm khèn và các điệu khèn để thổi và họ hay nói:

Vỗ Kuun đi đâu người dân theo đó.

Vỗ Kuun khéo nói, giỏi làm”.2

     Bên cạnh đó trong kho tàng văn hóa dân gian Tà Ôi nhóm người Pacô đang lưu giữ trong mình các điệu múa: Pâr chiềng kòong, Pa dưưn kuru, Pa dưưn Tâng kin, Choan đung, Xịa tì rỉa. Các điệu múa này có phần giống với các điệu múa trong lễ đâm trâu, lễ cầu mùa của người Tà Ôi mà thôi.

     2.2. Các động tác khi múa của người Tà Ôi

     Khi khảo sát các điệu múa cơ bản của người Tà Ôi, chúng tôi thống kê có cả thảy 22 động tác khác nhau gồm:

     + Động tác tay nữ phần hạ cùng chiều: Hai bàn tay cùng úp phần hạ khuỷu tay tròn. Đóng và mở theo nhịp 2/4, tiết tấu bình thường, chân qua phải hoặc qua trái, di chuyển ngang.

     + Động tác tay phần hạ đóng mở: Một bàn tay úp, một bàn tay mở, chuyển luân phiên theo nhịp 2/4, tiết tấu bình thường chân qua phải hoặc qua trái. Khuỷu tay tròn, di chuyển ngang.

     + Động tác tay phần hạ trước và sau: Chuyển ra trước, vuốt về sau. Chân tiến lên 2 bước, lui 2 bước. Cuộn cổ tay ra sau rồi đưa ra trước.

     + Động tác tay phần thượng: Hai tay trên cao, lòng bàn tay hướng lên trời, các ngón tay kẹp chặt, khuỷu tay hướng ra phía trước, tròn khuỷu tay. Di chuyển theo tiết tấu 2/4 vừa, mắt nhìn thẳng, qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay thượng: Dựng thẳng bàn tay lên cao, hướng ra phía trước, rung bàn tay kéo xuống theo nhịp chân – ngang ngực. Động tác lặp lại theo chu kỳ tròn. Di chuyển ngang hoặc tiến lên phía trước. Nhịp tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay hạ: Hai bàn tay ở chiều chúc xuống đất, cuộn bàn tay nghiêng qua phải, chân trái bước, nghiêng qua trái thì chân phải bước. Di chuyển hướng thẳng, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay trung 1: Hai tay chắp bên hông, cánh tay khuỷu sang hai bên. Di chuyển ngang, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay trung 2: Một tay chống cằm, một tay đỡ cùi chỏ – thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển ngang, qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay trung 3: Hai tay chắp vào bên má phải hoặc má trái – thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển ngang qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay trung 4: Hai tay bắt chéo nhau chắp trước ngực, tâm trạng buồn, di chuyển theo tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay thượng: Hai tay ôm đầu – thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển ngang qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay hạ: Hai tay chắp sau lưng. Hai bàn tay hướng lên trên, mu bàn tay này đặt lên lòng bàn tay kia hướng lên trên. Dáng người chúc về phía trước, mặt nhìn ngang phải hoặc trái, tiết tấu 2/4.

     + Động tác tay có cầm đạo cụ đối với nữ:

* Cầm quạt.

* Cầm lá.

* Cầm lá đựng thức ăn.

* Cầm Xaar (xập xõa).

     + Động tác chân đi kiễng gót: Di chuyển ngang tiết tấu 2/4 phải hoặc trái, di chuyển tiến tiết tấu 2/4. 

     + Động tác pool thấp đối với nam: Động tác di chuyển thẳng hoặc trước mặt. Chân phải thì tay phải, động tác sát đất. Vòng chấp càng hẹp khi sát đất thì chuyển động tác. Nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã (cách mặt đất 30 cm).

     + Động tác pool nam cao: Động tác di chuyển thẳng hướng trước mặt, chân trái thì tay phải và ngược lại. Động tác ở phần trung (cách mặt đất khoảng 50 cm). Động tác nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã.

     + Động tác ẻo nam: Di chuyển hướng thẳng trước mặt. Động tác vui tươi, tinh nghịch, mềm mại uyển chuyển, tiết tấu 2/4.

     + Động tác chân của nam: Di chuyển ngang tiết tấu 2/4 nhanh nhẹn, dứt khoát. Di chuyển về phía trước động tác đi dứt khoát tiết tấu 2/4. Di chuyển phần thấp hơi cúi gập đầu gối, di chuyển phần trung hơi khom mình, di chuyển phần cao chân hơi đá về phía trước.

     + Động tác đánh trống của nam: Người đổ về phía trước, chân khuỵu, di chuyển thấp trung bình, vừa đi vừa đánh trống theo dàn cồng chiêng. Nhạc khèn, tù và, hò hú diễn tấu từ 1 người đến 2 người.

     + Động tác đánh cồng nam: Người đổ về phía trước, vai đeo cồng đánh bằng tay (nắm đấm, cũng có lúc bằng dùi) vừa đánh vừa di chuyển thấp cùng dàn nhạc.

     + Động tác đánh chiêng nam: Người đổ về phía trước, vai trái đeo chiêng, đánh bằng dùi, vừa đánh vừa di chuyển thấp, tay phải đánh, tay trái điều chỉnh âm thanh trên mặt chiêng, âm thanh lúc vang, lúc dừng theo trống với tiếng bùng, bục bục bục, bùng, bục bục bục, bục bục bục, bùng.

     + Động tác múa giáo nam khi đâm trâu: Trước khi đâm trâu, người cầm giáo múa theo dàn nhạc cồng chiêng, tù và, trống, khèn, xập xõa, tingat. Nhún nhảy theo tiết tấu nhanh nhẹn, dồn dập. Giáo vác trên vai, lưỡi giáo hướng lên trời di chuyển theo hình vòng tròn. Khi bắt đầu đâm trâu, người đâm cầm giáo, mũi giáo hướng thẳng vào trâu, vòng tròn quanh con trâu, lựa chọn hướng thích hợp để đâm trâu và đâm trúng chỗ hiểm.

     2.3. Âm nhạc trong nghệ thuật múa của người Tà Ôi

     Từ thời tiền sử âm nhạc và múa có mối quan hệ hữu cơ, không thể chia cắt, chúng hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bản thân nội tại của mọi hoạt động múa đã hàm chứa yếu tố tiết tấu nhịp điệu của âm nhạc (múa theo nhịp, phách, tiết tấu) đến khi phát triển, định hình hóa nghệ thuật múa thì vai trò của âm nhạc trở nên thiết yếu. Nếu múa mà không có âm nhạc thì vô hồn, vô cảm. Điều này càng thấy rõ vai trò của âm nhạc trong múa dân gian. Trong tất cả các nội dung múa của người Tà Ôi đều có âm nhạc, ngoài các loại nhạc cụ như đã trình bày ở trên thì trong quá trình diễn tấu nhạc người diễn tấu cũng hòa đồng vào không gian múa và động tác múa uyển chuyển, nhịp nhàng, sinh động.

     Đối với người Tà Ôi, âm nhạc dân gian là nhịp cầu nối những cá thể lại với cộng đồng, nối cộng đồng này với cộng đồng khác, nối con người với tất cả thần linh trong trời đất.

     Trong các tiến trình của lễ xin đất chôn nọc buộc trâu, lễ khấn cầu mùa (Tà nêm azakonh) và đặc biệt là lễ đâm trâu… vào đầu năm 1999, âm nhạc thường được tấu lên theo thứ tự gồm các khúc sau:

     – Roong hêl tâm moi (mừng khách): tiết tấu nhanh, vui tươi rộn ràng. Các thành viên sử dụng nhạc cụ đều nằm trong đội hình múa đi vòng tròn theo nhịp trống.

     – Palư tâm moi (vui cùng khách): tiết tấu khoan thai hơn, như lời mời trân trọng cùng khách vui chơi, ăn uống.

     – Tặc ân toch tôr (thi đấu): dành cho người già đấu lý với nhau bằng lời lẽ, người trẻ đấu với nhau bằng tài năng, sức mạnh và sự khéo léo.

     – Đăng tâm moi vel cho ăt se (tiễn khách): vui vẻ, mãn nguyện, lưu luyến, hẹn hò.

     Cả 4 khúc nhạc trên được gộp lại đánh trong khi tế lễ, khi vào hội và luôn được kết hợp với nhảy múa như một thể thống nhất. Mỗi cuộc lễ đều được tấu đi tấu lại nhiều lần. Giai điệu mộc mạc, đơn sơ nhưng tiết tấu chắc, ít biến hóa, tạo nên sự khỏe mạnh hùng tráng, mặc dù tính chất hòa tấu mang nhiều nét ngẫu hứng của từng cá nhân, giai điệu thô sơ, dễ nhớ được phụ họa khèn, tù và một cách tùy hứng, nghịch ngợm cũng như tiếng hú hét của nhạc công và đội múa. Đặc biệt trong lúc đâm trâu, khi ngọn lao của già làng đâm trúng điểm quy định, có nghĩa là con trâu sẽ phải gục chết thì tiết tấu được tăng lên, dồn dập hơn, cường độ mạnh hơn, tiếng hú hét cũng nhặt hơn theo nhịp chân nhảy múa khẩn trương dần theo đội hình di chuyển ngược kim đồng hồ với các điệu múa cố định như za zả, pa dứt tiría, răm.

     Biên chế đội nhạc gồm: 1 khèn, 2 trống, 2 cồng, 1 tù và, chuông, lục lạc để cho ai chơi thì tùy thích.

     Nhìn chung, âm nhạc của người Tà Ôi, nhạc hát cũng như nhạc đàn mang đậm dấu ấn thiên nhiên và cuộc sống bộ tộc: hoang sơ, đơn giản, mộc mạc, trữ tình và trầm hùng. Tiết tấu không nhanh lắm nhưng rộn ràng, ưa sử dụng loại nhịp chẵn có trọng âm rõ ràng, ít biến hóa, chỉ thỉnh thoảng có đảo phách.

     Có thể ngày xưa, trong không gian nguyên sơ với nhà sàn và bếp lửa hay bên bờ suối róc rách, trong sự âm u hùng vĩ của núi rừng Trường Sơn, lời hát của họ cất lên nghe rất huyền bí, đầy ma lực nhưng lại rất thân thiết gần gũi. Họ hát mà như nói với nhau, như nắm tay nhau kéo lại, như kể cho nhau chuyện ban sáng, ban trưa, như nói về nhau chuyện ngày mai, nói về niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau của cuộc sống… từ đó âm nhạc của họ sinh thành nên cho đến ngày hôm nay.3

     Ngoài các loại nhạc cụ truyền thống được sử dụng trong khi múa thì người Tà Ôi còn sử dụng các đạo cụ khác như quạt, kiếm, khiên, cung tên, cây mía, rìu, rựa… để phụ họa cho các động tác, các điệu múa được thêm sinh động.

     Nghệ thuật múa của người Tà Ôi từ ngoài đời đã được đưa vào trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình qua những tác phẩm điêu khắc tượng nhà mồ, các hình vẽ trên nhà Rông, cột lễ đâm trâu. Đặc biệt trang trí hoa văn trên vải dzèng người Tà Ôi đã thể hiện 2 hình người đàn ông múa và người đàn bà múa với tên gọi Răm/Ngai răm/Ngai za zả.4

3. Kết luận

     Điệu múa của người Tà Ôi mang nhiều yếu tố hoang dã, không bị pha tạp các yếu tố văn hóa ngoại lai. Các điệu múa được truyền từ đời này sang đời khác thông qua phương pháp truyền dạy trong những lễ hội truyền thống. Mỗi thế hệ tiếp nhận đều trân trọng, giữ gìn nghiêm túc phong cách thể hiện. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang tính cộng đồng cao, nhiều màu sắc. Mỗi động tác múa đều có những chủ đề nhất định, có thể diễn tả hết được những công việc lao động sản xuất, được chắt lọc từ chính cuộc sống lao động, sinh hoạt của người Tà Ôi. Chính vì lẽ đó mà múa của người Tà Ôi ngày càng có sức sống, tồn tại mãi mãi. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của người Tà Ôi.

     Múa của người Tà Ôi được hình thành trên cơ sở xã hội với nhiều yếu tố tâm linh, lao động, sản xuất, sinh hoạt gia đình, dòng họ. Múa là sự kết hợp và kế thừa của các loại hình nghệ thuật khác đó là âm nhạc, dân ca, văn học dân gian, văn hóa dân gian, dân tộc học, xã hội học, ngôn ngữ tạo hình… do vậy việc gìn giữ và phát huy bảo tồn các điệu múa truyền thống của người Tà Ôi là việc làm cần thiết không chỉ làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Tà Ôi nói riêng mà còn của đồng bào các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam nói chung.

     Hàng năm mỗi khi cộng đồng Tà Ôi có lễ hội quan trọng thì những điệu múa dân gian lại được phát huy. Các cấp, các ban ngành đã và đang quan tâm bảo vệ, tiếp tục duy trì các điệu múa truyền thống. Cụ thể là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Phòng Văn hóa Thông tin huyện A Lưới đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu múa truyền thống trong các lễ hội trên địa bàn người Tà Ôi cư trú nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống.

     Ngành văn hóa đã cử các cán bộ đến từng thôn, xã nơi tập trung nhiều đồng bào Tà Ôi sinh sống tại các xã như A Ngo, Nhâm, Hồng Thái, A Đớt, A Roàng, trực tiếp gặp các nghệ nhân để tiến hành khảo sát, thu thập tư liệu và nghiên cứu các điệu múa truyền thống của dân tộc Tà Ôi. Đây được coi là một trong những biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn nghệ thuật múa cũng như các loại nhạc cụ, các thể loại dân ca.

     Với nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản múa truyền thống của người Tà Ôi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các cuốn sách có liên quan đến múa truyền thống của người Tà Ôi; mời các nghệ nhân đến truyền dạy các điệu múa truyền thống cho học sinh Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế; phối hợp với các xã có phong trào thực hành điệu múa truyền thống, có nghệ nhân tâm huyết để đào tạo bài bản cho thế hệ trẻ. Trong đó có hình thức lồng ghép chương trình nghệ thuật trình diễn dân gian vào các chương trình ngoại khóa ở các trường phổ thông trên địa bàn người Tà Ôi.5

     Chú thích:

     1. Trần Nguyễn Khánh Phong, “Về việc phát huy các điệu múa dân gian của người Tà Ôi”, Kỷ yếu Thông báo Văn hóa 2009, (Hà Nội: Từ điển Bách khoa, 2010), 602-621. Có 21 điệu múa đó là múa đeo gùi, múa nhổ sắn, múa làm cỏ, múa xúc cá, múa phát rẫy, múa bắn nỏ, múa giáo, múa đi săn, múa chặt củi, múa trỉa lúa, múa dệt vải, múa giã gạo, múa đẽo cột nhà, múa quạt cho khách, múa bưng nước mời khách, múa mời rượu, múa múc nước suối, múa Ariêu ada za zả, múa Sasai veel, múa adưn choán paching dung, múa ada koonh.

     2. Trần Nguyễn Khánh Phong, Truyện cổ của người Pa Cô ở Thừa Thiên Huế, (Hà Nội, Khoa học Xã hội, 2015), 129, 130, 131.

     3. Dương Bích Hà, “Âm nhạc trong lễ cầu mùa của người Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 8/2000.

     4. Trần Nguyễn Khánh Phong, “Phức hệ hoa văn trang trí trên trang phục của người Tà Ôi”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 12 (258)/2005, 64.

     5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Cao Chí Hải, Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể múa truyền thống trong lễ hội Aza Kooh của dân tộc Tà Ôi, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Huế, 10.2014. 50 trang.

Nguồn: Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng, Miền Trung – Tây Nguyên, trang 30-35

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Downlaod file (PDF): Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi (Tác giả: Trần Nguyễn Khánh Phong)