Đặc điểm xã hội vùng ven Hồ Tây trong thời kỳ đổi mới (Phần 1)

Tác giả bài viết: Thạc sĩ PHẠM THỊ THƯƠNG THƯƠNG
(Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN)

     Lấy Hồ Tây làm trung tâm, khái niệm “vùng ven hồ” được hiểu là những đơn vị hành chính nằm sát cạnh Hồ Tây và gián cách với Hồ Tây, chịu ảnh hưởng của mặt nước Hồ Tây trong sản xuất và đời sống. Gọi theo tên làng thì hiện nay ven hồ có 13 làng: Chỏm đỉnh Bắc là làng Nhật Tân; theo bờ phía Đông là làng Quảng Bá, Tây Hồ, Nghi Tàm, Yên Phụ; bờ Nam là các làng Thụy Khuê, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái; bờ Tây là làng Vệ Hồ, Trích Sài, Võng Thị. Tất cả những làng này hiện nay thuộc quận Tây Hồ.

     Nằm kề sát ngay bên bờ Hồ Tây có 13 làng như đã nói ở trên. Song nói đến Hồ Tây thì cũng không thể không nói đến một vùng đất gián cách với hồ nhưng vẫn được coi là thuộc quần thể vùng Hồ Tây, đó là vùng Bưởi. Vùng Bưởi được dùng để chỉ chung một khu vực có tới gần chục làng trải dọc phía Tây Nam Hồ Tây: Đông Xã, An Thọ, Trung Nha, Tiên Thượng, Vạn Long, An Phú, Bái Ân, Võng Thị, Trích Sài. Những làng này do có quan hệ mật thiết với mặt nước Hồ Tây (trong nghề thủ công truyền thống) nên chúng tôi sẽ khảo cứu trong phạm vi nghiên cứu. Tương tự như vậy, khi nói đến vùng ven Hồ Tây không thể không nói đến Ngũ Xã, Phú Gia, Phú Xá và Phú Thượng.

     Trước năm 1996, phần lớn những làng trên thuộc 6 xã trong số hơn 20 xã của huyện Từ Liêm và 4 phường của quận Ba Đình. Ngày 28 tháng 10 năm 1995, theo Nghị định số 69/CP của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập quận Tây Hồ thì từ đó đến nay về mặt hành chính những làng trên phần lớn thuộc 8 phường của quận Tây Hồ. Còn lại thuộc quận Ba Đình và Cầu Giấy. Cụ thể, đó là các phường: Quảng An, Tứ Liên, Phú Thượng, Nhật Tân, Xuân La, Yên Phụ, Bưởi, Thụy Khuê (quận Tây Hồ); Trúc Bạch (quận Ba Đình); Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy).

     Một số địa danh của các làng thuộc vùng ven Hồ Tây trong lịch sử cũng đã có nhiều lần thay đổi. Chẳng hạn như: Nhật Tân trước đây gọi là Nhật Chiêu1; Yên Phụ trước đây gọi là Yên Hoa2; Thụy Khuê trước đây gọi là Thụy Chương.

1. Dân cư và lao động

     Trước năm 1954, tỷ lệ gia tăng dân số ở Hà Nội lớn, trung bình hàng năm tăng 4,7%. Thời kỳ 10 năm từ 1918 – 1928 dân số tăng trung bình 6,2% năm. Ngày 20/4/1961 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá II đã ra quyết định mở rộng thành phố Hà Nội bằng việc sáp nhập một số xã, thị trấn của các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Đây là lý do khiến cho dân số Hà Nội giai đoạn 1954 – 1979 gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên, vào giai đoạn này, do chính sách nhập cư, đăng ký hộ khẩu, quản lý nhân khẩu được kiểm soát thực hiện chặt chẽ nên số người nhập cư vào Hà Nội rất hạn chế. Dân số Hà Nội năm 1989 là 3.004.900 người3, giai đoạn 1979-1989 là thời điểm dân số Hà Nội lớn nhất. Đây cũng là giai đoạn một số địa bàn có mức gia tăng dân số cao do phát triển các khu dân cư mới như Trung Liệt, Trung Tự, Láng Hạ… Cũng trong giai đoạn này, ở Hà Nội đã xuất hiện hiện tượng di dân và nhập cư tự phát dẫn đến việc hình thành một số “xóm liều” – một loại hình điểm dân cư do các luồng di dân từ nông thôn vào đô thị, nhất là các đô thị lớn. Các dòng di dân vào Hà Nội thời kỳ này chủ yếu từ các vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền núi, trung du phía Bắc. Một số ít là dân cư từ các tỉnh Bắc Trung Bộ và một số tỉnh phía Nam. Đặc trưng của hiện tượng di dân thời kỳ này là chịu sự chi phối mạnh mẽ của cơ chế bao cấp và chế độ điều động lao động theo kế hoạch của nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một bộ phận dân di cư vào Hà Nội là những người không có đời sống ổn định ở nông thôn, hoặc muốn ra thành phố kiếm việc làm để có thu nhập cao hơn. Những đối tượng này tuy sinh sống ở ngay giữa đô thị nhưng lối sống, nếp sinh hoạt vẫn mang đậm chất nông thôn; khái niệm “văn minh đô thị” còn rất xa lạ đối với họ.

     Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã quyết định điều chỉnh địa giới của thủ đô Hà Nội – chuyển huyện Mê Linh trước của Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phúc, chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện khác về tỉnh Hà Tây. Theo quyết định này thì phạm vi ranh giới của Hà Nội được giới hạn nhỏ hơn. Trong thời kỳ này, từ 1990 đến nay, sự phát triển của dân số Hà Nội chịu sự tác động nhiều mặt của chính sách đổi mới kinh tế – xã hội. Dân số có xu hướng tăng nhanh hơn so với thời kỳ trước đó. Khu vực vùng ven Hồ Tây là một trong những khu vực dân số có xu hướng tăng nhanh vào thời kỳ này, khác với khu vực Hoàn Kiếm – là khu phố cổ, các khu phố hình thành từ thời thực dân, có mức gia tăng dân số thấp.

     Với sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, Hà Nội được tập trung đầu tư cho phát triển theo hướng ngày càng hiện đại hoá. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong những năm gần đây, việc kiểm soát nhập cư, công tác quản lý nhân khẩu chưa được chặt chẽ đã dẫn đến hiện tượng tăng dân số do nhập cư có chiều hướng tăng cao, các luồng chuyển cư tự do vào Hà Nội bắt đầu phát triển mạnh mẽ.

     Vùng ven Hồ Tây bao gồm 10 phường với tổng số dân 135.688 người (2003), mật độ dân số trung bình 3.669 người/km2. Mật độ dân số khu vực này có phần thấp là do diện tích mặt nước và diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá lớn. Dân cư trong khu vực phân bố không đều, các phường thuộc nội thành cũ mật độ dân số khá cao: phường Bưởi có mật độ dân số cao nhất với 14.886 người/km2; phường Yên Phụ có mật độ dân số là 13.407 người/km2; phường Thụy Khuê có mật độ dân số là 6.833 người/km2. Ở khu vực này, nhà cửa, đường phố được xây dựng khang trang, hiện đại và nếp sống dân cư đô thị đã hình thành từ lâu. Đó cũng là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các hoạt động thương mại – dịch vụ, phục vụ đời sống dân cư và thực tế hiện nay các ngành thương mại – dịch vụ cũng phát triển tập trung ở các phường này. Một số phường trước đây thuộc ngoại thành mật độ dân số thấp hơn, trong đó Xuân La có mật độ cao nhất với 5.409 người/km2, những phường còn lại mật độ dân số chỉ khoảng 2.200 đến 2.600 người/km2. Ở khu vực này, kiến trúc nhà ở, đường giao thông có sự pha trộn giữa đô thị và nông thôn.

Bảng 1. Dân số vùng ven Hồ Tây năm 2001

STTPhườngDân số của
phường
Dân số nằm bên
bờ hồ
Diện tích (km2)Mật độ
(người/ km2)
1Bưởi18.6703.7131.3813.432
2Thụy Khuê14.7023.2542.256.420
3Yên Phụ18.2745.3141.4612.246
4Tứ Liên7.620 _3.452.171
5Quảng An7.9657.9373.462.302
6Nhật Tân7.5244.2153.912.200
7Phú Thượng11.187 _5.721.837
8Xuân La8.8814802.373.779
9Nghĩa Đô19.570 _129775115.404
10Trúc Bạch11.310 _
Nguồn: UBND quận Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, 2001

     

     Do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, từ năm 1996, số lượng dân cư từ nơi khác chuyển đến cư trú trong khu vực này khá đông: trung bình 1884 người/năm. Trong khi đó, số lượng cư dân xuất cư khỏi khu vực chỉ chiếm 1/2 số dân nhập cư (khoảng 814 người/năm). Theo số liệu thống kê, số lượng dân cư từ nơi khác chuyển đến khu vực này năm 1998 là 3.742 người và cũng trong năm này số lượng dân cư chuyển đi là 1.947 người.

     Dân cư ở khu vực này có lịch sử cư trú lâu đời và trước đây thường sinh sống bằng các nghề truyền thống như trồng dâu, nuôi tằm, làm giấy, dệt vải, đúc đồng, trồng hoa… Do xu thế phát triển chung của xã hội, khu vực này, như trên đã nói, hiện đang có những thay đổi đáng kể về dân số cũng như các phương thức làm ăn sinh sống, cách sử dụng đất…

     Thành phần dân cư trong khu vực chủ yếu tập trung dưới hai dạng: Thứ nhất, đó là dân cư chính gốc, được hiểu là những hộ gia đình sống lâu đời tạo thành các quần cư như làng Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài, Nghi Tàm, Xuân La. Thứ hai, đó là dân ở nơi khác đến thuê nhà ở hoặc mua nhà ở. Do tốc độ đô thị hoá tăng nhanh, lượng nhà hàng, khách sạn mọc lên ngày một nhiều dẫn đến tình trạng khách thuê vãng lai ở khắp nơi, thuộc mọi thành phần đến cư trú. Vấn đề này đã gây khó khăn, cản trở không nhỏ trong việc quản lý và bảo vệ môi trường.

     Do tình trạng dân cư tập trung không đều, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được với tốc độ phát triển chung của xã hội nên chất lượng môi trường ở đây hàng ngày hàng giờ đã và đang bị suy thoái.

Hình 1. Biểu đồ sự chuyển cư của các phường vùng ven Hồ Tây năm 1998

Hình 2. Biểu đồ sự chuyển cư của các phường vùng ven Hồ Tây năm 2004

     Lao động trên địa bàn khu vực này chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh dịch vụ nhỏ. Vấn đề việc làm và tăng thu nhập cho dân cư trên địa bàn này cũng đang là vấn đề bức xúc. Do lực lượng lao động có trình độ chuyên môn và chất lượng đào tạo chưa cao nên tình trạng lao động chưa có việc làm tương đối nhiều. Khu vực này cũng đang trong quá trình đô thị hoá cao, đất nông nghiệp dần bị thu hẹp, người dân đang dần chuyển đổi nghề phù hợp với điều kiện mới.

     Đặc điểm của khu vực này là có số lượng lao động dồi dào. Số lượng lao động trong khu vực ngoài quốc doanh thuộc khu vực này có xu hướng tăng liên tục qua các năm, từ 1.128 người năm 1996 lên 1.837 người năm 2000 và đến năm 2005 là 3.254. So với năm 1996, số lượng lao động năm 2005 tăng gần 2,9 lần. Trong đó, lao động trong các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp giảm từ 173 người năm 1996 xuống 101 người năm 2000 và đến năm 2005 còn 47 người. Trong khi đó, lao động trong khu vực cá thể tăng từ 872 người năm 1996 lên 982 người năm 2000 và tăng đến 1143 người năm 2005. Số lượng lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp tăng lên nhanh, từ 83 người năm 1996 lên 785 người năm 2000 và 2064 người năm 2005. Những ngành thu hút nhiều lao động nhất là những ngành sau (tính đến thời điểm 2005): Thứ nhất là ngành sản xuất các sản phẩm từ kim loại với 747 người, chiếm gần 23% tổng số lao động công nghiệp ngoài quốc doanh; Thứ hai là ngành sản xuất trang phục, thuộc da, lông thú với 385 người, chiếm 11,8%; Thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm cao su với 376 người, chiếm hơn 11,5%; Thứ tư là sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy với 351 người, chiếm hơn 10,7%.

     Vào thời điểm cuối năm 2006, tính riêng trong 8 phường thuộc quận Tây Hồ có 3.560 lao động chưa có việc làm, cao nhất là phường Bưởi, thấp nhất là phường Nhật Tân. Số người có nhu cầu lao động, tìm việc làm khoảng 2.314 người. So với các khu vực khác ở Hà Nội, vùng ven Hồ Tây là khu vực có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chưa cao. Theo thống kê sơ bộ về trình độ chuyên môn, lao động có trình độ đại học, trên đại học có khoảng 966 người (chiếm 30%); lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp khoảng 662 người (chiếm 20%); lao động là công nhân kỹ thuật có 610 người (chiếm 18%) và lao động phổ thông có khoảng 1055 người (chiếm 32%).

Hình 3. Biểu đồ cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn vùng ven Hồ Tây –
tính đến thời điểm tháng 9-2006

2. Giáo dục

     Vùng ven Hồ Tây có truyền thống giáo dục và khoa cử. Theo thống kê từ sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) [35] kết hợp với điều tra thựcđịa, chúng tôi thống kê trong gần 850 năm giáo dục và khoa cử Nho học có 16 người đỗ đạt (Trạng Nguyên: 1 người, Bảng Nhãn: 1 người, Thám Hoa: 0, Hoàng Giáp: 2 người, Tam Giáp: 12 người, Phó Bảng: 0). Với truyền thống hiếu học đó, trường học lâu đời nhất của Hà Nội là trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An) ra đời trên mảnh đất Bưởi.

     Theo điều tra khảo sát của chúng tôi, giáo dục ở vùng ven Hồ Tây trong thời kỳ đổi mới đã thay đổi hơn rất nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. 65,3% là số người đã trả lời sự thay đổi về giáo dục ở khu vực này khá hơn nhiều so với thời kỳ trước đổi mới.

Hình 4. Biểu đồ đánh giá về Giáo dục của người dân vùng ven Hồ Tây

     Khu vực này hiện nay có 12 trường tiểu học, trong đó có 10 trường tiểu học công lập phân bố ở tất cả các phường và 2 trường dân lập ở phường Bưởi và phường Thụy Khuê. Trong số các trường tiểu học này có hai trường đạt chuẩn quốc gia. Tổng số giáo viên bậc tiểu học trong khu vực này năm 2006 là 234 người. Hầu như các trường đều đảm bảo đủ giáo viên, không có giáo viên dạy chéo môn. Số giáo viên đạt chuẩn tăng từ 90,4% năm 1996 lên 96% năm 2000 và đến năm 2006 thì có 100% giáo viên đạt chuẩn và 94% đạt trên chuẩn. Tỷ lệ học sinh giỏi tăng từ 14% năm 1996 lên 34,6% năm 2000 và đến năm 2006 tăng 55%; Tỷ lệ học khá giỏi đạt 89%. Khu vực này có chất lượng giáo dục tiểu học tương đối tốt. Trong 10 năm từ 1996 đến 2006, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học thường xuyên đạt 100%.

     Về cơ sở vật chất, cho đến hết năm 2006, khu vực này không còn các phòng học cấp 4 và được sự quan tâm của các cấp các ngành, tình trạng học 2 ca ở một số trường tiểu học như trường tiểu học Tứ Liên, Quảng An, Phú Thượng đã dần được khắc phục. Diện tích mặt bằng sử dụng của các trường công lập là hơn 25.096 m2, đạt mức bình quân 4,4 m2/học sinh. So với mức chuẩn quy định về diện tích đất cho một học sinh là 6 m2 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì khối tiểu học cần phải bổ sung thêm diện tích. Một số trường tiểu học hiện nay còn quá chật như trường tiểu học Chu Văn An chỉ có 0,9 m2/ học sinh, trường tiểu học Tứ Liên 3,3 m2/ học sinh. Hệ thống trường lớp tuy đã được quan tâm đầu tư xây mới và cải tạo, song vẫn còn thiếu và một số cơ sở đã xuống cấp, trang thiết bị cho dạy và học còn chưa đủ và nhiều trường còn thiếu các phòng chức năng. Hầu hết các trường chưa có phòng giáo dục thể chất, điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục – đào tạo toàn diện.

Bảng 2. Số lượng trường, giáo viên, học sinh tiểu học khu vực Hồ Tây năm 2006

STTPhườngSố trườngGiáo viênHọc sinh
1Thụy Khuê2521740
2Bưởi236890
3Xuân La120729
4Nhật Tân121491
5Phú Thượng132608
6Tứ Liên111300
7Quảng An121688
8Yên Phụ124516
9Trúc Bạch1
10Nghĩa Đô117237
Nguồn: Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Ba Đình, 2007

     

     Ở bậc Trung học cơ sở, khu vực này có 13 trường với hơn 8.000 học sinh, trong đó có 10 trường công lập trên địa bàn 10 phường và 3 trường dân lập. Năm 2006, tỷ lệ học sinh đạt loại khá, giỏi khoảng 75%, tỷ lệ học sinh kém chiếm khoảng 2%. Trong những năm gần đây, hầu như không có học sinh xếp hạnh kiểm kém. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở ngày càng cao, cụ thể năm 1996 đạt 92,8%, năm 2000 là 96,1% và năm 2006 đạt 99,7%. Chất lượng đội ngũ giáo viên cũng được nâng cao. Tỷ lệ giáo viên trung học cơ sở đạt chuẩn cũng tăng dần theo các năm. Đến năm 2006, khu vực này có 100% đạt chuẩn và trên 55% giáo viên đạt trên chuẩn. Giống như bậc tiểu học, tất cả các trường trung học cơ sở đều có đủ số lượng giáo viên, không có giáo viên dạy chéo môn. Trong hơn 10 năm qua, cơ sở vật chất của khối trung học cơ sở cũng được cải thiện nhiều. 7 trường được xây mới và cải tạo là các trường Phú Thượng, Quảng An, Nhật Tân, Đông Thái, Xuân La, Chu Văn An và Nhật Tân. Tuy nhiên, trang thiết bị dạy và học, bao gồm tài liệu dạy và học cùng các tài liệu tham khảo cho thầy và trò, các thiết bị khác phục vụ cho các phòng thí nghiệm, thư viện, công trình vệ sinh, nước sạch của các trường còn chưa đầy đủ, nhiều trường chưa có khu vệ sinh đạt tiêu chuẩn và nước sạch. Thiết bị dạy và học các môn văn-thể- mỹ và các môn học hướng nghiệp hầu như chưa được chú trọng.

Bảng 3. Số lượng trường, giáo viên, học sinh Trung học cơ sở vùng ven Hồ Tây năm 2006

STTPhườngSố trườngGiáo viênHọc sinh
1Thuỵ Khuê21012817
2Bưởi251895
3Xuân La135601
4Nhật Tân121491
5Phú Thượng133551
6Tứ Liên121354
7Quảng An131574
8Yên Phụ137544
9Trúc Bạch134
10Nghĩa Đô1721515
Nguồn: Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Ba Đình, 2007

     Hiện nay, trên địa bàn khu vực này có 2 trường Trung học phổ thông công lập là trường THPT Chu Văn An, trường THPT Tây Hồ và một số lớp thuộc trường dân lập Đông Đô. Trường THPT Tây Hồ mới được xây dựng trong giai đoạn 2000-2005, trường có 29 lớp với 1300 học sinh và 63 giáo viên, diện tích 21.500 m2 với 21 phòng học kiên cố. Trường THPT Chu Văn An là trường chất lượng cao, có 51 lớp học với 2191 học sinh và 113 giáo viên, diện tích rộng 48.000 m2 và có 42 phòng học kiên cố. 100% giáo viên THPT đều đạt chuẩn và trên chuẩn.

______
     1. Thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) Nhật Tân được gọi là phường Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, thành Thăng Long. Đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX) Nhật Chiêu thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, thành Hà Nội. Sang thời Bảo Đại (1926-1945), Nhật Chiêu được đổi thành Nhật Tân [7, tr. 8].

     2. Yên Phụ – tên này xuất hiện giữa thế kỷ XIX do việc kỵ húy mẹ vua Nguyễn tên là Hoa.

     3. Theo số liệu thống kê của Chi cục Thống kê Hà Nội.

Nguồn: 25 năm Việt Nam học theo định hướng Liên ngành

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

     Còn tiếp: Kính mời Quý độc giả đón xem:

Đặc điểm xã hội vùng ven Hồ Tây trong thời kỳ đổi mới (Phần 2) — đang cập nhật