Dấu ấn VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM qua một số ẨN DỤ Ý NIỆM trong THƠ NGUYỄN BÍNH (Phần 1)
PHAN NGỌC TRẦN
(Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh)
1.
Dần định hình từ những năm 1970 với nhiều công trình ra đời cùng lúc, đặc biệt từ năm 1980 với Metaphors we live by của G. Lakoff và M. Johnson, ngôn ngữ học tri nhận ngày nay đã trở thành một trào lưu nổi bật trong nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với tư duy. Một trong những trọng tâm của khuynh hướng này là việc tiếp cận ẩn dụ ý niệm và sự phản ánh chúng vào trong ngôn ngữ, nó không dừng lại ở việc miêu tả mà còn đạt nhiều thành tựu trong giải thích cơ chế hình thành và vận hành ngôn ngữ. Cùng các hỗ trợ liên ngành, lí thuyết ẩn dụ ý niệm và việc áp dụng lí thuyết này vào nghiên cứu diễn ngôn thực là một công cụ hữu hiệu để tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ và tư duy gắn liền với bối cảnh văn hoá xã hội của cộng đồng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh lên nền tảng kinh nghiệm trong tâm trí người dùng ngôn ngữ. Ở địa hạt thi ca, xuất phát từ văn bản thơ, việc nghiên cứu này có thể gợi mở nhiều vấn đề tương tác văn hoá, bởi văn hoá là một bộ phận quan trọng trong cơ sở kinh nghiệm, đồng thời ẩn dụ và văn hoá luôn có quan hệ mật thiết với nhau.
Xét riêng trong phạm vi nền thi ca Việt Nam, thơ Nguyễn Bính được xem là chứa đựng nhiều giá trị và đặc trưng văn hoá truyền thống nhất và cũng đã được giới học thuật tập trung nghiên cứu. Tuy vậy, đứng từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận để xem xét các ẩn dụ ý niệm trong thơ tác giả này nhằm xác định dấu ấn văn hoá truyền thống là điều còn ít được quan tâm dù là việc làm cần thiết. Mục đích của bài viết là tập trung xác lập một số ẩn dụ ý niệm có miền nguồn là CON THUYỀN và VIỆC DỆT VẢI (vốn là những hình tượng gắn liền với văn hoá truyền thống, được Nguyễn Bính vận dụng thường xuyên với mật độ dày), từ đó cũng chỉ ra một số dấu ấn văn hoá truyền thống chi phối các ẩn dụ này.
2.
Ẩn dụ ý niệm là sản phẩm của tư duy nhân loại nên về đại thể chúng mang bản chất phổ quát. Tuy thế chúng cũng chịu sự chi phối sâu sắc của môi trường văn hoá truyền thống trong các cộng đồng diễn ngôn riêng biệt.
2.1. Trong quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ về bản chất là mang tính ý niệm, nó là cơ chế chủ yếu mà qua đó ta nhận hiểu các ý niệm trừu tượng và thực hiện hoạt động suy lí trừu tượng. Ẩn dụ không đơn thuần là một vấn đề của từ ngữ hay các biểu thức ngôn ngữ mà là “một vấn đề của ý niệm, của việc suy nghĩ về một đối tượng này dưới dạng thức một đối tượng khác” [6, tr. xi].
Như thế, khác với quan điểm truyền thống cho ẩn dụ là một phương tiện thuần tuý cho sáng tạo văn chương, ẩn dụ ở đây được xem là một công cụ tri nhận, nó hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư duy và nhận hiểu thế giới của con người.
Để tiện cho việc nhận diện, ta cần phân biệt giữa ẩn dụ ý niệm và các biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ. Ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ (mapping) phóng chiếu cấu trúc từ miền ý niệm nguồn (source domain) sang một miền ý niệm đích (target domain). Các ẩn dụ ý niệm là nền tảng trong tâm trí mà từ đó các ẩn dụ ngôn ngữ được tạo ra bởi các bên giao tiếp. Nói về bản chất mối quan hệ giữa các ẩn dụ ý niệm và các biểu thức mang tính ẩn dụ, Z. Kövecses nhấn mạnh: “các biểu thức ngôn ngữ (tức những cách nói) làm nổi rõ, là ngoại hiện của các ẩn dụ ý niệm (tức những cách nghĩ). Nói cách khác, các biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ dẫn giải sự tồn tại của các ẩn dụ ý niệm.” [6, tr. 7].
2.2. Văn hoá chi phối việc xác định ý niệm và ý niệm là một sự phóng chiếu tinh thần từ các yếu tố của một văn hoá. Kinh nghiệm con người không chỉ là kết quả của quá trình tương tác với thế giới khách quan mà còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hoá. Do đó các ẩn dụ ý niệm phổ quát không phải là sự sáng tạo độc nhất của cá nhân các nhà thơ mà là một phần trong cách thức thành viên một văn hoá ý niệm hoá kinh nghiệm của họ. Nhà thơ trong cương vị là thành viên của một văn hoá nhất định sẽ sử dụng (một cách tự nhiên và thuần thục) các ẩn dụ ý niệm cơ bản này để giao tiếp với những thành viên khác, tức là độc giả của họ. Rõ ràng nếu người lập mã (encode) là nhà thơ đưa ra thông điệp (message) mà người tiếp nhận là độc giả không thể giải mã (decode) dựa vào một nền tảng chung nhất định thì hoạt động giao tiếp sẽ gặp trở ngại.
Khi xem xét ẩn dụ trong các ngôn ngữ, ta sẽ bắt gặp các ẩn dụ mang tính phổ quát (universal metaphor), tức là các ẩn dụ có thể tìm thấy được trong phần lớn những văn hoá khác nhau. Tuy vậy, bên cạnh chúng còn có một lượng rất lớn các ẩn dụ không phổ quát, tức mang những đặc trưng riêng cho từng văn hoá xác định. Những khác biệt này có thể “mang nhiều hình thức và ở một trong số các hình thức phổ biến nhất, một miền trừu tượng riêng biệt được hiểu theo những cách thức đa dạng khác biệt nhau từ phương diện xuyên văn hoá” [5, tr. 3]. Lý Toàn Thắng cho rằng: “Ý niệm trước hết không phải và không chỉ là kết quả của quá trình tư duy, quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người; mà nó là sản phẩm của hoạt động tri nhận, nó là cái chứa đựng tri thức hay sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh nghiệm từ đời này qua đời khác; ý niệm vừa mang tính nhân loại phổ quát vừa mang tính đặc thù dân tộc” [4, tr. 182].
Ẩn dụ khái quát (hay nguyên cấp) có thể được nhóm lại với nhau trong các ngôn ngữ và văn hoá cụ thể để tạo ra các ẩn dụ phức hợp. Các ẩn dụ nguyên cấp có khuynh hướng phổ quát, trong khi các ẩn dụ phức hợp hình thành từ chúng thường chịu sự chi phối mạnh mẽ của văn hoá. Chính các ẩn dụ phức hợp – chứ không phải các ẩn dụ nguyên cấp – là thứ làm nên sự khác biệt trong tư duy của con người trên cơ sở các bối cảnh văn hoá thực. Những biến đổi mang tính đặc thù văn hoá cũng có nhiều dạng: một văn hoá sử dụng một tập hợp các miền nguồn khác nhau để nhận hiểu một miền đích riêng biệt, hay ngược lại là sử dụng một miền nguồn cụ thể cho sự ý niệm hoá của một tập hợp các miền đích khác nhau. Để xác định được các dấu ấn văn hoá xuất hiện trong ẩn dụ ý niệm, người nghiên cứu nhất thiết phải tập trung vào các ẩn dụ phức hợp này.
2.3. Như đã xác định trên cứ liệu 106 bài thơ tình thuộc giai đoạn trước 1945 trong hai tập thơ Thơ tình Nguyễn Bính (NXB Đồng Nai, 1996) và Tuyển tập Nguyễn Bính (NXB Văn học, Hà Nội, 1986), bài viết sẽ tập trung xác định các ẩn dụ ý niệm có miền nguồn là CON THUYỀN và VIỆC DỆT VẢI trong thơ Nguyễn Bính, song song đó là tiến hành lí giải cơ sở kinh nghiệm của các ẩn dụ để chỉ ra những dấu ấn văn hoá truyền thống Việt Nam trong những tác phẩm thơ này.
Bài viết sử dụng thủ pháp phân tích ngữ cảnh (context) và thủ pháp phân tích ngôn cảnh (co-text) để xác định các yếu tố và biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ. Kế tiếp, người viết trích xuất ra các đối tượng có miền nguồn cho các ánh xạ xuyên miền là CON THUYỀN, VIỆC DỆT VẢI để tập trung lí giải cơ sở kinh nghiệm cho các ẩn dụ này, đồng thời xác định một số dấu ấn văn hoá hữu quan.
3.
Ta biết rằng trong quan điểm ngôn ngữ học tri nhận, một ẩn dụ ý niệm là kết quả của các ánh xạ từ một miền nguồn thường cụ thể hơn sang một miền đích trừu tượng hơn, nghĩa là người ta dùng ẩn dụ để hiểu các đối tượng trừu tượng thông qua các đối tượng cụ thể. Trong thơ Nguyễn Bính ta cũng thấy những ẩn dụ như vậy: những hình ảnh vốn quen thuộc như VIỆC DỆT VẢI (trong văn hoá nông nghiệp) và CHIẾC THUYỀN (trong môi trường sông nước) được tác giả dùng để nhận hiểu những đối tượng trừu tượng, khó nắm bắt hơn, đồng thời cũng biểu thị những thông điệp biểu cảm sâu sắc.
Sau đây chúng tôi sẽ tập trung phân tích và lí giải một số ẩn dụ xuất phát từ các miền nguồn vừa đề cập.
3.1. ĐỜI NGƯỜI LÀ CHUYẾN ĐI BẰNG THUYỀN
Trong Lakoff và Johnson (1980, 2003) ta thấy có ẩn dụ ý niệm CUỘC ĐỜI LÀ CHUYẾN HÀNH TRÌNH (LIFE IS A JOURNEY). Đây được xem là một ẩn dụ phổ quát, xuất hiện trong nhiều văn hoá. Ẩn dụ nguyên cấp này trong từng văn hoá khác nhau có những cách thức mở rộng, cụ thể hoá cấu trúc các ánh xạ đa dạng (như xét ở diện phương tiện ta có thể nói đến xe hơi, tàu hoả, xe ngựa, thuyền bè,…). Như vậy, dù cuộc đời luôn được xem như một chuyến hành trình thì chuyến đi này có thể rất khác nhau ở các phương tiện. Ta gọi ẩn dụ nguyên cấp và các ẩn dụ mở rộng từ nó như thế là các ẩn dụ đồng dạng (congruent metaphors).
Trong thơ Nguyễn Bính, bên cạnh phương tiện ngựa và tàu hoả thì chuyến hành trình có thể viện đến phương tiện là thuyền. Đối với người Việt, thuyền là một phương tiện gắn liền với ẩn dụ THUYỀN LÀ CON NGƯỜI, PHƯƠNG TIỆN LÀ CON NGƯỜI, GẦN GŨI PHƯƠNG TIỆN LÀ GẦN GŨI CON NGƯỜI,… Điều này là dễ hiểu bởi sinh hoạt của người Việt thường gắn liền với sông nước, trong đó ẩn dụ DÒNG SÔNG LÀ CUỘC ĐỜI có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong tâm thức cộng đồng. Việc ý niệm hoá cuộc đời như cuộc hành trình bằng thuyền đưa ra cho ta một mô hình tri nhận tương đối phong phú.
Miền nguồn: CHUYẾN ĐI BẰNG THUYỀN | → Miền đích: ĐỜI NGƯỜI |
Người khách đi thuyền Con thuyền Chuyến đi Giông bão, dòng nước Bến đỗ | → Người sống cuộc đời → Cuộc đời → Các sự kiện trong đời người → Khó khăn → Mục đích, tình trạng ổn định |
Ở mô hình này, người đàn ông sống cuộc đời “giang hồ” được ý niệm hoá như người đi trên chuyến đò. Mục đích của cuộc đời là bến sông mà người đi thuyền sẽ dừng lại. Dòng sông và dòng chảy của nước được xem là một bộ phận làm nền cho chuyến đi, giống như con đường mà trên đó người lữ khách đi bộ hay đi ngựa. Tuy vậy, con đường cũng có thể “gập ghềnh”, “quanh co” và tương tự sông có thể là “dòng nước cuốn” với đầy “gió lạnh sương sa nặng hạt” (Ngược xuôi). Hơn thế nữa, theo tự nhiên thì dòng chảy không chịu sự chi phối của con người. Ở đây vì thế mà sự bất ổn hay nơi tiềm ẩn nhiều biến cố trong đời người có thể được ý niệm hoá như dòng sông và dòng chảy của nước. Cách nhận hiểu này thể hiện rõ trong các biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ mà ta bắt gặp thường xuyên trong ngôn ngữ như “dòng sông định mệnh”, “dòng đời”, “trôi theo dòng đời”, “cuộc đời trôi nổi”.
Lược đồ 3.1: Lược đồ tri nhận của ẩn dụ ĐỜI NGƯỜI LÀ CHUYẾN ĐI BẰNG THUYỀN
Mỗi con người đều có những ý định riêng cho cuộc đời của mình, tương ứng với những hướng đích khác nhau của con thuyền. Như thể hiện trong lược đồ 3.1, có hai khả năng của ý chí tương ứng với hai hướng khác nhau của con thuyền: Mục đích của cuộc đời ở đây có thể rất khác nhau:
a. Con người chưa hay không có mục đích cho cuộc đời được nhận hiểu như con thuyền có hướng đi trùng với hướng chảy của nước. Vì con người không có mục đích nên ở trường hợp này không tồn tại một đích đến như bến đỗ hay bến sông. Kẻ lữ hành ở đây sẽ để cho dòng chảy tự do đưa thuyền đi, bỏ mặc mình cho số phận hay không chịu thoát ra khỏi thế giới phi thực. Nói cách khác, cuộc đời là vô định, không có hướng đích rõ ràng.
Ví dụ: “Buông sào cho nước sông trôi/ Bãi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ.” (Giấc mơ anh lái đò), “Lạy giời đừng sáng đêm nay/ Đò quên cập bến, tôi say suốt đời.” (Một con sông lạnh).
b. Con người có mục đích cho cuộc đời được nhận hiểu như con thuyền có hướng đi chệch khỏi hướng chảy của nước với đích là bến đỗ, dù có thể chỉ là tạm thời. Trong thơ Nguyễn Bính, cái đích – tình trạng ổn định trong cuộc sống có thể hiểu như việc cập bến của thuyền. Sự ổn định là bến đỗ hay bến sông, là nơi nương náu của con người trước những khó khăn trắc trở của cuộc sống.
Ví dụ: “Gió lạnh sương sa nặng hạt rồi/ Thuyền ta đậu lại bến này thôi.” (Ngược xuôi), “Riêng tôi thuyền bé con thuyền bé/ Cắm mãi sào đây đợi gió yên.” (Nàng Tú Uyên).
Trong thơ Nguyễn Bính, ở một số trường hợp thì dòng sông không được ý niệm hoá như nơi tiềm ẩn các bất trắc mà là “sông yêu”, “sông lương duyên”. Gắn liền với nó, các bài thơ này có bến sông tức mục đích của tình yêu được ý niệm hoá một cách chi tiết hơn thành hạnh phúc của tình yêu/ hôn nhân. Nói khác đi, tình yêu đã đến đích.
Ví dụ: “Sông yêu bốn cánh chèo khoan nhặt/ Cố đẩy đò yêu đến bến yêu.” (Đôi nhạn), “Sông bến lương duyên đò cắm chặt” (Chú rể là anh).
3.2. HÔN NHÂN LÀ CHUYẾN ĐÒ NGANG
Đò ngang là phương tiện di chuyển rất phổ biến ở vùng sông nước Việt Nam, nó giúp con người đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Người con gái đi lấy chồng được ý niệm hoá như người khách qua đò ngang. Những khó khăn, biến cố tiềm tàng trong hôn nhân vẫn được ý niệm hoá như dòng sông và dòng chảy của nước như trường hợp ẩn dụ CUỘC ĐỜI LÀ CHUYẾN ĐI BẰNG THUYỀN.
Miền nguồn: CHUYẾN ĐÒ NGANG | → Miền đích: HÔN NHÂN |
Người khách qua sông Con đò Chuyến đò Giông bão/ nước cuốn Đò chìm Bờ bên kia | → Người con gái lấy chồng → Tình trạng hôn nhân → Các sự kiện trong hôn nhân → Các khó khăn → Sự đổ vỡ của hôn nhân → Sự ổn định của hôn nhân |
Tuy vậy, dòng sông và dòng chảy còn được vận dụng để diễn tả sự cách trở, tức một khoảng cách địa lí – tinh thần không thể kéo gần hay vượt qua. Dòng sông ngăn cách hai bờ, nên hai miền bị chia cắt bởi dòng nước được hiểu như hai không gian tinh thần “nhà mình”/ “nhà chồng” tương phản nhau, ở đó phía bờ sông bên đây là không gian thân thuộc, còn bờ bên kia là không gian xa lạ. Đây là quan điểm của dân gian với lời ca dao “Phận gái mười hai bến nước/ Biết bến nào trong, biết sông nào đục”. Điều này tương ứng với quan điểm của Nguyễn Bính khi thơ ông phần lớn nhìn hôn nhân như nỗi bất hạnh của người con gái phải đi lấy người chồng mình không yêu, đi về nơi xa lạ “Lần đầu chị bước sang ngang/ Tuổi son sông nước đò giang chưa tường” (Lỡ bước sang ngang), có nghĩa là trải nghiệm về sông nước cũng là trải nghiệm về cuộc đời, để cho “Mười hai bến nước xa lăng lắc, / Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ” (Bao nhiêu đau khổ của trần gian trời để dành riêng…). Trong thơ ông ta bắt gặp nhiều câu có các biểu thức lấy nền tảng từ ánh xạ này:
Ví dụ: “Người ở bên kia sông cách trở/ Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân?” (Nhạc xuân); “Chuyến này chị bước sang ngang/ Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây.” (Lỡ bước sang ngang).
Trong cuộc hành trình này, đích đến (tức sự ổn định của hôn nhân) còn chưa xác định được, chưa có chuyện “Tình đã sang sông, đã tới bờ” (Vẩn vơ, Mùa đông đan áo), người con gái trong thơ Nguyễn Bính đã phải chịu nhiều đau khổ trong trong tiến trình trước và trong hôn nhân. Điều này được nhận hiểu qua các hình tượng “Đò đầy gió lớn sóng sông to” (Bao nhiêu đau khổ của trần gian trời để dành riêng…), “sóng gió ngang sông”, “trời dông bão” (Lỡ bước sang ngang)… làm cho “Chị tôi phấn úa hương mòn/ Đò ngang sông cái chẳng tròn chuyến sang” (Lại đi). Những trở ngại này có thể dẫn đến sự đổ vỡ hay những bất hạnh liên tiếp trong hôn nhân và chúng thường được nhận hiểu bằng hình tượng đò chìm: “giữa tràng giang lật thuyền”, “ngang sông đắm đò” (Lỡ bước sang ngang). Như vậy, bao trùm lên tất cả thì những sóng gió, dông bão trong hành trình sang sông cũng là những khó khăn, trắc trở trong hôn nhân, trong tình cảm gia đình.
Lược đồ 3.2: Lược đồ tri nhận của ẩn dụ HÔN NHÂN LÀ CHUYẾN ĐÒ NGANG
Ngang qua sông được tri nhận như có hướng di chuyển rất khác với hướng dòng chảy của sông, như lược đồ 3.2 thể hiện. Đắm đò là kết thúc cuộc hành trình một cách bất đắc dĩ. Người đắm đò không còn phương tiện di chuyển, tất yếu sẽ bị dòng nước cuốn theo hướng của nó. Và bị cuốn theo dòng nước nghĩa là không có điểm dừng, được hiểu như người con gái không bao giờ có được hạnh phúc và sự ổn định của hôn nhân. Phù hợp với hiện thực được tri giác vào đầu óc con người, ở đây sẽ có hai trường hợp xảy ra:
a. Người con gái lỡ dở tìm được người mới, được ý niệm hoá như khách đi đò được người giúp đỡ: “Ai nỡ quay đi không cứu vớt/ Lấy người tri kỉ đắm đò ngang” (Cầu nguyện). Có thể có những lần hôn nhân khác: “Qua đò mấy độ sầu sông nước” (Xuân vẫn tha hương), “Gái goá qua đò uổng tiết trinh” (Bước thêm bước nữa), “Người đã một lần sang sông” (Thư cho chị).
b. Người con gái lỡ dở trọn đời, được ý niệm hoá như khách đi đò bị nước cuốn đi: “Chị từ lỡ bước sang ngang, / Trời dông bão giữa tràng giang lật thuyền./ Xuôi dòng nước chảy liên miên, / Đưa thân thế chị tới miền đau thương.”, “Chị giờ sống cũng bằng không, / Coi như chị đã ngang sông đắm đò.” (Lỡ bước sang ngang).
Còn tiếp:
Mời xem: Dấu ấn VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM qua một số ẨN DỤ Ý NIỆM trong THƠ NGUYỄN BÍNH (Phần 2)