Dịch văn học phương Tây ở Sài Gòn – Gia Định trong buổi bình minh của văn học quốc ngữ (Phần 1)
ĐOÀN LÊ GIANG *
PHẠM THỊ TỐ THY **
(* PGS.TS. – Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
** ThS – Trường Đại học Trà Vinh)
Trong buổi bình minh của văn học quốc ngữ Latin (gọi tắt là “văn học quốc ngữ”), Sài Gòn – Gia Định có vai trò tiên phong, không chỉ ở phương diện sáng tác mà cả ở phương diện dịch thuật. Nếu không kể những bài giảng về cuộc đời chúa Jesus và truyện các Thánh được viết bằng chữ Nôm từ thế kỷ XVII, thì có thể nói Trương Minh Ký là dịch giả văn học phương Tây đầu tiên của nước ta. Mấy chục năm sau ông, ở Sài Gòn rộ lên một phong trào dịch và phóng tác văn học phương Tây ở hầu khắp mọi thể tài: Trần Chánh Chiếu về tiểu thuyết dã sử; Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh về tiểu thuyết xã hội, Nguyễn Chánh Sắt, Biến Ngũ Nhy về truyện trinh thám, Nguyễn Háo Vĩnh về kịch (văn học Anh), Trần Huy Liệu về văn học cách mạng… Văn học dịch ở Sài Gòn – Gia Định không chỉ phong phú về số lượng, đa dạng về thể tài mà còn có những đặc điểm riêng biệt, rất thú vị, làm giàu thêm cho kho tàng dịch văn học của nước nhà.
1. Các tác phẩm đăng báo và các dịch giả văn học phương Tây tiên phong ở Nam Bộ
Những bản dịch đầu tiên ở Gia Định báo
Người đầu tiên dịch văn học phương Tây ở nước ta là Trương Minh Ký với các dịch phẩm đăng trên Gia Định báo. Hiện Gia Định báo bị mất mát tàn khuyết nhiều, tạm thời có thể thống kê một số tác phẩm sau:
– Chuyện Phan Sa diễn ra quốc ngữ: gồm Truyện ngụ ngôn của La Fontaine (Fables de la Fontaine) và truyện của một số tác giả khác nữa như Fénelon, E. Schmid, J. Florian…, do Trương Minh Ký dịch, đăng trên Gia Định báo từ năm 1881 đến 1886.
– Phú bần diễn ca (Riche et Pauvre), Trương Minh Ký dịch, đăng trên Gia Định báo số 47 ngày 22.11.1884, đăng không liên tục kéo dài trong 2 năm 1884-1885.
– Télémaque (dịch từ Aventures de Télémaque/ Cuộc phiêu lưu của Télémaque của Fénelon, Pháp), Trương Minh Ký dịch, đăng trên Gia Định báo từ số 25 ngày 20.6.1885.
– Francinet, Trương Minh Ký dịch, truyện dịch đăng trên Gia Định báo, khởi đăng từ số 36, ngày 5.9.1885.
– Truyện Robinson của Daniel Defoe, đăng Gia Định báo số 6 ngày 24-4-1886.
– Cuối thế kỷ XIX còn có Trần Nguyên Hanh dịch Les conseils du Père Vincent (Gia huấn của lão Vincent).
Trương Minh Ký (1855-1900): Ông là nhà văn, nhà giáo, nhà dịch thuật và nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ ở Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Tham gia Ban Biên tập Gia Định báo, viết bài thường xuyên cho Gia Định báo và Thông loại Khóa trình. Công trình sáng tác, nghiên cứu và dịch thuật: trên 30 tác phẩm, đơn ngữ (Việt ngữ, Hán ngữ và Pháp ngữ) và song ngữ (Pháp – Việt, Hán – Việt, Pháp – Hán). Theo Bằng Giang, với những bản dịch truyện ngụ ngôn La Fontaine đăng trên Gia Định báo từ năm 1881 ông là “người mở đầu cũng là người giới thiệu nhiều nhất văn học Pháp ở Việt Nam”. Các dịch phẩm của ông có:
– Chuyện Phan Sa diễn ra quốc ngữ – Fables de la Fontaine (Truyện ngụ ngôn của La Fontaine), đăng trên Gia Định báo 1884-1885, sau đó in ở Nhà hàng C.Guilland et Martinon, S.1884, tái bản có bổ sung đầy đủ bởi Curiol, S.1886.
– Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ, Nhà hàng C. Guilland et Martinon xuất bản, S. 1884 – Gồm 12 mẩu truyện ngụ ngôn của nhiều tác giả khác nhau như Fénelon, E. Schmid, J. Florian… được dịch dưới hình thức văn xuôi, không có truyện ngụ ngôn của La Fontaine.
– Phú bần diễn ca (Riche et Pauvre), đăng trên Gia Định báo 1884-1885, sau đó Nhà hàng C.Guilland et Martinon xuất bản, S. 1885.
– Chuyện Télémaque gặp tình cờ (dịch từ Aventures de Télémaque/ Cuộc phiêu lưu của Télémaque của Fénelon, Pháp), đăng trên Gia Định báo 1885 (chỉ đề Télémaque), sách do Rey et Curiol xuất bản, S.1887.
– Francinet, truyện dịch đăng trên Gia Định báo khởi đăng từ số 36, năm 21, ngày 5.9.1885. Theo Bằng Giang (Văn học quốc ngữ Nam Kỳ), đây là truyện nhi đồng đầu tiên của nước ta.
Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898): Trương Vĩnh Ký là học giả, nhà văn quốc ngữ tiên phong. Bên cạnh những cố gắng chủ yếu của ông là sưu tầm, ghi chép văn học dân tộc và các vấn đề ngôn ngữ, học thuật khác, ông cũng có dịch và giới thiệu văn học phương Tây.
1. Trước hết phải kể đến tập Phong hóa điều hành/ Morale en actions (Impr. de la Mission à Tân Định xb., 1885, 185 trang). Đây là tâp sách sưu tập và dịch truyện cổ có tính chất giáo hóa của phương Tây, bên cạnh đó cũng có một số truyện cổ Trung Quốc, Nhật Bản và truyện thời Gia Long ở nước ta. Với 75 truyện, Phong hóa điều hành là tập truyện dịch vào loại dày dặn của nước ta. Trong Miscellanées (Thông loại khóa trình, từ số 2 (tháng 6 năm 1889) đổi thành Sự loại thông khảo) ông cũng có công bố 2 bản dịch: Chuyện vui (Chuyện khôi hài bên Tây) và Tích ông Esope.
2. Chuyện vui, khởi đăng từ số 2 năm 1888, họ Trương không đề nguồn dịch cũng như tác giả. Xin trích đoạn mở đầu: “Thuở xưa bên Âulaba (Tây) trong Nước Grécia có một người quân tử tên là Diogènes bữa kia đang đứng bóng (giữa ban ngày) thắp đèn đi giữa chợ đông, dường như xách đi tìm kiếm giống gì vậy. Người ta thấy vậy mới hỏi ổng chớ ổng kiếm gì vậy? Thì ông nói: Tôi kiếm người ta. Ông có ý cho người ta biết trong thành ấy phong hóa cang thường đã hư đi, không còn có ai đáng gọi là người ta nữa” (tr.4).
Bẵng đi rất lâu sau – một năm sau, đến số 2 (tháng 6/1889, Thông loại khóa trình được đổi thành Sự loại thông khảo) ông mới dịch và đăng tiếp Chuyện vui với tên mới là Chuyện khôi hài bên Tây. Đó là truyện Rượu xấu: “Có một người kia ưa uống rượu nho lắm, mà nó nói rượu nho có hai cái xấu rằng: như tôi pha nước vào thì tôi làm cho nó hư đi; mà như không pha, thì nó làm cho tôi hư đi” (tr.7). Chuyện khôi hài bên Tây liên tục được Trương Vĩnh Ký dịch và đăng 4 số sau đó, cho đến khi Miscellanées bị đình bản, đó là các số: Sự loại thông khảo số 3 (tháng 7/1889: “Có ông hoàng đế kia nguyên giận lão thầy coi thiên văn kia thì vua đòi mà ban hỏi va rằng: lão kia, mầy tưởng mày sẽ chết vì nghiệp gì?…”); số 4 (tháng 8/1889: “Người kia có 2 đứa con trai: một đưa hay ngủ nướng, còn một đứa siêng năng lắm hay thức dậy sớm luôn…”); số 5 (tháng 9/1889: “Có chú bếp ở trong đội lính hộ vệ vua Frédéric le Grand. Chú ấy hay làm tốt, mà lại là lính giỏi nữa…”); số 6 (tháng 10/1889: “Đầy tớ siêng năng. Ông Saint Germain nói với thằng đầy tớ ông rằng: Lạ này! Cái thằng này nó làm sao ấy mà! Hễ tao có đi đâu về, thì tao thường thấy mày ngủ hoài thôi! Nó thưa rằng: Lạy ông, chớ sao! Là cái tánh tôi không có ưa ở không”).
1. Tích ông Esope, khởi đăng từ số 1 (tháng 5 năm 1889). Xin trích đoạn mở đầu: “Ông Esope là người xứ Phrygia, sanh ra 200 năm sau khi khai sáng thành Rôma. Trời sinh ra cũng dị: sinh ra người có thiên tư trí huệ tót chúng, mà hình dáng mặt mũi ô dề xấu xa, coi gần không ra hình tượng người ta, lại cho ngọng lịu nói không có sửa. Dầu chẳng phải số phận làm tôi mọi thì cũng không khỏi làm tôi mọi…” (tr.12).
Sau đó truyện liên tục được đăng ở 3 số sau: Sự loại thông khảo số 2 (tháng 6/1889): “Ông Xantus có một người vợ, ý ở khó lắm…”; số 3 (tháng 7/1889), Tích ông Esope (tiếp theo): “Chủ tuy đổi mà phận nào có đổi? Ở nơi chủ mới có anh Zénas coi việc đó và xem sóc các tôi mọi…”; số 4 (tháng 8/1889), Tiếp theo tích ông Esope: “Bữa kia ông Xantus có ý muốn mời đãi anh em bạn một bữa cho tử tế thì biểu Esope đi chợ lựa cái gì tốt hơn hết thì mua mà dọn, đừng có mua giống gì khác nữa làm chi, Esope tính là trẹo chơi, vậy chú va đi chợ tinh mua những lưỡi đem về, thứ nấu thế nầy, thứ nấu thế kia mà cũng lưỡi cả…”.
Có thể nói Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên dịch truyện cười phương Tây cũng như truyện ngụ ngôn Esope ở nước ta.
Huỳnh Tịnh Của (1830-1908): Huỳnh Tịnh Của là nhà từ điển học, nhà báo, nhà biên khảo văn học dân gian. Tuy nhiên ông cũng có dịch văn học phương Tây trong tập truyện Chuyện giải buồn (2 cuốn).
Chuyện giải buồn (Rút trong các sách hay, để giúp trong các trường học cùng những người học tiếng An Nam), có tài liệu cho rằng in lần thứ nhất năm 1880(1), chúng tôi chỉ có bản in lần thứ 2, Sài Gòn, 1886, Tập 1: 100 tr, Tập 2: 96 tr. Chuyện giải buồn – cuốn sau, in lần đầu năm 1886.
Chuyện giải buồn tập 1, tập hợp 68 truyện cổ Trung Quốc, Việt Nam. Chuyện giải buồn – cuốn sau tập hợp thêm 51 truyện nữa, chủ yếu là truyện cổ Trung Quốc, Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh đó Huỳnh Tịnh Của cũng dịch thêm một truyện phương Tây. Đó là truyện số 9 có nhan đề là Truyện hay: “Thuở xưa nước Rôma giàu mạnh, nhứt thống cả phương Tây cũng như Trung Quấc nhứt thống cả phương Đông. Các vua đời ấy thường ngự giá thân chinh, đánh đông dẹp bắc, thiên hạ đều phục tùng. Có một ông hoàng đế đồng binh thuyền, ngự đi đánh phương Nam. Tiền đạo bắt đặng một đảng ăn cướp biển, dẫn đầu đảng đi nạp…”. Huỳnh Tịnh Của không cho biết dịch hay sưu tầm ở đâu, bằng tiếng gì, của ai. Yếu tố ngoại lai duy nhất mà chúng tôi nghĩ là truyện dịch đó là bối cảnh “Rôma” của câu chuyện.
2. Dịch và phóng tác văn học phương Tây ở Sài Gòn-Gia Định đầu thế kỷ XX
Trần Chánh Chiếu (1867 – 1919): Ông là nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động duy tân. Ông cũng là một trong những dịch giả văn học Pháp tiên phong. 2 tiểu thuyết dịch nổi tiếng của ông là:
Tiền căn báo hậu – Công tước Mông-tê Cà-rit-tô sự tích (Alexandre Dumas cha soạn), đăng trên Lục tỉnh tân văn, 1907, bút hiệu: Kỳ Lân Các, Imp.de l’Union, nhà in Nguyễn Văn Của, 1914, Impr. l’Union, Sài Gòn, 1914-1915, 8 tập đóng chung thành một cuốn;
Ba người ngự lâm pháo thủ (phỏng dịch Les trois mousquetaires) đăng trên Lục tỉnh tân văn, từ số 269 (10/4/1913) đến số 338 (13/8/1914)
Lê Hoằng Mưu (1879 – 1942): Là nhà văn táo bạo với nhiều đột phá mới mẻ, là nhà báo, chủ bút của những tờ báo lớn như Nông cổ mín đàm (1912, 1915), Lục tỉnh tân văn, Long Giang độc lập (1930, 1931), Công luận báo. Ông cũng là một trong những dịch giả tiên phong. Các tác phẩm văn học mà ông dịch có: kịch thơ Rocambole Tome V. Les drames de Paris của A. Dumas năm 1912; Vi Lê giết vợ, Tiểu thuyết, dịch từ truyện Nga (Nông cổ mín đàm từ số 74 (25/11/1915) đến số 79 (30/12/1915)…
Hồ Biểu Chánh (1885 -1958) : Hồ Biểu Chánh là nhà văn cự phách của văn học Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Ông viết rất nhiều, cả đời sáng tác của ông có lẽ có đến trên dưới 60 quyển tiểu thuyết. Trong các tiểu thuyết của ông, nhất là giai đoạn đầu có nhiều cuốn phóng tác từ những tiểu thuyết phương Tây, đa số là Pháp, như ông đã kể trong Đời văn nghệ của tôi gồm có 12 tác phẩm:
STT | Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh | Phóng tác từ | Của nhà văn |
1 | Chúa tàu Kim Quy | Le comte de Monté Cristo (Bá tước Monté Cristo) | Alexandre Dumas |
2 | Cay đắng mùi đời | Sans Famille (Không gia đình) | Hector Malot |
3 | Chút phận lênh đênh | En Famille (Trong gia đình) | Hector Malot |
4 | Thầy thông ngôn | Les Amours d’Estèves | André Theuriet |
5 | Ngọn cỏ gió đùa | Les Misérables (Những người khốn khổ) | Victor Hugo |
6 | Kẻ làm người chịu | Les deux gosses | Pierre Decourselle |
7 | Vì nghiã vì tình | Fanfan et Claudinet | Pierre Decourselle |
8 | Cha con nghĩa nặng | Le calvaire | Pierre Decourselle |
9 | Ở theo thời | Topaze | Marcel Pagnol |
10 | Ông cử | L’Artiste | Không rõ |
11 | Đóa hoa tàn | Le Rosaire | Octave Mirbeau |
12 | Người thất chí | Crimes et Châtiment (Thằng ngốc) | Fédor Dostoevski |
Nguyễn Chánh Sắt (1869 – 1947): Nguyễn Chánh Sắt là nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Nam Kỳ trước 1945. Từ thập niên 1910 ông đã dịch một số tiểu thuyết Pháp mà tập trung là tiểu thuyết trinh thám đăng trên Nông cổ mín đàm – tờ báo duy tân kinh tế đầu tiên của Nam Kỳ, ra số đầu vào đúng năm đầu tiên của thế kỷ XX (1901): Mười lăm năm một chữ tình, Nguyễn Bá Nghiêm, tiểu thuyết Langsa diễn ra quốc âm, Nông cổ mín đàm số 25 (19-7-1917) – Số 29 (23-8-1917); Trinh thám tiểu thuyết (Nguyễn Bá Nghiêm diễn nôm) Nông cổ mín đàm số 92 (12-12-1918) kết thúc; Trinh thám tiểu thuyết (truyện mới) (Nông cổ mín đàm từ số 79 (tháng 9/ 1918) đến số 85 (tháng 10/1918).
Nguyễn Háo Vĩnh (1893 – 1941): Nhà hoạt động duy tân, từng sang Nhật theo phong trào Đông du. Bị trục xuất khỏi Nhật năm 1908, ông lui về Hongkong học trường Saint Jesyh. Tốt nghiệp, sang Anh với ý định tìm gặp Cường Để, nhưng gặp được thì ông thất vọng trở về nước sau hơn 10 năm xuất dương. Về nước làm báo, chủ nhà in. Ông là dịch giả dịch văn học Anh vào loại đầu tiên nước ta (sau người dịch Truyện Robinson trên Gia Định báo 1886). Ông chỉ dịch chuyên về bi kịch và hài kịch của W.Shakespeare: Chú lái buôn thành Venise, Nam Phong tạp chí tập IV, số 21, 3/1919, in thành sách với nhan đề Chuyên rút trong bổn tuồng “Le Marchand de Venise” của W.Shakespeare, do Nhà in Xưa Nay, SG, 1930; Vậy thì vậy, chuyện rút trong bổn tuồng Asyon like của văn hào Ừng lê có danh tiếng lớn nhất trong thế giới tên là William Shakespeare, Sài Gòn, Nhà in Xưa nay, 1927. Ông có dịch hai vở bi kịch: Thái tử Hamlet và Romeo Juliet, hiện chưa tìm được.
Phan Thị Bạch Vân (1903-1980): Phan Thị Bạch Vân (Hoàng Thị Tuyết Hoa) là nhà văn, nhà báo yêu nước, nhà hoạt động nữ quyền nổi bật ở Nam Bộ trước 1945. Bà dịch một số sách về các tấm gương phụ nữ yêu nước và cách mạng Trung Quốc và châu Âu, trong đó có tác phẩm: Gương nữ kiệt (tiểu sử bà Roland, nữ kiệt thứ nhứt châu Âu, Phan Thị Bạch Vân, Nữ Lưu Thơ Quán Gò Công, Gò Công, in lần thứ nhứt, Nhà in Bảo Tồn, 1928, Sách bị cấm).
Bà chủ trương bộ Tinh thần phụ nữ (Nữ lưu thơ quán Gò Công xuất bản được 8 số vào 1929), có thể coi như tạp chí phụ nữ đầu tiên của nước ta (mà báo phụ nữ đầu tiên Nữ giới chung do Sương Nguyệt Anh làm chủ bút). Trên Tinh thần phụ nữ, Phan Thị Bạch Vân đã giới thiệu một cách có hệ thống học thuyết Darwin (Học thuyết và lược truyện ông Đạt Nhĩ Văn (Darwin), khởi đăng từ tập 1/ 1929), tư tưởng của Montesquieu (Học thuyết của Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Nguyễn Thị Đan Tâm dịch thuật, khởi đăng từ tập 2/ 1929).
Nguyễn An Ninh (1900 – 1943): Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng, nhà văn, nhà báo. Ông đã từng dịch và giới thiệu những tác phẩm kinh điển của các nhà khải mông chủ nghĩa, các lãnh tụ cộng sản như: Dân ước, dân quyền, dân đạo (dịch); Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền; Bản Tuyên ngôn cộng sản đăng trên các báo: La Cloche Fêlée (Chuông rè), Trung lập, La Lutte, Đuốc nhà Nam…
Trần Huy Liệu (1901 – 1969): Ông là nhà cách mạng, nhà văn, dịch giả. Năm 1924 ông vào Sài Gòn, hoạt động rất mạnh trong làng văn, làng báo Sài Gòn với tư cách là một nhà yêu nước. Ông 1928 ông thành lập Cường học thư xã chuyên xuất bản loại sách tuyên truyền cho tư tưởng yêu nước – cách mạng. Có thể kể các tác phẩm dưới đây:
– Anh hùng yêu nước : Ông Nạp Nhĩ Tôn (Nelson) / Lâm Vạn Lý, Trần Huy Liệu dịch, In lần thứ 1, Sài Gòn, Impr. Đức Lưu Phương, 1928, (Cường học Thư xã: Giữ đạo đức, mở tri thức, chấn tinh thần)
– Gương phục quốc (Ý Đại Lợi tam kiệt): Truyện ba vị Anh kiệt dựng nước Ý Đại Lợi (Italia), Lương Khải Siêu viết, Trần Huy Liệu dịch, In lần thứ 1, Sài Gòn, Impr. Thạch Thị Mậu, 1928, (Cường học Thư xã)
– Hiến thân cho nước: Truyện ông Cát Tô Sĩ Louis Kossuth, Lương Khải Siêu viết, Trần Huy Liệu dịch, Sài Gòn, Impr. Thanh Thị Mậu, 1928, (Cường học Thư xã)
– Tân quốc dân, Trần Huy Liệu, Đào Khắc Hưng dịch, In lần thứ 1, Sài Gòn, Nhà in Tam Thanh, 1928 , (Cường học Thư xã)
– Tân quốc dân, Trần Huy Liệu dịch, In lần thứ 1, Sài Gòn, Nhà in Thạch Thị Mậu, 1929, (Cường học Thư xã)
– Thần Cộng hoà: Sái Ngạc, Trần Huy Liệu biên dịch, In lần thứ 1, Sài Gòn, Impr. Đức Lưu Phương, 1928 (Cường học Thư xã).
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2018, ISSN 1859-2856, tr.56-69
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Mời xem tiếp:
Dịch văn học phương Tây ở Sài Gòn – Gia Định trong buổi bình minh của văn học quốc ngữ (Phần 2) – Một vài đặc điểm văn học dịch phương Tây ở Sài Gòn-Gia Định