Hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản người Việt ở Nam Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914
BUSINESS PRODUCTION ACTIVITIES OF VIETNAMESE BOURGEOIS
IN NAM KY FROM THE EVE OF THE 20TH CENTURY TO 1914
Tác giả bài viết: NGUYỄN VĂN PHƯỢNG
(Khoa Lịch sử, Trường Đại học Quy Nhơn)
TÓM TẮT
Nội dung bài viết đi sâu tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản người Việt ở Nam Kỳ trên từng lĩnh vực kinh tế cụ thể giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914. Từ đó, nêu bật những hình thức sản xuất kinh doanh mà tư sản người Việt ở Nam Kỳ sử dụng có nét gì khác so với các khu vực khác của Việt Nam cùng thời kỳ.
Từ khóa: Tư sản người Việt, Nam Kỳ, sản xuất kinh doanh.
ABSTRACT
This article is to examine the business production activities of Vietnamese bourgeois in Nam Ky in specific economic sectors from the beginning of the 20th century to 1914. Since then, the article highlights the methods of business production which Vietnamese bourgeois in Cochinchina applied, thus leading to the differences from those in other parts of Vietnam in the same period.
Keywords: Vietnamese bourgeois, Nam Ky, business production.
x
x x
1. Dẫn nhập
Ở đầu thế kỷ XX điều kiện quốc tế cũng như trong nước cho sự ra đời của tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã xuất hiện. Chủ nghĩa tư bản cùng với ý thức hệ của nó trở thành hệ thống thế giới. Làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đã lôi cuốn những nước phong kiến lạc hậu, trong đó có Việt Nam vào quỹ đạo của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính sách thống trị của thực dân Pháp vô hình dung đã phá vỡ kết cấu kinh tế cổ truyền, thúc đẩy kinh tế hàng hóa mở rộng và xuất hiện lớp người lao động làm thuê. Trên cơ sở đó, bộ phận tư sản người Việt ở Nam Kỳ ra đời.
Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914, tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã có những hoạt động sản xuất kinh doanh và cổ động làm ăn theo lối tư bản chủ nghĩa khá sôi nổi. Lĩnh vực kinh doanh tuy chưa rộng nhưng đã tỏ ra có hiệu quả nhờ vào sự sáng tạo trong quá trình kinh doanh. Họ không ngừng vươn lên và từng bước khẳng định vai trò, vị thế của mình, trên cơ sở đó góp phần vào phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ nói riêng, Việt Nam nói chung trong những năm đầu thế kỷ XX.
2. Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
2.1. Lĩnh vực công nghiệp và thủ công nghiệp
Chính sách hạn chế phát triển công nghiệp bản xứ của thực dân Pháp lẽ tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp của tư sản người Việt. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy, tư sản người Việt ở Nam Kỳ muốn phát đạt trong lĩnh vực này không dễ dàng. Ngay từ những năm đầu chiếm đóng Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý ngăn cản tư sản người Việt ở Nam Kỳ thành lập xí nghiệp, công ty lớn, có khả năng cạnh tranh với các công ty của tư sản Pháp. Mặc dù chính sách chèn ép công nghiệp Việt Nam của thực dân Pháp là thường xuyên và đầy tính toán, nhưng một số tư sản người Việt ở Nam Kỳ không chịu thoái lui, một khi có điều kiện thuận lợi lập tức họ tìm cách bước vào kinh doanh các ngành công nghiệp phù hợp với điều kiện vốn có, đồng thời chuyển đổi phương thức kinh doanh trong các ngành thủ công nghiệp. Do đó, những năm 1900 – 1914, xuất hiện một số tư sản hoạt động trong lĩnh vực thủ công nghiệp và công nghiệp với các nghề xay xát gạo, dệt, gốm sứ, gạch ngói…
Đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ nghề dệt tơ tằm khá phát triển, tiêu biểu ở các địa phương như: Bến Tre, Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Gia Định, Long Xuyên, Tân Châu (Châu Đốc). Tân Châu là một trong những trung tâm tơ tằm quan trọng nhất Nam Kỳ, có các nhà tư sản Nguyễn Đình Long, Lê Văn Năm, Trần Minh Tiến… Quanh vùng Tân Châu có nhiều làng nghề tơ tằm như Long Phú, Tân Long Thuận, Long Khánh, Thương Lới, Cù Lao Ma. Theo thống kê, có đến 300 héc ta đất trồng dâu trong vùng này. Tại Tân Châu đã xây dựng hai bể ươm tơ. Một bể ươm tơ mảnh để xuất khẩu, một bể ươm loại tơ cứng để dệt lụa bản xứ và dệt lụa bằng sợi tơ nguyên chất. Tại đây, còn xây dựng hai lò kéo sợi, mỗi lò có 2 bếp và 4 nồi theo kiểu Bắc Kỳ (hệ thống đun nóng rẻ tiền hơn cách đun nóng ở địa phương) [10].
Một số nghề thủ công khác như gạch ngói, gốm, xẻ gỗ, nghề nước mắm, nấu rượu, nấu đường… cũng phát triển. Nhiều cơ sở gạch ngói tập trung ở vùng Chợ Lớn, Mỹ Tho, Sa Đéc, Châu Đốc, Rạch Giá, Tây Ninh, Bà Rịa, Long Xuyên. Điển hình có cơ sở gạch, ngói của Nguyễn Văn Hậu, Lê Đạo Ngạn và Trần Kim Kỳ ở Mỹ Tho [9, tr. 213]. Ở Cây Mai (Chợ Lớn) có 12 xưởng gốm của các ông như Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Văn Hà, Lê Tấn,… Nghề làm nước mắm ở tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên – Rạch Giá,… Nghề chế biến đường trắng ở Cần Thơ, Vĩnh Long, Tây Ninh, Bến Tre,… Nghề nấu rượu phổ biến ở các tỉnh Biên Hòa, Bình Phước, Gò Công, Thủ Dầu Một… Ngoài ra, có nghề dệt chiếu, đan lát, đan nón ở các tỉnh An Giang, Châu Đốc, Vĩnh Long.
Hưởng ứng phong trào Duy Tân, một số tư sản như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương, Nguyễn Thành Út,… đứng ra lập cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp. Đầu năm 1908, nghiệp chủ Trần Chánh Chiếu thành lập Nam Kỳ Minh Tân công nghệ, kinh doanh chủ yếu ở lĩnh vực dệt vải, dệt hàng lụa, làm phaly, savon, thuộc da, đóng giày [9, tr. 197].
Mặc dầu thực dân Pháp thực hiện chính sách chèn ép công nghiệp Việt Nam nhưng một số tư sản người Việt ở Nam Kỳ không chịu khuất phục. Khi thực dân Pháp đem hàng hóa vào Việt Nam bán kiếm lời, họ cũng đưa vào một số công cụ sản xuất, máy móc sản xuất, động cơ điện, nồi súpde,… Những công cụ sản xuất này phần lớn cung cấp cho những xí nghiệp của tư sản Pháp, nhưng một số tư sản Việt Nam đã mua lại một phần và đưa vào sản xuất, làm xuất hiện một số cơ sở công nghiệp có tính chất cơ khí. Theo thống kê của Nguyễn Công Bình, ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, có nhà máy in của Trần Chánh Chiếu, Đinh Thái Sơn; nhà máy xay gạo của Nguyễn Thanh Liêm, xưởng ép dầu của Trương Văn Bền, xưởng xà phòng của Trần Chánh Chiếu [2].
Nhà tư sản Trương Văn Bền mở xưởng ép dầu trong những năm 1906 – 1907. Ban đầu ông bán đậu phộng, đậu xanh và đường trong một cửa tiệm nhỏ ở Chợ Lớn, qua quá trình tích lũy vốn và kinh nghiệm ông tiến đến mở xưởng ép dầu ở Thủ Đức. Xưởng ép dầu của ông dùng máy toàn bằng gỗ với số vốn ban đầu là 3.000 đồng. Một năm sau, Trương Văn Bền đầu tư thêm 12.000 đồng mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các, mỗi ngày xay được 40 – 50 tấn gạo [8]. Xưởng ép dầu của ông làm ăn phát đạt trong giai đoạn tiếp theo.
Trong công nghiệp chế biến xà phòng, tháng 9/1908, xà bông Con Vịt do Công ty Nam Kỳ Minh Tân công nghệ của Trần Chánh Chiếu sản xuất được thị trường ưa chuộng. Xà bông Con Vịt tốt hơn xà bông của người Hoa rất nhiều. Bán giá tùy theo hạng, “hạng nhứt một cục 200 grammes 4 chiêm, hạng nhì một cục 3 chiêm và hạng ba một cục 2 chiêm” [9, tr. 197 – 198]. Nhờ những hiệu quả bước đầu cùng với sự nhạy bén trong kinh doanh của Trần Chánh Chiếu nên Nam Kỳ Minh Tân công nghệ làm ăn khá phát đạt, số người mua cổ phần ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, cuối tháng 10/1908, Trần Chánh Chiếu bị bắt, công ty ngưng hoạt động và giải tán.
Trong ngành xay xát gạo, xuất hiện nhiều nhà máy xay ở các tỉnh Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Xuyên, Rạch Giá, Vĩnh Long,… Điển hình nhất phải kể đến nhà máy của Nguyễn Thanh Liêm. Năm 1911, nhà tư sản này thành lập xưởng xay lúa ở An Hóa (Mỹ Tho), mỗi giờ xay được 8 tấn gạo. Tuy nhiên, gạo vẫn không đủ bán. Năm 1913, ông tiếp tục mua thêm máy lớn, mỗi giờ xay được 20 tấn, cơ sở của ông tiếp tục phát triển trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất [6].
Trong ngành in ấn có công ty in Sài Gòn (hay còn gọi là công ty Nhàm) thành lập năm 1907. Công ty do ông Pierre Jeantet làm Chánh tổng lý và ông Trần Chánh Chiếu làm Phó Tổng lý. Hoạt động chủ yếu của công ty là in nhật trình, sách vở, các loại ấn chỉ, in công việc cho quan làng và cho những người bán sách. Công ty gồm 15 phần hùn, mỗi phần hùn 24 đồng, góp mỗi tháng 2 đồng, 12 tháng thì đủ bạc hùn với số vốn là 36 ngàn đồng [5, tr. 74]. Tuy nhiên, cuối tháng 10/1908, Phó Tổng lý Trần Chánh Chiếu bị bắt, công ty ngưng hoạt động và giải tán.
Ngoài ra, trong ngành in ấn còn có sự tham gia của nhà tư sản Đinh Thái Sơn. Ông thành lập nhà máy in ở Sài Gòn năm 1908. Vốn xuất thân từ một người học việc ở nhà in thuộc nhà thờ Tân Định, qua quá trình tích lũy kinh nghiệm ông đứng ra tự lập một nhà in lấy tên là Phát Toán. Với việc làm ăn phát đạt ông lại tiếp tục mua thêm nhà để khai trương ấn quán mới lấy tên là Đồng Hiệp ấn thư cuộc. Cơ sở thứ hai có thêm sự giúp sức của Nguyễn Văn Viết. Sự phát đạt trong kinh doanh của hai ông tiếp tục giữ thế độc tôn trong suốt thời kỳ sau này.
Như vậy, mặc dù thực dân Pháp thực hiện chính sách hạn chế phát triển công nghiệp nhưng số lượng tư sản người Việt tham gia kinh doanh trên lĩnh vực này khá đông. Điểm đặc biệt là ngay từ đầu thế kỷ XX, tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã tham gia vào những ngành công nghiệp có tính chất hiện đại, như công nghiệp in ấn, chế biến xà phòng; đồng thời áp dụng máy móc và phương thức tổ chức sản xuất hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh với tư sản nước ngoài.
2.1.2. Lĩnh vực nông nghiệp
Đối với Việt Nam, nông nghiệp luôn là đối tượng quan tâm hàng đầu của nhà nước, dưới thời phong kiến độc lập hay thời thuộc địa đều như vậy. Trong lịch sử khai thác thuộc địa, đất đai luôn là mục đích hàng đầu của thực dân. “Theo sau những tên lính xâm lược là những nhà thực dân nông nghiệp” và “tiếp nối giai đoạn chinh phục bằng quân sự là giai đoạn khai thác đất” [15]. Nhưng phải đến khi thực dân Pháp chiếm được toàn bộ Việt Nam thì vấn đề khai thác nông nghiệp mới được hoạch định rõ ràng.
Với tinh thần trên, ngày 28/9/1897, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định mở rộng diện tích áp dụng quyền sở hữu cá nhân ruộng đất ra toàn lãnh thổ. Điều khoản trên mở đường cho tư sản Pháp chiếm hàng loạt ruộng đất của người nông dân Nam Kỳ. Đồng thời, nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất cảng nông phẩm, thực dân Pháp cho không hoặc bán rẻ những khu đất hoang cho lực lượng tay sai, quan lại, công chức giàu có. Lẽ dĩ nhiên, chính sách đó của thực dân Pháp làm xuất hiện những nhà tư sản kinh doanh trong nông nghiệp. Từ năm 1911, tư sản người Việt bỏ vốn ra khai thác tới 20 ngàn mẫu tây đất Nam Kỳ, để thành lập những đồn điền rộng từ 10 đến 3 ngàn mẫu tây. Số người xin mở đồn điền dưới 10 mẫu tây có rất nhiều. Khi đó, đất đai ở vùng trung tâm Nam Kỳ như Bến Tre, Vĩnh Long, Chợ Lớn hầu như đã khai khẩn hết, nhiều người lại chuyển về thành lập những đồn điền ở vùng Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng,… Các đồn điền chủ yếu trồng lúa và cao su, tập trung ở Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng,… Tiêu biểu có đồn điền trồng lúa của Trương Văn Bền rộng 17 ngàn héc ta ở Thủ Đức thành lập 1914; đồn điền 30 ngàn cây cao su của Lê Phát An; đồn điền 30 ngàn cây cao su và 110 ngàn héc ta ruộng muối của Trần Trinh Trạch [11]; đồn điền 12 ngàn héc ta cao su của Nguyễn Tấn Sử ở Biên Hòa. Vốn bỏ vào lập đồn điền, thuê mướn nhân công của điền chủ Nam Kỳ lớn. Theo con số của Pôn Bôna đưa ra năm 1900 trong công trình Vấn đề kinh tế Đông Dương là 5 triệu đồng [3].
Các điền chủ có xu hướng mua ruộng đất đem phát canh thu tô hơn là bóc lột theo hướng tư bản chủ nghĩa. Do đó, về hình thức kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, nhưng lối bóc lột trong đó vẫn là phát canh thu tô. Đúng như Đờ Lanétsăng từng viết: “Chế độ canh tác có lợi về mặt kinh tế nhất và là một chế độ chắc chắn nhất cho việc trồng trọt các loại cây cơ bản cũng như các loại cây công nghiệp, theo tôi, dường như đó là chế độ phát canh thu tô đối với người dân An Nam”. Hơn thế nữa: “Chế độ phát canh thu tô còn đưa lại một lợi ích to lớn nữa đó là nó giảm một phần vô cùng lớn những chi phí chung và những chi phí về giám sát của các nhà thực dân người Âu, những chi phí này lại lớn hơn rất nhiều so với ở nước Pháp” [15]. Chính lợi ích của hình thức canh tác này quy định diện tích phát canh thu tô chiếm 63% diện tích cấy lúa ở Nam Kỳ. Sự tập trung ruộng đất vào trong tay tư sản người Việt với địa tô nặng nề từ 50% – 80% hoa lợi, dẫn tới hiện tượng mỗi năm họ nắm trong tay nhiều lúa gạo. Điều đáng chú ý, khi có số vốn nhất định, tư sản người Việt đầu tư mua thêm ruộng đất, lập đồn điền mới. Điển hình như trường hợp nhà tư sản Trần Trinh Trạch. Ở tỉnh Bạc Liêu, ông có tổng cộng 13 lô ruộng muối, thì Trần Trinh Trạch nắm giữ 11 lô; ông còn làm chủ 74 sở điền, 110 ngàn héc ta đất trồng lúa. Do đất đai mênh mông, không bị chia khoảnh vụn vặt nên Công tử Bạc Liêu (con thứ ba của ông Trạch) dùng ca nô đi thăm ruộng [11].
Một số tư sản người Việt khi thành đạt trong lĩnh vực nông nghiệp lại mở rộng sang kinh doanh lĩnh vực khác như: mở xưởng xay gạo, xưởng cưa, xưởng dệt, lập hội buôn… Điển hình là các nhà tư sản Trương Văn Bền mở xưởng ép dầu; Trần Trinh Trạch lập hội buôn lúa gạo; Nguyễn Thanh Liêm mở xưởng xay xát và lập hội buôn lúa gạo…
Hoạt động kinh doanh đồn điền của cả tư sản người Việt cùng với chính sách khai thác, bóc lột của thực dân Pháp tác động lớn đến nền nông nghiệp Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Tạo nên bước chuyển biến căn bản cho nền nông nghiệp Nam Kỳ trên cả ba mặt: diện tích canh tác, năng suất và sản lượng thu hoạch. Tuy nhiên, phương thức canh tác và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp còn nhiều lạc hậu, thấp kém.
2.1.3. Lĩnh vực thương nghiệp
Thương nghiệp là một trong những lĩnh vực hoạt động mạnh và đạt nhiều thành tựu của tư sản Người Việt. Tầng lớp thương nhân so với trước thời Pháp thuộc có đông đảo hơn và hoạt động trên phạm vi thị trường rộng lớn, nhiều người buôn lãi lớn và tích lũy được nhiều của cải. Ở Sài Gòn, Chợ Lớn – trung tâm buôn bán của Nam Kỳ, năm 1866 có 40 ngàn dân thì hầu hết là nhà buôn và thợ thủ công, nhưng chưa có nhà buôn bán lớn. Đến năm 1881, có 19 nhà buôn lớn thì có 3 nhà nộp môn bài hạng nhất, 16 nhà buôn nộp hạng hai và hạng ba [2].
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều tư sản nắm bắt được cơ hội kinh doanh đã mạnh dạn bỏ vốn lập công ty bao mua sản phẩm để cung cấp cho các hãng xuất khẩu. Ở Nam Kỳ, có những thương nhân buôn tơ lụa, chiếu, gốm, gạch ngói, nước mắm từ các tỉnh miền Đông về bán ở Sài Gòn, Chợ Lớn,… Đặc biệt, trong lĩnh vực buôn bán nông sản có khá nhiều hội buôn kinh doanh phát đạt. Tiêu biểu như hiệu buôn lúa gạo của Nguyễn Thanh Liêm. Năm 1913, ông mua máy xay xát gạo loại lớn, với số lượng gạo xay ra lớn, ông lập cơ sở buôn bán gạo ở các khu vực Mỹ Tho, Châu Đốc, Sa Đéc. Hội buôn Nam Kỳ thương cuộc do Trần Văn Thạnh thành lập ở Chợ Gạo (Mỹ Tho). Hội buôn này không chỉ lập cơ sở buôn lúa gạo để trực tiếp xuất khẩu kiếm lời mà còn tổ chức mô hình kinh doanh mới như một “siêu thị” thời hiện đại. Trong “siêu thị” này, buôn bán nhiều mặt hàng nông sản như gạo, ngô, chè, lạc, bông vải sợi, hàng kim khí, hương liệu… [5, tr. 75].
Nét nổi bật trong kinh doanh thương nghiệp ở Nam Kỳ là sự xuất hiện một số công ty với sự góp vốn của nhiều người. Tiêu biểu phải kể đến Mỹ Tho Minh Tân Túc mễ Tổng cuộc. Công ty này thành lập năm 1905, chuyên thu mua lúa, có trụ sở tại Mỹ Tho. Vốn điều lệ của công ty là 1 triệu đồng, mỗi phần hùn 1 đồng không được hùn dưới 10 phần. Có sự góp vốn của 25 thương nhân, đa số là người tỉnh Mỹ Tho, mỗi người hùn vốn sẽ được một quyển điều lệ và được cấp biên lai làm bằng chứng. Công ty do Trần Văn Hài phụ trách. Sau một thời gian hoạt động, có một số người góp vốn thêm 500 đồng, và lúc này hoạt động của công ty mở rộng ra các tỉnh Sa Đéc, Cần Thơ, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long, thậm chí buôn bán với ngoại quốc. Đến năm 1908, công ty ngưng hoạt động.
Sự phát triển mạnh của thương nghiệp ở Nam Kỳ còn thể hiện ở sự cạnh tranh giữa tư sản người Việt với tư sản nước ngoài. Đầu thế kỷ XX, hoạt động của một số công ty, hội buôn lúa gạo ở Nam Kỳ ảnh hưởng đến quyền lợi của tư sản Pháp và Hoa kiều. Khi thực dân Pháp thực hiện chính sách vơ vét lúa gạo xuất khẩu kiếm lời, một bộ phận tư sản người Việt ở Nam Kỳ nắm bắt cơ hội kinh doanh, lập công ty, hội buôn lúa gạo, cạnh tranh quyết liệt với tư sản Pháp. Như lời lo ngại của Toàn quyền Đông Dương: “Không thể nào bỏ qua mà không chú ý rằng các điền chủ An Nam ở Nam Kỳ đã có xu hướng khá rõ rệt là giữ giá lúa ngay từ đầu mùa. Điều này chứng tỏ người bản xứ khôn ngoan hơn trước trong việc buôn bán, nhưng họ không nên làm quá… Bởi vì làm như thế trở ngại đến việc xuất khẩu của chúng ta” [1]. Hơn nữa, hoạt động của thương nhân người Việt không chỉ bó hẹp ở một địa phương hay một khu vực, mà hoạt động trên thị trường khá rộng, giữa Nam và Bắc, giữa xứ này với xứ khác, giữa thị trường trong nước và ngoài nước. Công ty Minh Tân Túc mễ Tổng cuộc buôn tơ, gạo ở Nam Kỳ sang Trung Quốc [12]. Điều đó chứng tỏ đầu thế kỷ XX, tư sản người Việt ở Nam Kỳ không chỉ thiên về lập công ty thương mại buôn bán trong nước mà họ đã có ý thức lập xưởng sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường buôn bán ra ngoài nước.
2.1.4. Lĩnh vực giao thông vận tải
Giao thông vận tải là lĩnh vực kinh doanh mới xuất hiện, do đó hoạt động của tư sản người Việt ở Nam Kỳ trên lĩnh vực này còn khá hạn chế. Những năm đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ có hai tư sản hoạt động mạnh trên lĩnh vực này là Lê Phát Tân và Nguyễn Bá Phước. Lê Phát Tân sau khi kinh doanh phát đạt trên lĩnh vực nông nghiệp, nắm một số vốn trong tay, ông chuyển hướng sang kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải. Năm 1909, ông lập xưởng sửa chữa ô tô ở Sài Gòn, tổng số vốn ban đầu là 4 ngàn đồng, xưởng sử dụng 4 nhân công. Năm 1913, xưởng làm ăn phát đạt, Lê Phát Tân đầu tư 35 ngàn đồng mở rộng xưởng, thuê thêm 10 nhân công làm việc [7].
Để phục vụ cho nhu cầu đi lại cũng như giao thương ở các tỉnh miền Tây Nam Kỳ – nơi có hệ thống kênh rạch chằng chịt, loại hình kinh doanh vận tải đường thủy cũng xuất hiện. Đó là cơ sở hình thành hãng vận tải Ước Lập hỏa thuyền của Tri phủ Nguyễn Bá Phước. Đội tàu thủy của ông thành lập năm 1906, với 3 chiếc thuyền, vốn ban đầu là 11 ngàn đồng, tuyến đầu tiên là Sài Gòn – Mỹ Tho. Chỉ sau hai năm, đội tàu của ông tăng lên đến 10 chiếc, mở nhiều tuyến hơn, từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên… Phương thức kinh doanh của công ty này là tự bỏ tiền ra mở công ty kinh doanh vận tải, nhân công ban đầu vốn là người trong gia đình. Công ty hoạt động có hiệu quả và càng phát đạt trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh các công ty nêu trên, ở Nam Kỳ còn có các cơ sở kinh doanh nghề xe kéo. Đặc trưng của loại hình kinh doanh xe kéo là tập trung chủ yếu khu vực đô thị phát triển như Sài Gòn, Chợ Lớn. Cụ thể, có các cơ sở như Đồng Tâm, Văn Thạnh, Toàn Hảo. Đối tượng phục vụ chủ yếu là công chức người Pháp, người Việt, những nhà khá giả. Tuy nhiên, quy mô của các cơ sở này còn khá khiêm tốn.
2.1.5. Lĩnh vực thầu khoán
Để quá trình khai thác thuộc địa diễn ra dễ dàng và nhanh chóng, tư sản Pháp rất cần một bộ phận người làm trung gian nhận thầu công trình, cung cấp vật liệu xây dựng, làm đại lý phân phối hàng hóa,… Một số tư sản người Việt nắm bắt được cơ hội này, làm ăn với tư sản Pháp và giàu lên khá nhanh.
Trước năm 1914, ở Nam Kỳ xuất hiện một số thầu khoán chuyên cung cấp nguyên liệu hay bao thầu việc xây dựng các công trình công chính cho tư sản Pháp. Báo cáo ngày 1/10/1907 của Đôphinốt – quyền chủ sự Nha thương mại Đông Dương cho thấy công nghiệp Pháp được mở rộng nên xuất hiện nhiều nhà thầu khoán Pháp và Việt Nam. Ở Nam Kỳ, tiêu biểu có Nguyễn Văn Thạnh và Lê Kim Đĩnh thầu khoán trong lĩnh vực xây dựng ở Cần Thơ; Trần Kim Cung làm đại lý buôn hàng ngoại hóa ở Chợ Lớn; Trần Văn Tạo thầu khoán vận tải ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Ban đầu, những người này chỉ là những cai thầu, nhận thầu lại một phần công việc từ những nhà thầu lớn của người Pháp hoặc nhận phân phối hàng hóa cho các công ty Pháp, rồi dần trở thành những nhà thầu lớn chuyên cung cấp những vật liệu, nhận thi công một đoạn đường hoặc làm đại lý cho tư sản Pháp. Điển hình như Trần Kim Cung, ban đầu ông mở đại lý buôn hàng hóa Pháp ở Chợ Lớn. Cửa hàng của ông bán chủ yếu là các mặt hàng như thủy tinh, bóng đèn, công cụ kim khí, nhu yếu phẩm,… Sau một thời gian, cơ sở của Trần Kim Cung phát triển thành đại lý độc quyền phân phối hàng hóa Pháp trên địa bàn Chợ Lớn.
Điểm đáng chú ý là bên cạnh hoạt động thầu khoán là chính, khi có một số vốn nhất định, những tư sản này chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác, kể cả công – thương nghiệp. Lê Kim Đĩnh sau một thời gian làm thầu khoán xây dựng bỏ tiền mua đất lập đồn điền ở Biên Hòa, Cần Thơ. Trần Kim Cung cũng bỏ vốn lập hội buôn ở Sài Gòn – Chợ Lớn.
Như vậy, những năm đầu thế kỷ XX, tư sản người Việt ở Nam Kỳ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Để cạnh tranh hiệu quả, họ tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời nhiều lĩnh vực với các hình thức, phương thức sản xuất kinh doanh khá đa dạng.
2.2. Các hình thức sản xuất kinh doanh
2.2.1. Sản xuất kinh doanh độc lập
Đây là hình thức sản xuất kinh doanh khá phổ biến. Một số tư sản khi đã có số vốn nhất định, họ tự đứng ra lập công ty, xí nghiệp trên các lĩnh vực phù hợp cho riêng mình. Do đó, những công ty, xí nghiệp đó thuộc sở hữu của bản thân nhà tư sản. Đồng thời lợi nhuận thu được không phải chia sẻ với ai. Ví dụ như Lê Phát Tân, kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải. Ông tự mình bỏ vốn, lập cơ sở sửa chữa ô tô, sau một thời gian làm ăn phát đạt và tích lũy một số vốn nhất định ông mở công ty vận tải hoạt động chủ yếu ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Trong ngành in ấn, Đặng Thái Sơn vốn xuất thân từ thợ học việc, sau đó tích lũy vốn, kinh nghiệm và tự lập công ty Phát Toán của riêng mình.
Ở Nam Kỳ, lực lượng tư sản kinh doanh theo hình thức độc lập có số lượng khá đông. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, do nắm bắt cơ hội kinh doanh từ khi Pháp thống trị Việt Nam, nhiều địa chủ bỏ vốn ra mua rẻ ruộng đất, thành lập đồn điền trồng lúa, cao su cung cấp cho xuất khẩu và trở thành những đại địa chủ. Điển hình như Trần Trinh Trạch, Trương Văn Bền, Nguyễn Tấn Sử, Lê Phát Tân, Lê Phát Vĩnh, Võ Văn Tài,… [14]. Trong ngành công ngiệp xay xát có Nguyễn Thanh Liêm lập nhà máy xay lúa ở An Hóa (Mỹ Tho), Trương Văn Bền mở xưởng ép dầu. Lĩnh vực giao thông vận tải có các tư sản Lê Phát Tân, Nguyễn Bá Phước,… Các nhà tư sản kinh doanh với hình thức độc lập thường xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau, họ là những địa chủ, thương nhân, chủ xưởng sản xuất,… Đa số những tư sản sản xuất kinh doanh theo hình thức này đều tự lập những cửa hiệu buôn bán, xưởng sản xuất hay công ty riêng; quản lý, kinh doanh theo kinh nghiệm thực tế học hỏi được.
Do kinh doanh theo hình thức độc lập nên những tư sản này có số vốn không lớn, việc kinh doanh khó mở rộng ra khỏi địa bàn một tỉnh và đặc biệt chưa lập được những công ty lớn, có tính chất hiện đại ở giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914.
2.2.2. Sản xuất kinh doanh theo hình thức hùn vốn
Đây cũng là một hình thức kinh doanh phổ biến ở Nam Kỳ. Bởi vì, khi mới ra đời, tư sản người Việt ở Nam Kỳ gặp phải sự chèn ép, ngăn cản từ tư sản Pháp, lại chịu sự cạnh tranh quyết liệt của tư sản Hoa kiều. Hơn nữa, vốn của họ rất ít, kinh nghiệm hạn chế, nhiều người không đủ khả năng lập công ty, xí nghiệp riêng cho mình. Vì vậy, để tiến thân vào công cuộc kinh doanh và lập được công ty đủ sức cạnh tranh với các công ty của tư sản nước ngoài, đồng thời thúc đẩy công – thương nghiệp dân tộc phát triển, tư sản người Việt ở Nam Kỳ cùng hùn vốn với nhau sản xuất kinh doanh.
Cách thức hùn vốn của họ hoặc là góp trực tiếp không quy định là bao nhiêu, tùy theo khả năng của từng người hoặc là lập công ty cổ phần, rồi quy định mỗi cổ phần bao nhiêu tiền để những người có tiền góp. Công – thương nghiệp là hai lĩnh vực xuất hiện hình thức sản xuất kinh doanh hùn vốn nhiều nhất ở Nam Kỳ.
Trong lĩnh vực thương nghiệp, có Công ty Mỹ Tho Minh Tân Túc mễ Tổng cục do Trần Văn Hài phụ trách. Vốn điều lệ của công ty này là 1 triệu đồng, có sự góp vốn của 25 người. Hội buôn Nam Kỳ thương cuộc, có sự góp vốn của 17 người. Ngoài ra, còn một số công ty khác như Nam Kỳ trung thương cuộc, Minh Tân thương cuộc ở Tân An, Nam Mỹ thương quán ở Vĩnh Long…
Trong lĩnh vực công nghiệp, phải kể đến Duy Tân công ty. Công ty này được lập tại Mỹ Tho trên cơ sở góp vốn của nhiều người, với 20 ngàn cổ phần, mỗi cổ phần có giá trị 5 đồng. Sau khi thành lập, công ty này mời thợ giỏi về dạy cho người lao động, hướng hoạt động sản xuất và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tháng 10/1907, Trần Chánh Chiếu đổi tên Duy Tân công ty thành Minh Tân công ty. Không đầy 5 tháng, công ty vận động được 1.802 người hùn vốn, chia làm 19 danh sách, với 11.837 cổ phần, tổng số vốn huy động được 57.665 đồng [5, tr. 76].
Trong hình thức hùn vốn xuất hiện kiểu lập công ty cổ phần. Những công ty này cổ phần huy động nguồn vốn không phải riêng tư sản, mà có các sĩ phu tiến bộ, quan lại, nông dân… Đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ, các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, tài chính đều do người ngoại quốc nắm hết. Giới điền chủ, công chức người Việt không muốn vừa bị Pháp cai trị, vừa bị tư sản Hoa kiều, Ấn kiều chèn ép. Cho nên, khi các sĩ phu Duy Tân hô hào Duy Tân kinh tế, kêu gọi hùn vốn lập các công ty kinh doanh, họ tích cực tham gia, tạo nên một phong trào sôi nổi khắp các tỉnh Nam Kỳ. Công ty Nam Kỳ Minh Tân công nghệ do Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thành Út thành lập năm 1908, có điều lệ gần giống với công ty của tư sản Pháp lúc đó. Vốn điều lệ là 1 ngàn đồng, mỗi phần hùn không dưới 10 đồng (khoảng 25 quan tiền Pháp), gồm 17 thành viên là điền chủ, nghiệp chủ, hương chức, trong đó đa số người đóng góp vốn là giới điền chủ và công chức, ở các tỉnh Trà Vinh, Mỹ Tho, Gò Công, Chợ Lớn, Sài Gòn, Rạch Giá. Công ty nêu rõ kế hoạch hoạt động là lập lò chỉ (máy kéo sợi bông vải), lò dệt, lò xà bông, thuộc da và làm đồ pha lê… Công ty nhà in Sài Gòn, chia ra 1.500 phần hùn, trong đó có đóng góp cổ phần của Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương… Còn có một số cơ sở kinh doanh khác cũng dưới dạng cổ phần như Nam Trung khách sạn, Minh Tân khách sạn, Chiêu Nam lầu, Tế Nam khách sạn…
Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các công ty, hội buôn thành lập trên hình thức hùn vốn của rất nhiều người nhằm mục đích chính trị, ủng hộ phong trào Duy Tân, chứ không vì mục đích kinh tế. Những công ty, hội buôn này có tổ chức lỏng lẻo, ít coi trọng phương thức kinh doanh và phụ thuộc vào diễn biến của phong trào Duy Tân. Mặt khác, việc thành lập các công ty, cửa hiệu buôn bán không chỉ để cạnh tranh với nước ngoài mà nó là những “trạm liên lạc” của những người hoạt động trong và ngoài nước của Hội Duy Tân. Do đó, khi phong trào Duy Tân bị đàn áp, những người đứng đầu bị bắt, nó cũng nhanh chóng thua lỗ và phá sản. Cuối tháng 10/1908, Trần Chánh Chiếu bị bắt vì có quan hệ với phong trào chống thực dân Pháp, đồng thời các công ty, hội buôn và nhiều cơ sở kinh doanh do ông tham gia ngay sau đó đều bị thua lỗ và giải tán. Cụ thể như trường hợp Nam Kỳ Minh Tân công nghệ đang trên đà làm ăn phát đạt, số người mua cổ phần ngày càng tăng. Trần Chánh Chiếu còn dự kiến lập công nghệ làm thuộc da, đóng giày, làm ve chai, hộp quẹt,…. Công ty Mỹ Tho Minh Tân Túc mễ Tổng cuộc đang kinh doanh phát đạt, có thêm một số người ở Vĩnh Long và Thủ Dầu Một hùn thêm được 500 đồng. Tuy nhiên, khi Trần Chánh Chiếu bị bắt, những công ty này đều ngừng hoạt động và giải tán. Sau đó, hàng loạt công ty khác cũng nhanh chóng bị giải tán, như Công ty nhà in Sài Gòn, Nam Trung khách sạn, Minh Tân khách sạn, Minh Tân thương cuộc…
2.2.3. Sản xuất kinh doanh theo hình thức liên kết với tư sản nước ngoài
Tư sản người Việt ở Nam Kỳ khi mới ra đời có thế lực kinh tế nhỏ bé. Sự nhỏ bé đó thể hiện ở số lượng người, số vốn, thị trường và sức cạnh tranh. Đa số những ngành kinh tế quan trọng đều do tư sản Pháp nắm, sau đó tới lực lượng tư sản Hoa kiều. Tư sản người Việt muốn vươn lên trong bất cứ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào cũng rất khó khăn. Trước tình hình đó, để tham gia vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận, một số tư sản người Việt chọn hình thức liên kết kinh doanh với tư sản nước ngoài, trước hết là tư sản Pháp.
Ở Nam Kỳ, không chỉ có những nhà tư sản yếu thế mới liên kết với tư sản Pháp, còn có bộ phận đại địa chủ giàu có cũng liên kết với tư sản Pháp. Một mặt, họ liên kết với tư sản Pháp để kiếm lợi nhuận vì cả hai bên cùng có lợi. Đồng thời, lực lượng này sẽ có chỗ dựa vững chắc và trở nên giàu có hơn nữa. Điển hình là các điền chủ như Trần Trinh Trạch, Lê Phát An, Lê Phát Vĩnh,… Họ có trong tay số vốn tương đối lớn sau khi kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp, sau đó liên kết làm ăn với tư sản ngoại quốc.
Lĩnh vực có sự liên kết sản xuất kinh doanh với thực dân Pháp khá rộng như thầu khoán, đại lý phân phối, tiêu thụ hàng ngoại hóa, lập đồn điền kinh doanh, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, trong đó tiêu biểu nhất là trong lĩnh vực in ấn. Công ty in ở Sài Gòn, thành lập tháng 7/1907, với 1.500 cổ phần, mỗi cổ phần 24 đồng, góp mỗi tháng 2 đồng, đóng góp trong 12 tháng, tổng số vốn huy động được là 36 ngàn đồng. Công ty do ông Pierre Jeantet (người Pháp) làm Chánh tổng lí và ông Trần Chánh Chiếu làm Phó Tổng lí, ông Nguyễn An Khương làm tư hóa giữ tiền bạc.
Trong lĩnh vực công nghiệp dệt, năm 1911 điền chủ Lê Phát An ở Nam Kỳ liên kết với tư bản Pháp mở Công ty dệt Đờlinhông ở Phú Phong (Bình Định). Vốn ban đầu của công ty này là 1.775 ngàn phơrăng. Sau khi mở xưởng ở Phú Phong, công ty tiếp tục mở thêm các xưởng sản xuất ra các khu vực khác như Bồng Sơn, Giao Thủy thuộc tỉnh Bình Định.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, có sự góp vốn giữa địa chủ Nam Kỳ là các ông Nguyễn Văn Huy (Vĩnh Long), Phan Thanh Điền (An Giang) với tư sản Pháp lập ra Công ty Nông nghiệp Pháp – Việt ở miền Tây Nam Kỳ. Công ty này có đồn điền trồng lúa và cao su áp dụng kỹ thuật mới về giống, phương thức canh tác, sử dụng phân bón hóa học trong canh tác để đạt năng suất cao cho xuất khẩu [4, tr. 482].
Trong lĩnh vực thầu khoán, một số tư sản người Việt như Lê Kim Đỉnh, Trần Văn Thạnh, Trần Kim Cung nắm bắt cơ hội làm ăn từ khi thực dân Pháp vào Việt Nam. Họ trở thành những nhà thầu khoán chuyên liên kết với tư sản Pháp để xây dựng các công trình công chính, thầu khoán vận tải hay buôn bán hàng ngoại hóa.
Việc liên kết sản xuất kinh doanh giữa tư sản người Việt và tư sản Pháp diễn ra trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Tư sản Pháp cần có một lớp người làm trung gian cho việc kinh doanh và ủng hộ các chính sách cai trị của họ; ngược lại những tư sản bản xứ này sẽ có được chỗ dựa vững chắc, chia sẻ lợi ích kinh tế. Sự thống nhất về quyền lợi ấy khiến họ về phương diện chính trị, dù ít hoặc nhiều những tư sản bản xứ này cũng có thái độ ủng hộ thực dân Pháp, công nhận và bảo vệ quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Do đó, các nhà nghiên cứu gọi đây là bộ phận tư sản “mại bản”.
Tuy nhiên, cần thấy một điều rằng không phải tất cả những tư sản liên kết kinh doanh với tư bản Pháp đều là “mại bản”. Điều này còn tùy thuộc vào mức độ liên kết kinh doanh với tư sản Pháp và tùy vào từng thời điểm cụ thể.
Ngoài tư sản Pháp, một số tư sản người Việt ở Nam Kỳ còn liên kết với tư sản Hoa kiều trong một số lĩnh vực như kinh doanh đồn điền, ngành xay xát, thủ công nghiệp. Trong ngành xay xát, năm 1883 người Hoa liên kết với tư sản vùng Sài Gòn – Chợ Lớn lập ra 4 nhà máy xay lúa gạo, với năng suất 200 tấn mỗi ngày. Đến năm 1911, số nhà máy xay đã tăng lên 11 cái và công suất xay lúa cũng tăng lên đáng kể, từ 6.550 đến 6.800 tấn lúa mỗi ngày [13].
Như vậy, trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến trước năm 1914, tư sản người Việt ở Nam Kỳ có nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau. Trong đó, hình thức phổ biến nhất là sản xuất kinh doanh theo hình thức hùn vốn,… Đa phần các công ty ra đời vì hưởng ứng lời kêu gọi Duy Tân kinh tế của các sĩ phu Duy Tân, tư sản người Việt ở Nam Kỳ tham gia tích cực. Tuy nhiên, những người làm ăn theo hình thức này chỉ dừng lại ở việc xây dựng những xưởng sản xuất, hiệu buôn, với quy mô nhỏ, những công ty quy mô lớn đủ sức cạnh tranh với tư sản, ngoại quốc rất hiếm. Khi thực dân Pháp tiến hành các biện pháp đàn áp phong trào Duy Tân, hoạt động của các công ty này tạm thời lắng xuống và giải tán. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi họ đang trong quá tình tích lũy tư bản, học tập kinh nghiệm sản xuất kinh doanh.
3. Kết luận
Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914, tư sản người Việt ở Nam Kỳ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đến giao thông vận tải, thầu khoán. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp và thương nghiệp có số lượng tư sản người Việt tham gia đông đảo nhất và đồng thời cũng lập nên những cơ sở kinh doanh có nguồn vốn khá lớn và hình thức, phương thức sản xuất kinh doanh đa dạng. Mỗi tư sản đều lựa chọn những hình thức, phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với số vốn, quy mô công ty của mình, với mục đích đạt lợi nhuận cao nhất và cạnh tranh được với các công ty của tư sản ngoại quốc. Trong đó, tư sản người Việt ở Nam Kỳ thường hướng tới phương thức “mua tận gốc bán tận ngọn” để thu lợi nhuận cao, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc và cạnh tranh của tư sản ngoại quốc. Để cạnh tranh hiệu quả, tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã có nhiều hình thức, phương thức sản xuất kinh doanh sáng tạo; thể hiện được tầm kinh nghiệm và bản lĩnh kinh doanh của họ trong giai đoạn này. Riêng đối với lĩnh vực công nghiệp, số lượng tư sản hoạt động trong lĩnh vực này ở Nam Kỳ chưa nhiều. Đặc biệt, trong những ngành công nghiệp hiện đại số lượng tư sản người Việt tham gia còn hạn chế. Dầu vậy, khác với khu vực Trung Kỳ, tư sản người Việt ở Nam Kỳ ngay từ đầu thế kỷ XX đã tham gia vào một số ngành công nghiệp hiện đại. Các xưởng sản xuất họ lập ra, có tính chất tư bản chủ nghĩa, với số vốn khá lớn, áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại, có sức cạnh tranh trên thị trường. Đây chính là cơ sở, tiền đề để tư sản người Việt ở Nam Kỳ vươn lên sản xuất kinh doanh đa lĩnh vực, đa phương thức một khi có điều kiện thuận lợi hơn trong những giai đoạn lịch sử sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Tình hình và đặc tính của giai cấp tư sản Việt Nam, Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, số 44, tr. 39 – 52, (1958).
2. Nguyễn Công Bình, Tình hình và đặc tính của giai cấp tư sản Việt Nam, Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, số 45, tr. 56 – 71, (1958).
3. Nguyễn Công Bình, Tình hình và đặc tính của giai cấp tư sản Việt Nam, Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, số 46, tr. 54 – 71, (1958).
4. Trần Ðức Cường, Sự hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (từ khởi thủy đến năm 1945), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, (2014).
5. Nguyễn Thị Hà, Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỷ XX 1905 – 1930, Luận văn Thạc sĩ, Ðại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, (2014).
6. Ðào Hùng, Ông chủ nhà máy xay xát lúa gạo Vĩnh Hội, Phụ nữ Tân văn, số 65, tr. 9 – 12, (1930).
7. Ðoàn Thanh Hương, Ðỗ Mỹ Nhựt, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển 1698 – 1998, Sở Văn hóa – Thông tin TP. Hồ Chí Minh, (1999).
8. Lê Văn Năm, Vài nét về hoạt động xay xát lúa gạo ở Sài Gòn – Chợ Lớn thời Pháp thuộc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tr. 193 – 198.
9. Vũ Huy Phúc, Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858 – 1945), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, (1979).
10. Nguyễn Phan Quang, Nghề tằm tơ Nam kỳ thời thuộc Pháp (1911 – 1925), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7, tr. 3 – 13, (2009).
11. Thân thế ông Trần Trinh Trạch, Sài Gòn giải phóng, số 17, tr. 40 – 43, (2007).
12. Tạ Thị Thúy, Nền kinh tế thương nghiệp của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, tr. 26 – 32, (2013).
13. Annuaire statistique de l’Indochine 1943 – 1946, TTLT Quốc gia I.
14. Carton, dossier, Le riz en Indochine 1869 – 1948, Bulletin financier et économique, 3/10/1922, TTLT Quốc gia I.
15. Yves Henry, Économique agricole en Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, (1932).
Nguồn: Tạp chí Khoa học – Trường ĐH Quy Nhơn,
ISSN: 1859-0357, Tập 12, Số 2, 2018, Tr.25-35
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản người Việt ở Nam Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914 (Tác giả: Nguyễn Văn Phượng) |