KẾT CẤU VĂN BẢN THEN TÀY (Phần 1)
ĐINH THỊ LIÊN
(Đại học Thái Nguyên)
1.
Hát then và gảy đàn tính là một trong hai thứ “đặc sản” tinh thần của hai dân tộc Tày và Nùng ở vùng Đông Bắc, chủ yếu là 6 tỉnh phía Bắc: Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà và một phần của Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái. Ngày nay, làn điệu then và cây đàn tính đã theo đồng bào Tày, Nùng vào làm ăn ở một số tỉnh phía Nam. Vậy then là gì?
Then được gọi bằng nhiều tên khác như: vỉt, pụt, dàng, vủt,… tuỳ từng vùng, nhưng tên thông dụng nhất là “then”. Có thể quan niệm chung về then như sau: Then là một loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp bao gồm lời ca, âm nhạc, múa, trò diễn…được thực hiện trong nghi lễ có từ lâu đời, được quần chúng ưa thích, giữ một vị trí quan trọng trong di sản văn hoá nghệ thuật truyền thống của hai dân tộc Tày, Nùng.
Then là một kho tàng lưu giữ những nét văn hoá độc đáo của người Tày trong suốt chiều dài phát triển lịch sử của dân tộc này. Giá trị ấy được phản ánh qua những lời then cổ còn được lưu giữ đến hôm nay nhờ sự kì công sưu tầm, nghiên cứu của các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian.Trong số những bản then còn lưu đến ngày nay, phải kể đến một công trình sưu tầm khá công phu và đầy tâm huyết của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Tày – Hoàng Triều Ân với cuốn Then Tày những khúc hát. Ông đã ghi chép lại những khúc hát then (chủ yếu là Khúc hát then cúng bái). Cụ thể, đó là những khúc then trong Lễ kì yên, cầu chúc và Then lễ hội mà ông trực tiếp sưu tầm được ở thầy Dàng làm then tên Hoàng Ích Khải (pháp danh là Hoàng Hưng) quê ở Nga Ổ, Thượng Lang – Cao Bằng, nay là Bản Mom, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Đó là văn bản được sử dụng làm ngữ liệu (NL) trong bài viết này.
Lâu nay, nhiều người dân cho rằng then chỉ là hình thức sinh hoạt dân gian mê tín dị đoan. Sự nghiên cứu then Tày đã cho thấy bên cạnh ý nghĩa tâm linh, những chương đoạn then còn chứa đựng những giá trị văn học độc đáo (về phương diện phản ánh và hình thức). Một trong những giá trị văn học đáng kể nhất trong then là ở phương diện kết cấu (với các dạng kết cấu). Đó chính là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo nên nội dung của tác phẩm nhằm phản ánh hiện thực theo một chiều hướng tư tưởng nhất định. Kết cấu thuộc hình thức, vì thế vai trò của nó được khẳng định trong việc giúp thể hiện nội dung tác phẩm như chủ đề, tư tưởng,… Nhờ kết cấu mà các bản then liên kết logic với nhau về mặt hình thức và thực sự trở thành một tác phẩm văn học dân gian độc đáo chuyên chở những nội dung và tư tưởng nhất định.
Trong bài viết này, chúng tôi bước đầu tìm những đặc điểm chung trong kết cấu và các dạng kết cấu thường gặp trong các khúc then Tày, được thể hiện qua văn bản Then Tày những khúc hát của tác giả Hoàng Triều Ân. Qua đó, người viết hi vọng góp phần khẳng định giá trị văn học của thể loại văn nghệ dân gian đậm chất linh thiêng, huyền bí và đồng thời cũng nhằm tôn vinh vốn tài sản văn hoá vô giá này của người Tày.
2. Đặc điểm chung
Khảo sát tác phẩm Then Tày những khúc hát, có thể thấy số câu trong mỗi khúc hát không như nhau (cụ thể các khúc hát có số câu như sau: Roọng hương (327 câu); Vọng cảnh (294 câu); Phóng lệ (366 câu); Lập binh (110 câu); Cống sứ (379 câu); Cái kiều cầu tự (247 câu); Tạ tông đường (46 câu); Giải tạ phá thương phá khắc (84 câu); Giải khắc (119 câu); Tiến hoa thánh mẫu (123 câu); Quang bán (85 câu); Cái cấu hào quang (93 câu); Lập phủ Thành Lâm (378 câu); Lọc vía hào quang (113 câu); Soạn lẹ khảu cung Ngọc Hoàng (1.242 câu); Sắc cấp (71 câu); Toỏng khánh khảo gường (441 câu); Thủm mủ hẩu gường sở (188 câu); Dinh Thành Thế (186 câu); Pắt ngoảng (202 câu); Vặt Giả Gỉn (336 câu); Piốc Pú Cấy (76 câu); Khảm hải (663 câu); Mường bân (148 câu); Tổng tiên (27 câu); Tẳng phia Xu Mi (293 câu); Hò Vỉnh (214 câu); Báo sao kẻn chụ (173 câu); Đối thoại then hài (68 câu); Khao noọng khao nàng (463 câu), Rườn Then Dàng (189 câu))… Như vậy, chỉ có 7 khúc hát dưới 100 câu, ngắn nhất là khúc Tổng tiên (27câu), 24 khúc hát còn lại trên 100 câu, dài nhất là khúc Soạn lệ khảu cung Ngọc Hoàng gồm 1.242 câu chia làm bốn phần rõ ràng. Nhìn khái quát, rõ ràng tính chất “không ngắn gọn” là một đặc điểm dễ nhận thấy nhất và bao trùm nhất trong then.
Trong 10 khúc hát thuộc Lễ then kì yên, cầu chúc và 21 khúc then thuộc Lễ hội Dàng then (Then cấp sắc, then lễ hội, Lẩu pụt), diễn xướng then nói chung được tiến hành theo một mô thức nhất định đã góp phần làm nên tính trình tự nhất quán của nghi lễ từ đầu đến cuối. Đó là một chu trình khép kín các hoạt động văn hoá tín ngưỡng được thực hiện trong một loạt các vấn đề từ tổ chức sắp xếp nhân lực bao gồm cả thần thánh, thầy then, người phụ lễ đến bố trí không gian diễn xướng. Dưới đây là thứ tự các khúc hát trong Lễ kì yên, cầu chúc trong một cuộc làm then, được như vậy mới đảm bảo cho nghi lễ thật sự vẹn tròn: (1) Rọong hương; (2) Vọng cảnh; (3) Phóng lệ; (4) Lập binh; (5) Cống sứ; (6) Cái kiều cầu tự; ( 7) Tạ tông đường; (8) Giải tạ phá thương phá khắc; (9) Giải khắc; (10) Tiến hoa thánh mẫu.
Như vậy, nội dung chính của các lễ then đều theo một kết cấu chặt chẽ, bên cạnh đó còn bổ sung linh hoạt thêm những khúc hát theo mục đích của từng cuộc then.
Trong Lễ hội Dàng Then, lộ trình đi của then tương đối logic. Đặc trưng của Lễ hội Dàng then là kể về hành trình của quân then phải lên Ngọc Hoàng xin cấp sắc, trên đường đi phải làm gì, gặp những gì phải vượt qua,… nên lời then phù hợp với thứ tự trong kết cấu của lễ hội rất chặt chẽ (căn cứ vào hành trình của quân then mà chúng tôi đánh dấu bằng số thứ tự): (1) Quang bán; (2) Cái cấu hào quang; (3) Lập phủ Thành Lâm; (4) Dinh Thành Thế; (5) Pắt ngoảng (6) Vặt Giả Gỉn; (7) Piốc Pú Cấy; (8) Khảm hải; (9) Khao noọng khao nàng; (10) Mường bân; (11)Tổng tiên; (12) Hò Vỉnh; (13) Lọc vía hào quang; (14) Soạn lẹ khảu cung Ngọc Hoàng; (15) Toỏng khánh khảo gường; (16) Sắc cấp; (17) Thủm mủ hẩu gường sở; (18) Tẳng phia Xu Mi; (19) Báo sao kẻn chụ; (20) Đối thoại then hài; (21) Rườn Dàng then.
Về hình thức, lời hát then chủ yếu được sáng tác theo thể văn vần để dựa trên đó thầy then có thể hát, xướng, đọc, hoặc tụng niệm. Lời thơ dùng để hát và giai điệu lời hát được căn cứ vào từng thể thơ, còn nhạc đệm thì phù thuộc vào giai điệu hát. Như vậy, lời là thành phần quan trọng tạo nên nghệ thuật biểu diễn âm nhạc then.
Những khúc then được cấu tạo theo nhiều thể thơ khác nhau. Điều dễ nhận thấy là các then diễn xướng chủ yếu bằng thể 7 tiếng, 5 tiếng kết hợp với 7 tiếng và sự sáng tạo linh hoạt được thể hiện trong thể hỗn hợp (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8,…, 12 tiếng). Khi hát then, ngoài lời hát còn là âm thanh của cây đàn tính ngân vang trong đêm thanh tĩnh, cùng với tiếng của chùm kim khí vui tươi, rộn ràng, tạo nên không khí vừa linh thiêng, huyền bí vừa ngây ngất mê say.
Trong kết cấu các khúc hát then, ngoài tính chất cố định còn một số bài có cấu trúc tựa như một câu chuyện. Câu chuyện ấy được thuật qua lời thoại của thầy then (độc thoại). Đó là những tích truyện gắn với đời sống văn hoá tinh thần của người Tày như: Rọong hương, Hò Vỉnh, Tiến hoa thánh mẫu. Có những truyện gắn với lịch sử phát triển của dân tộc Tày với ý nghĩa sâu sắc truyền đến muôn thế hệ: khuyên con người phải chăm lao động; chị em phải yêu thương, đùm bọc lấy nhau; ăn ở hợp vệ sinh; nhớ ơn tổ tiên đã sinh ra mình,… Một số khúc hát có mở đầu, diễn biến và kết thúc theo kết cấu của thể loại truyện (như khúc hát Hò Vỉnh). Ngoài ra có kết cấu một câu chuyện kể còn phải kể đến những khúc hát như: Lập phủ thành lâm; Khảm hải; Piốc Pú Cấy,… Yếu tố cốt truyện trong một khúc hát then thường là điểm nhấn làm cho lời ca thêm uyển chuyển, lúc bổng lúc trầm mà vẫn liên kết với nhau rất chặt chẽ, tình tiết truyện phát triển theo những khúc hát cứ tiếp nối nhau khiến cho người dự lễ có cảm giác như đang được nghe một câu chuyện có kết cấu chặt chẽ, cốt truyện li kì, hấp dẫn. Trong đó, yếu tố trữ tình làm cho lời ca vừa đáp ứng được nhu cầu tâm linh lại vừa bày tỏ được tâm tình, mà đã bày tỏ thì phải cặn kẽ nên lời thơ của then cứ kéo dài nghe như lời diễn giải, mở đường cho chất tự sự tràn vào lời ca, cũng như vậy mà người nghe hiểu được sự tình trong mỗi khúc hát:
Mà lăng tởi chế độ Thần Nông (Sau về đến chế độ Thần Nông
Sinh mì nọong Thị Xuân gian tá Đời có nàng Thị Xuân gian trá
Vỉ nhình căp nọong nả cheng phua Chị gái cùng em dì tranh chồng
Gừn vằn lo vi thua lụp chảu Ngày đêm lo chải đầu búi tóc
Chướng thua bấu rặp khẩu tẩư dàn… Lo điểm trang không đón thóc về dưới sàn
[NL; 334 – 335]
Tính hài cũng là yếu tố tạo nên trò diễn trong hát then làm cho kết cấu trong then thêm sinh động, hấp đẫn. Điều này làm cho then bên cạnh phần lễ linh thiêng còn có cả phần hội sôi nổi, ngập tràn tiếng cười giòn tan phá tan bầu không khí tĩnh mịch trong đêm miền núi (Then hài đối thoại).
Tính lặp lại trong văn bản then được xem như một phương tiện liên kết văn bản. Tính lặp ở đây biểu hiện ở cả ba thành tố trong văn bản: lặp từ, lặp ngữ và lặp cấu trúc. Dưới đây là các dẫn chứng tiêu biểu cho tính lặp trong then:
Óc pây khảm tu ngưởc cẩu đưa
Óc pây khảm tu sưa cẩu khẻo
Quá khảm tu lọt lẹo pây mà
Quá khảm tu xướng ca bát vận
Quá khảm tu bạch vân hom bioóc… [NL; 612]
Tính lặp trong văn bản then tạo thành sự liên kết văn bản trong lời hát và trong việc tạo nên tiết tấu, nhịp điệu; đồng thời giúp mau thuộc và không cần suy nghĩ, tìm cách diễn đạt khác. Với các lời ca dài có sẵn theo quy định, những chỗ lặp lại giúp nhớ được lời hát cần phải học thuộc.
3. Các dạng kết cấu
3.1. Kết cấu một chiều là kết cấu liên kết một lượt lời ca do một chủ thể phát ngôn diễn xướng, thường là những lời khấn, tụng niệm. Trong hát then, kết cấu một chiều được sử dụng để liên kết những lời ca, câu khấn liên tiếp của thầy then mà không có lời đáp. Dạng kết cấu này khá phổ biến trong hát then, đặc biệt là ở những khúc tụng niệm, khấn bái (những khúc giữ vai trò là linh hồn của khúc hát then cúng bái) tiêu biểu nhất là khúc then Sắc cấp. Cụ thể là: trong 31 khúc có tới 16 khúc theo lối kết cấu này.
Trong Lễ kì yên, cầu chúc, khúc hát Rọong hương được viết theo thể hỗn hợp (câu dài ngắn đan xen) được dùng với mục đích cúng bái. Lời khai giọng của then cũng chính là lời mời các chư tướng, tiên tổ xuống hội yến:
Niệm…niệm… Ái hỡi…ơi…a… Hỡi…ơi… Ái hỡi…a…hỡi…ơi… Niệm…niệm… Niệm sơ nải luyện cái giá Khảm khoan mọn nải thâng Cái tản bản sắc Hương yên nội tiếp thâng… Mỉnh mọn tiếp đồng tâm ơn tản Bân phép đức thâng bán Thích Ca Sá…yến nội lồng tiếp sớ… [NL; 327] | (Niệm…niệm… Ái hỡi…ơi…a… Hỡi…ơi… Ái hỡi…a…hỡi…ơi… Niệm…niệm… Xin mời các bề trên Có bài tiện then xin van nài tới Cấp trên cấp sắc Khói hương đã tiếp lên Mình tiện then đội ơn các bậc Trời cho phép dâng lên bàn thờ Thích Ca Xin các sứ xuống đây tiếp sớ…) |
Trong đoạn then trên sẽ thấy rằng đây đơn thuần chỉ là lời của thầy then đang niệm mời các chư tướng xuống hội yến, câu trước liên kết với câu sau tạo thành một phát ngôn mà không có lời đáp. Bên cạnh đó, kết cấu một chiều còn được sử dụng khi then thay lời gia chủ xưng danh trước thánh thần, tiên tổ trong mỗi cuộc làm then. Ví dụ:
Hương kim cứ Đại Nam quốc (Nay xin căn cứ nước Việt Nam
(Mọ) tỉnh (Mỗ) tỉnh
Phường (Mọ) tốc mà đin rườn tổ Phường (mỗ) đặt chân đất tổ tông
Họ (Mọ) gia… Họ (Mỗ) gia…)
[NL; 329]
Kết cấu một chiều còn được sử dụng để thể hiện sự khẩn cầu, ngăn tà cấm quỷ của then. Bởi then hơn những người thường ở chỗ hiểu được đạo trời và là người môi giới thánh thần, tổ tiên, Ngọc Hoàng với người trần, có khả năng nói chuyện được với các loại ma:
Vụ đeo cấm pha táng (Nào cấm cả cánh cửa sổ
Bấu cấm đẳm thư bán Không cấm cao cao tổ
Bấu cấm tản thư rườn Không cấm các vị quản nhà
Cấm là cấm phi mang Cấm là cấm nơi thề
Làn là làn phi mật Ngăn là ngăn ma chết thương
Ngoại tà bấu hẩư nhập gia trung… Ngoại tà không cho nhập vào nhà…)
[NL; 253]
Đó còn là những lời kể lể tâm sự của then muốn gửi gắm đến những người đang tham dự buổi lễ với mục đích khuyên răn, giáo dục: Con người ta phải chăm lao động; ăn ở hợp vệ sinh; nhớ ơn tổ tiên đã sinh ra mình…:
Lục lan đảy kin bấu lùm thú (Con cháu được ăn không quên đũa
Đảy giú bấu lùm công Được ở không quên ông
Bấu lùm công tiên tổ… Không quên công tiên tổ…)
[NL; 331]
Một số khúc hát có Kết cấu một chiều trong Lễ hội Dàng then cũng thường là lời tâm sự, lời mời gọi của thầy then hay một nhân vật nào đó đang thở than mà không có lời đáp. Nhiều khi là những lời dặn dò, lời an ủi của quân then với người thân, hay thể hiện tâm trạng mệt mỏi nhiều khi sợ hãi của quân then khi gặp rừng sâu, núi cả.Và cũng qua những khúc hát có kết cấu một chiều, người đọc thấy được sự chu đáo và lòng tôn kính của then trong việc bày biện, lựa chọn những gì tinh khiết nhất để bày lên bàn thờ tổ tiên hay ông tổ nghề nghiệp:
Tóm lại, nội dung trong những khúc hát có kết cấu một chiều thường là những lời tụng niệm, tiễn đưa thánh thần, tiên tổ về chốn linh thiêng và cũng có thể là những lời khấn chúc, lời xưng danh, kể lể, tâm tình do thầy then đảm nhiệm từ đầu đến cuối một khúc hát mà không hề xuất hiện lời đối đáp nào.
Còn tiếp:
Mời xem: KẾT CẤU VĂN BẢN THEN TÀY (Phần 2)