KỊCH NÓI trong đời sống VĂN HỌC-NGHỆ THUẬT TP. Hồ Chí Minh (Phần 2: Kịch nói TP. Hồ Chí Minh từ năm 1975 đến nay)

LƯU TRUNG THỦY
(Đại học Quốc gia- TP. HCM)

     Mười năm sau ngày đất nước thống nhất (1975-1985), kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng một diện mạo mới trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới. Kịch nói thời gian này tập trung ở hai đề tài lớn là: tái hiện, đánh giá về cuộc chiến tranh, giải phóng dân tộc của nhân dân miền Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng thành phố thời hậu chiến.

     Sau năm 1975, trong số hàng chục ban kịch hình thành và hoạt động trước 1975, chỉ còn ban kịch Kim Cương đổi tên thành Đoàn kịch nói Kim Chương và ban kịch Thẩm Thúy Hằng đổi tên thành Đoàn kịch nói Bông Hồng tiếp tục trụ lại và góp phần quan trọng xây dựng nền sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày giải phóng.

     Ngay sau giải phóng, Đoàn kịch nói Kim Cương đã dựng lại một số vở từng chiếm được tình cảm của khán giả trước đó, do chính nghệ sĩ Kim Cương làm tác giả kịch bản như: Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo, Trà hoa nữ, Bông hồng cài áo. Bên cạnh đó, Đoàn kịch nói Kim Cương còn dựng các vở mang chủ đề khác với kịch Kim Cương trước đây, đồng thời gắn liền với thời đại như: Chìa khóa (Thiếu Linh) đề cập đến vấn đề cải tạo tư bản tư doanh tại các đô thị miền Nam, Men trắng (Kim Cương) đề cập đến những người thanh niên xung phong tình nguyện lên đường, góp phần xây dựng những vùng gian khó của đất nước, Về nguồn (Kim Cương) miêu tả cuộc đấu tranh của những người công nhân trước giải phóng, Hồi sinh (Kim Cương, Thiếu Linh) miêu tả cuộc chiến đấu trong lòng đô thị thời chống Mỹ.

     Cũng như đoàn kịch nói Kim Cương, năm 1976, Đoàn kịch nói Bông hồng của nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng cũng dựng các tác phẩm gắn liền với mối quan tâm của thành phố giai đoạn này như: Đôi bông tai, Tiếng nổ lúc không giờ tái hiện sự mưu trí, gan dạ của những chiến sĩ biệt động thành, Cho tình yêu mai sau (Ngọc Linh) đề cập đến sự hoàn lương của những số phận từ bóng tối bước ra ánh sáng, Ánh đèn đêm (Huỳnh Thị Đằng-Nguyễn Thị Vân) miêu tả quá trình xác lập quan hệ sản xuất mới tại nông thôn Nam bộ.

     Trong đời sống kịch nói 10 năm hậu chiến, đoàn kịch nói chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh là Đoàn kịch nói Cửu Long giang, tiền thân là Đoàn kịch nói Nam bộ. Năm 1954, Đoàn văn công Nam bộ tập kết ra miền Bắc. Đoàn gồm 3 bộ phận: cải lương, ca múa nhạc và kịch nói. Năm 1956, bộ phận kịch nói tách ra thành Đoàn kịch nói Nam bộ. Nhiệm vụ của đoàn là dựng những tác phẩm cổ vũ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nêu cao khí phách anh hùng cách mạng của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến ấy. Trong thời gian chiến tranh, đoàn dựng và phục vụ khán giả miền Bắc. Một số kịch bản từ mặt trận miền Nam gửi ra của Nguyễn Vũ (Ngô Y Linh) được dàn dựng thành công như: Đêm đen, Nàng bắn lén, Đất nước mùa xuân, Đâu có giặc là ta cứ đi, Đường phố Sài Gòn dậy lửa, Mũi thép, Tình ca. Bên cạnh đó, có thể kể đến một số vở gây tiếng vang khác như: Chuông đồng hồ điện Kremli (Nikolai Pogodin), Hòn đảo thần vệ nữ (Paxnix), Thanh gươm và bà mẹ (Phan Vũ), Hương bưởi (Huỳnh Chinh-Văn Chiêu-Ngô Quang Thắng)…

     Trở về Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5 năm 1975, Đoàn kịch nói Nam bộ đã tổ chức biểu diễn ngay để phục vụ nhân dân thành phố. Đến tháng 12 năm 1977, Đoàn kịch nói Nam bộ chính thức mang tên Đoàn kịch nói Cửu Long Giang do Sở Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh quản lý.

     Bên cạnh các tác phẩm đã từng dành được sự quan tâm của khán giả miền Bắc, Đoàn kịch nói Cửu Long Giang tiếp tục dựng các tác phẩm mới vừa tái hiện lịch sử đấu tranh hào hùng của nhân dân miền Nam như Những bước đi lên (Nguyễn Vũ), sự đổi đời của những người lầm lỡ như Bông hồng trắng (Lê Duy Hạnh, Văn Thành), ca ngợi những con người vừa đi qua cuộc chiến tranh lại hăm hở tham gia vào mặt trận cải tạo những con người lầm lạc như Xa thành phố dấu yêu (Ngọc Linh), hay quá trình cải tạo và xây dựng con người mới trong sản xuất như Màu giấy mới (Hồng Phi).

     Ngoài một đoàn kịch do nhà nước quản lý và đầu tư hoạt động, hai đoàn kịch tư nhân của hai nghệ sĩ nổi tiếng trước năm 1975 thì kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thời gian này còn có Đoàn kịch trẻ thành phố gồm các diễn viên tốt nghiệp Trường Nghệ thuật Sân khấu 2. Thời gian này đoàn chủ yếu dựng chùm kịch Đâu có giặc là ta cứ đi của Nguyễn Vũ.

     Một sự kiện đáng lưu ý trong thời gian này là việc thành lập và hoạt động của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm vào ngày 1 tháng 8 năm 1984, theo quyết định số 1900/UB của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Câu lạc bộ tập trung những đạo diễn, diễn viên trẻ vừa tốt nghiệp Trường Nghệ thuật Sân khấu 2, hăm hở sáng tạo nhưng chưa có đất thể hiện. Thời gian đầu mới thành lập, câu lạc bộ còn gặp nhiều khó khăn. Vở công diễn đầu tiên của câu lạc bộ là vở Dư luận quần chúng (Aurel Baranga). Với niềm đam mê và sức sáng tạo trẻ, các đạo diễn, diễn viên của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm sẽ đưa sân khấu kịch 5B Võ Văn Tần trở thành điểm sáng của loại hình sân khấu nhỏ và xã hội hóa nghệ thuật tại thành phố và cả nước trong những năm tiếp sau, như nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn Văn Thành đánh giá: “Sức trẻ và niềm say mê khao khát sáng tạo, mong muốn làm nghề cộng với những nhân tố khác như tài năng bẩm sinh, vốn hiểu biết chuyên môn rộng cộng lại tạo nên một luồng gió mới, tràn đầy sinh lực, hưng phấn, tân kỳ, mới lạ phả vào sàn diễn, gây nên sức truyền cảm, quyến rũ, rạo rực. Cái hăm hở, nhiệt huyết sôi sục ấy lại được cộng hưởng bởi hình thức sân khấu kịch dưới dạng sân khấu nhỏ – hình thức năng động nhất của một thể loại vốn đầy ắp chất năng động như kịch nói – nên đã nhanh chóng bừng nở rực rỡ, chói sáng như một hiện tượng đặc biệt của sinh hoạt kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh cuối những năm 8010.

     Một điều đáng lưu ý trong sự phát triển của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thời gian này là khán giả thành phố bắt đầu dành nhiều quan tâm đối với thể loại sân khấu kịch nói. Điều này thể hiện ở việc chuyển dần sự quan tâm dành cho cải lương sang kịch nói. Trần Trọng Đăng Đàn trong bài viết Đời sống văn hóa-sân khấu cuối thời hậu chiến (1976- 1985) qua kết quả điều tra xã hội học, in trong Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận, Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011, cho biết thời gian từ năm 1975-1985, so sánh giữa các loại hình sân khấu, số công chúng thích kịch nói chiếm 38,31%, công chúng thích cải lương chiếm 37,96%. Điều đáng quan tâm là số người trong độ tuổi 16 đến 25 thích kịch nói chiếm số lượng cao nhất 39,29%. Con số điều tra cũng cho thấy tỉ lệ yêu thích kịch nói tăng theo trình độ học vấn11.

Sự thay đổi vị trí giữa kịch nói và cải lương tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn trước và sau năm 1975, theo chúng tôi, đó là sự chuyển đổi về nhu cầu thẩm mỹ của thế hệ khán giả thành phố. Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, một thế hệ khán giả của sân khấu đã hình thành với nhu cầu thẩm mỹ mới mà sân khấu cải lương chưa thể đáp ứng được. Chính vì vậy, trong thời gian 1975-1985, mặc dù sân khấu cải lương vẫn có phần lấn át sân khấu kịch ở số lượng các đoàn (16 đoàn) nhưng đến thời gian sau sân khấu cải lương sẽ nhường lại vị trí ấy cho sân khấu kịch nói.

     Ngoài ra, phong trào văn nghệ quần chúng của Thành phố Hồ Chí Minh phát triển rầm rộ trong thời gian này cũng góp phần đưa thể loại kịch đến với đông đảo khán giả. Theo công trình Những thay đổi trong đời sống văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian 1986-2006 do Hoàng Hương, Cao Tự Thanh chủ biên thì từ 1975-1985 toàn thành phố có 2.800 đội văn nghệ quần chúng. Riêng năm 1976 đã có 5.355 buổi biểu diễn quần chúng. Còn theo Nguyễn Văn Thành thì số người tham gia văn nghệ quần chúng của Thành phố Hồ Chí Minh năm 1982 là 10 vạn. Trong thời gian từ 1975-1985, văn nghệ quần chúng của thành phố đã xây dựng được hơn 9.000 tiết mục, trong đó có một số lượng đáng kể thuộc thể loại kịch nói12. Chính từ phong trào kịch nói không chuyên (kịch nói quần chúng) mà khán giả thành phố tiếp cận sâu và rộng với thể loại sân khấu này. Đồng thời, phong trào kịch nói không chuyên cũng trở thành nguồn cung cấp cho văn học kịch và sân khấu kịch nói nhiều tác giả kịch bản, diễn viên, đạo diễn xuất sắc thời gian sau. Điều này góp phần lý giải cho nguyên nhân tại sao trước năm 1975 kịch nói tại Thành phố Hồ Chí Minh luôn trong tình trạng chênh vênh vì thiếu khán giả vậy mà tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc đợt 2, tổ chức vào tháng 5 năm 1985, năm vở kịch của các đoàn miền Bắc gồm Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ), Mùa hè ở biển (Xuân Trình), Lịch sử và nhân chứng (Hoài Giao), Nhân danh công lý (Doãn Hoàng Giang), Đỉnh cao mơ ước (Tất Đạt) lại nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của khán giả thành phố đến vậy.

     Ở góc độ văn học kịch, ngoại trừ các kịch bản của các tác giả nước ngoài cũng như các kịch bản được sáng tác trước năm 1975, thì Kim Cương có thể xem là tác giả đi đầu trong việc sáng tác những tác phẩm mới thể hiện nội dung đánh giá về cuộc kháng chiến vừa qua trong đô thị Sài Gòn và tái hiện những con người trong công cuộc tái thiết và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh với các kịch bản Men trắng, Về nguồn và Hồi sinh. Các tác phẩm Nguyễn Vũ dù đã từng được đánh giá cao trước năm 1975 nhưng mãi đến sau năm 1975 mới được công chúng Thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận. Ngoài ra, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thời gian này cũng nổi lên hai tác giả sẽ trở thành trụ cột của kịch nói thành phố thời gian sau là Ngọc Linh và Lê Duy Hạnh.

     Tóm lại, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thời gian 10 năm hậu chiến (1975-1985) thể hiện hai nhiệm vụ là ngợi ca chủ nghĩa yêu nước của người miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước và tuyên truyền, cổ vũ tinh thần xây dựng và phát triển thành phố. Đoàn kịch nói Kim Cương và Bông Hồng đã nối dài truyền thống của kịch Sài Gòn trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới, bên cạnh Đoàn kịch nói Cửu Long Giang đóng vai trò dẫn dắt sân khấu kịch nói thành phố theo đúng chủ trương, đường lối. Câu lạc bộ thể nghiệm là một nhân tố mới tích cực của kịch nói thành phố. Song song đó, văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh có những khởi sắc và xuất hiện những nhân tố sẽ đóng vai trò trụ cột cho thời gian phát triển về sau. Cùng những nỗ lực của những người lãnh đạo văn hóa-nghệ thuật thành phố cũng như những nghệ sĩ tâm huyết với nghề, khán giả Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu dành nhiều quan tâm đến kịch nói. Vị trí của kịch nói trong đời sống văn học-nghệ thuật của thành phố bắt đầu có những thay đổi theo hướng phát triển. Thời gian 1975-1985 có thể xem là thời gian tạo nên những bước chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự phát triển và cất cánh của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh từ sau năm 1986.

Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến nay

     Sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ VI, năm 1986, đất nước bước vào thời kì đổi mới với mô hình kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đông thời chấp nhận nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Nền kinh tế thị trường tác động đến từng cá nhân trong xã hội và mọi mặt của đời sống xã hội. Sân khấu kịch nói cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng nằm trong sự tác động ấy.

     Thời gian giữa những năm 80 đến nửa đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự khủng hoảng về khán giả của sân khấu diễn ra trên cả nước. Nhiều tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên dần dần bỏ nghề. Một phần do khán giả dành quan tâm cho các loại hình giải trí khác, phần nữa là sự hoạt động thiếu hiệu quả, không nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của khán giả nên vẫn duy trì tổ chức, hoạt động theo quán tính cũ, thiếu sự nhạy bén cần thiết trong cơ chế thị trường của các đơn vị nghệ thuật sân khấu. Đứng trước thực trạng của sân khấu năm 1990, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Thái đánh giá: “Từ sau hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc năm 1990, sân khấu cả nước đứng trước một bước ngoặt có tính chất đảo lộn: thời sân khấu bao cấp đã được thay thế bởi thời sân khấu trong cơ chế thị trường. Thế là biết bao vật đổi sao dời. Sân khấu như đứng khựng lại, ngơ ngác tìm đường nhận đường. Một câu hỏi nhức nhối dựng lên trước mắt: sân khấu tồn tại và hoạt động theo phương cách nào để thích nghi với thời buổi mới và thỏa mãn được nhu cầu thẩm mỹ của công chúng trong cái thời mở cửa đầy gay go vất vả này ?”13.

     Một thực tế đáng buồn là để lôi kéo khán giả đến rạp, không ít đơn vị sân khấu chấp nhận chiều thị hiếu thấp của khán giả, cẩu thả trong dàn dựng tác phẩm. Đề cập đến sân khấu thời gian này, Tất Thắng khái quát: “Là giai đoạn sân khấu phải đương đầu, phải nhập cuộc, phải vượt lên có khi sứt đầu mẻ trán với cơ chế thị trường tràn ùa vào các lĩnh vực văn nghệ khiến cho nhiều nghệ sĩ ngơ ngác đến thảm hại. Sân khấu xuống cấp, sân khấu khủng hoảng, sân khấu thương mại, sân khấu ăn khách, sân khấu kiếm sống… Những vấn đề mới mẻ và nhức nhối đó luôn luôn được đặt ra, bàn cãi, nhắc lại trong cuộc nhiều cuộc hội thảo, trên nhiều bài nói, bài viết của các nhà hoạt động sân khấu. Từ hội diễn 1985 đến hội diễn 1990, sự xuống cấp của sân khấu đã là trông thấy14.

     Trước tình hình khủng hoảng đó, các đoàn kịch nói trụ cột của Thành phố Hồ Chí Minh cũng loay hoay tìm hướng thoát bằng nhiều phương cách như việc sáp nhập giữa Đoàn kịch nói Cửu Long Giang và Đoàn kịch nói Bông Hồng thành Đoàn kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh, rồi về sau lại sát nhập thêm Đoàn kịch trẻ để tăng cường sức mạnh, đến việc nỗ lực dựng các kịch bản đã nổi tiếng một thời như cách làm của Đoàn kịch nói Kim Cương. Nhưng rồi vẫn không thể thoát ra cơn khủng hoảng. Đoàn kịch Kim Cương dừng biểu diễn vào những năm đầu thập niên 90. Âm vang nhất của thời gian khủng hoảng này có lẽ là vở kịch Tình nghệ sĩ (Hồng Phúc) do Hồng Phúc và nghệ sĩ Minh Hoàng phối hợp cùng Nhà hát Hòa Bình dàn dựng vào dịp tết năm 1992. Theo Trần Trọng Đăng Đàn, chỉ 5 suất diễn đầu đã thu hút hơn 10 ngàn khán giả đến rạp15.

     Trong tình hình chung ấy, điểm sáng nhất của sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh là Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm. Sân khấu 5B Võ Văn Tần của câu lạc bộ vẫn sáng đèn hàng đêm và đóng vai trò “giữ lửa” để sân khấu kịch nói thành phố không nguội lạnh. Tại Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm, hai thành tựu của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh được sản sinh và làm cho sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh khởi sắc, đó là: mô hình sân khấu nhỏ và xã hội hóa sân khấu.

     Mô hình sân khấu nhỏ xuất hiện ở các đô thị phương Tây vào cuối thế kỷ XIX. Ưu điểm của sân khấu nhỏ là sự gần gũi và tương tác giữa diễn viên với khán giả, giữa sân khấu và cuộc đời. Sân khấu nhỏ do ưu thế nhỏ gọn nên thích hợp cho những thể nghiệm sân khấu, với những kịch bản có lượng nhân vật cũng như quy mô không gian-thời gian vừa phải. Ở Việt Nam, sân khấu nhỏ từng xuất hiện ở miền Bắc vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nhưng không được khán giả quan tâm. Nhưng tại Thành phố Hồ Chí Minh, thập niên nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sân khấu nhỏ thuộc Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm đã trở thành điểm hút khán giả đến với kịch nói thành phố.

     Sân khấu nhỏ thuộc Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm khởi đầu là nơi thể hiện nghề của các đạo diễn, diễn viên trẻ, vừa tốt nghiệp Trường Sân khấu-Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Tính chất nhỏ gọn về không gian, quy mô khán giả và sự tương tác trực tiếp giữa diễn viên và khán giả của loại hình sân khấu này đã tạo điều kiện cho các đạo diễn, diễn viên trẻ của câu lạc bộ thể hiện khả năng nghệ thuật của mình, tiến hành những thể nghiệm, cách tân trong nghệ thuật trình diễn.

     Trước sự hoạt động hiệu quả và đúng hướng của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm, ngày 7 tháng 7 năm 1997, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định thành lập Nhà hát kịch sân khấu nhỏ. Từ khi thành lập đến nay, Nhà hát kịch sân khấu nhỏ tiếp tục là trụ cột của sân khấu kịch thành phố, vẫn thu hút khán giả hàng đêm, trung bình mỗi năm công diễn thêm 3 tác phẩm mới.

     Ngay từ khi thành lập, mặc dù đơn vị chủ quản là Hội sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh nhưng toàn bộ hoạt động của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm là do các nghệ sĩ đóng góp và chia lợi tức dựa trên doanh số từ vé bán chứ không hề dựa vào ngân sách nhà nước như các đoàn kịch khác. Cách làm này đã mang đến ưu điểm là không dựa vào ngân sách nhà nước. Vì nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì số tác phẩm dàn dựng không được nhiều, thu nhập cho thực hiện vở diễn cũng thấp. Bên cạnh đó, việc dựa vào khán giả để nuôi sống hoạt động của mình khiến cho Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm vừa luôn phải nỗ nực để dàn dựng những tác phẩm chỉn chu vừa năng động để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ của khán giả. Lấy việc thu hút khán giả và giữ khán giả làm mục tiêu, sân khấu kịch tránh khỏi những trì trệ trong hoạt động thời bao cấp. Sự tồn tại và phát triển của câu lạc bộ là minh chứng cho sự đúng đắn của mô hình và phương thức xã hội hóa hoạt động văn hóanghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 21/8/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Nghị quyết xác định: “Xã hội hoá hoạt động văn hoá hướng vào thu hút toàn xã hội, các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến văn hoá, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hoá phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá.

     Theo chúng tôi, sân khấu nhỏ đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thời gian này ở những điểm như sau:

     Thứ nhất, sân khấu nhỏ đã khẳng định tính đúng đắn một hướng tổ chức hoạt động biểu diễn hiệu quả trong bối cảnh các đoàn kịch do Nhà nước quản lý hoạt động theo cách thức cũ bắt đầu bộc lộ những bất cập.

      Thứ hai, sân khấu nhỏ là nơi “giữ lửa” cho sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hoạt động sân khấu cả nước đang lắng xuống. Trong khi các sân khấu đang gặp khủng hoảng về khán giả thì sân khấu nhỏ vẫn biểu diễn hàng đêm và thu hút khán giả đến với mình. Thậm chí tác phẩm Dạ cổ hoài lang (Thanh Hoàng) đã tạo nên hiện tượng “sốt” vé và là tác phẩm có số suất diễn kỷ lục của kịch nói Việt Nam cho đến hiện nay.

     Thứ ba, sân khấu nhỏ là nơi nuôi dưỡng và khẳng định mình của các tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên trụ cột mới của kịch nói thành phố như tác giả kịch bản: Lê Duy Hạnh, Ngọc Linh, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Lâm Quang Tèo…; đạo diễn: Hồng Phúc, Minh Hải, Hoa Hạ, Minh Ngọc, Hồng Vân, Hùng Lâm…; diễn viên: Thành Lộc, Việt Anh, Kim Xuân, Hồng Vân, Thành Hội, Thanh Hoàng… Từ cái nôi sân khấu nhỏ, các tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên này tỏa đi xây dựng các sân khấu kịch nói tại Thành phố Hồ Chí Minh, tạo nên một không khí hoạt động sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh sôi nổi vào thập niên đầu thế kỷ XXI. Cho đến hôm nay, nhiều nghệ sĩ trưởng thành từ sân khấu nhỏ vẫn đang là trụ cột của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh.

     Thứ tư, từ sân khấu nhỏ, kịch nói thành phố thời gian này đã có những tác phẩm gây tiếng vang, thu hút sự quan tâm của khán giả. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu như: Sân ga tình người (Lê Bình), Ngụ ngôn năm 2000 (Lê Hoàng), Chuyện lạ, Diễn kịch một mình (Lê Duy Hạnh), Ngôi nhà không có đàn ông (Ngọc Linh), Dạ cổ hoài lang (Thanh Hoàng)…

     Năm 1997, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh có thêm một sân khấu kịch hoạt động theo mô hình xã hội hóa nữa là Sân khấu kịch Idecaf. Đây là sân khấu kịch đầu tiên nằm dưới sự quản lý của một công ty tư nhân – Công ty trách nhiệm hữu hạn sân khấu-nghệ thuật Thái Dương – do Huỳnh Anh Tuấn làm Giám đốc. Sau khi được thành lập, Sân khấu kịch Idecaf nhanh chóng trở thành địa chỉ quen thuộc của khán giả Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể kể đến những vở kịch do Idecaf dựng thu hút khán giả và gây được tiếng vang như: Xóm nhỏ Sài Gòn (Vương Huyền Cơ), Bí mật vườn Lệ Chi (Hoàng Hữu Đản), Tin ở hoa hồng (Lê Hoàng), Mười hai bà mụ (Nguyễn Khắc Phục), Trái tim nhảy múa (Nguyễn Thị Minh Ngọc), Ngàn năm tình sử (Nguyễn Quang Lập)…

     Tính đến năm 2013, Thành phố Hồ Chí Minh có tổng cộng 9 sân khấu kịch nói chưa kể các sân khấu tạp kỹ và cà phê kịch như: Nhà hát kịch sân khấu nhỏ, Sân khấu kịch Idecaf, Sân khấu kịch Hồng Vân, Sân khấu kịch Sài Gòn, Sân khấu kịch Sài Gòn phẳng, Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh, Sân khấu kịch Nụ cười mới, Sân khấu kịch nói Nam Quang, Nhà hát kịch Thành phố Hồ Chí Minh, trong số đó có 8 sân khấu hoạt động theo mô hình xã hội hóa. Các suất diễn ở các sân khấu diễn ra đều đặn bảy ngày trong tuần. Hàng năm, mỗi sân khấu dựng từ ba đến bốn tác phẩm mới. Trung bình mỗi năm có gần 40 tác phẩm được dựng trên tất cả các sân khấu của thành phố.

     Có thể nói, từ một mô hình táo bạo giữa lúc sân khấu cả nước đang khủng hoảng, sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đã tìm được lối thoát, rồi vươn lên mạnh mẽ, tạo nên một bước chuyển chưa từng có trong lịch sử kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh.Trong khi đó, sân khấu cải lương chưa thể thoát ra cuộc khủng hoảng khán giả. Vị trí giờ đây đã thay đổi, kịch nói đứng đầu trong đời sống sân khấu của Thành phố Hồ Chí Minh. Cải lương từ 16 đoàn trong thời gian 1975-1985 nay chỉ còn một đoàn duy nhất hoạt động là Đoàn cải lương Trần Hữu Trang. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng ở Thành phố Hồ Chí Minh mối quan hệ giữa sân khấu cải lương và sân khấu kịch nói gắn bó rất chặt chẽ. Ở góc độ nào đó, sân khấu cải lương còn là cái nôi nuôi dưỡng đội ngũ tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên cho sân khấu kịch nói. Nghệ sĩ Kim Cương, tác giả kịch bản Lê Duy Hạnh, tác giả kịch bản Ngọc Linh, tác giả kịch bản Nguyễn Thị Minh Ngọc, diễn viên Bảo Quốc, Hữu Châu… và còn nhiều người hoạt động trong lĩnh vực kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh trước đây và cả hiện nay nữa đều xuất thân từ truyền thống sân khấu cải lương hoặc hoạt động cả trên sân khấu cải lương và kịch nói.

     Trong sự phát triển chung của sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh, kịch bản văn học và đội ngũ sáng tác kịch bản văn học đã có nhiều chuyển biến theo hướng đa dạng, gắn bó chặt chẽ với sân khấu kịch và những yêu cầu mang tính chất kinh doanh của các sân khấu.

     Trong gần 20 năm qua, sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đã có một đội ngũ những người viết kịch bản khá đông đảo, đa dạng. Họ có thể là các tác giả kịch bản quen thuộc ở các sân khấu kịch như: Lê Duy Hạnh, Ngọc Linh, Trần Minh Ngọc, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Lê Bình, Minh Khoa, Nguyên Thảo, Vương Huyền Cơ, Phạm Hữu Thông, Kim Oanh, Mỹ Dung, Lê Chí Trung; hay các diễn viên, đạo diễn kịch như: Thanh Hoàng, Trung Dân, Ái Như, Thành Hội, Hồ Thái Hòa, Đỗ Đức Thịnh; hoặc từ lĩnh vực nghệ thuật khác như: điện ảnh với Lê Hoàng, văn học với Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Ngọc Tư. Theo báo cáo tổng kết hoạt động 5 năm (2005 -2010) của Chi hội tác giả thuộc Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay, chi hội có khoảng 50 hội viên, gần một nửa trong số đó vẫn đang viết kịch bản và sống bằng nghề viết kịch bản. Như vậy, sau một thời gian xây dựng và phát triển, sân khấu kịch nói của Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nên cho mình đội ngũ những người viết kịch bản chuyên nghiệp. Đó hẳn là điều mà các trung tâm kịch nói khác của nước ta chưa có được.

     Số lượng các kịch bản văn học đã được dựng thành vở diễn từ 1997 đến nay, tính riêng ở Sân khấu nhỏ, Sân khấu kịch Idecaf, Sân khấu kịch Hồng Vân, Sân khấu kịch Sài Gòn và Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh là hơn 150 tác phẩm, với các thể loại phong phú từ hài kịch, bi kịch đến chính kịch. Đề tài của kịch khá phong phú: từ các vấn đề lịch sử, những vấn đề thời sự đặt ra trong cuộc sống cho đến những vấn đề mang tính triết lý liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình. Riêng từ năm 2005 đến 2010, số lượng kịch bản văn học thu được từ các trại sáng tác thường niên do Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức là 84 kịch bản. Và từ năm 2011-2013, số kịch bản tham gia trại sáng tác do Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã trên 65 kịch bản.

     Trong xu thế phát triển mạnh mẽ hiện nay, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh còn tồn tại nhiều vấn đề mà nếu không kịp thời có những giải pháp khắc phục, chấn chỉnh thì sẽ dễ dẫn đến nguy cơ khán giả lạnh nhạt và xa rời kịch nói như: đặt nặng mục tiêu thương mại, xa rời mục tiêu thẩm mỹ, chất lượng nội dung và hình thức nghệ thuật của kịch bản văn học chưa cao… Những kinh nghiệm về sự hưng thịnh và xuống dốc của sân khấu cải lương, cũng như những kinh nghiệm về sự tồn tại và phát triển của thể loại kịch nói tại Thành phố Hồ Chí Minh trước và sau năm 1975 vẫn còn nguyên giá trị đối với việc duy trì sự phát triển ổn định và bền vững của sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên với nhiệm vụ đặt ra của bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào những hạn chế và giải pháp khắc phục của sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại. Chúng tôi sẽ đề cập và phân tích nội dung này trong một bài viết khác.

     Tóm lại, thời gian từ 1986 đến nay, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đã có những bước chuyển mạnh mẽ. Từ chỗ rơi vào khủng hoảng về khán giả, kịch nói thành phố đã tìm được hướng đi và phát triển, trở thành trung tâm sôi động của sân khấu kịch nói và văn học kịch Việt Nam. Hiện nay, kịch nói giữ vị trí đầu tiên trong hoạt động sân khấu của Thành phố Hồ Chí Minh. Song song đó, văn học kịch của thành phố diễn ra một cách sôi động, chỉ tính riêng các trại sáng tác do Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thì hàng năm có hơn 20 tác phẩm mới được ra đời và nhiều tác phẩm trong số đó đã đến với công chúng thông qua sân khấu kịch nói. Điều đáng tiếc trong sự phát triển của văn học kịch thành phố là hiện nay công chúng chưa được thưởng thức nhiều các tác phẩm văn học kịch qua văn bản.

Kết luận

     Từ quá trình hình thành và phát triển của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như vị trí của kịch nói trong đời sống văn học-nghệ thuật của thành phố, chúng tôi cho rằng kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh có những điểm đáng lưu ý sau: Lịch sử kịch nói Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của lịch sử kịch nói Việt Nam. Mặc dù sự hình thành và phát triển của thể loại kịch nói tại Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh từ khi tiếp thu phương Tây không diễn ra theo con đường thẳng mà có nhiều khúc quanh nhưng đó là một quá trình liên tục, không đứt gãy, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước, đồng thời có những phương thức cải tiến để kịch nói luôn tồn tại ở thành phố này và phát triển mạnh cho đến hôm nay.

     Xã hội hóa sân khấu chính là điểm mấu chốt giúp kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh vượt qua cuộc khủng hoảng về khán giả và phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là yếu tố có tính chất hai mặt để lý giải nhiều vấn đề liên quan đến kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại. Bản chất của xã hội hóa sân khấu là đưa sân khấu kịch nói vận hành đúng quy luật của thị trường. Điều mà sân khấu kịch nói Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh đã từng thực hiện. Nhưng cũng chính từ đây, sự chi phối của thị trường từng chút một đang và sẽ làm cho kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh nhích ra xa quỹ đạo của thẩm mỹ. Lúc này cần phải soi rọi lại những bài học kinh nghiệm “xương máu” mà kịch nói Sài GònThành phố Hồ Chí Minh từng trải qua trước và cả sau năm 1975.

     Cuối cùng, nghiên cứu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh cần phải đặt trong mối tương tác qua lại giữa thể loại kịch nói và cải lương. Mặc dù trong quá trình hình thành và phát triển của mình, kịch nói luôn phải nỗ lực để tồn tại trước sự phát triển mạnh mẽ của cải lương. Nhưng sân khấu cải lương đã trực tiếp hoặc gián tiếp là cái nôi nuôi dưỡng đội ngũ cho sân khấu kịch nói thành phố từ tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên. Chính điều đó cũng góp phần làm nên phong vị riêng của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh so với những trung tâm kịch nói khác trên cả nước.

__________
10 Nguyễn Văn Thành (2008), Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh một chặng đường lịch sử, Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr. 91-92.

11 Trần Trọng Đăng Đàn (2011), Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, TP. HCM, tr. 283, 286.

12 Nguyễn Văn Thành (2008), Sđd, tr. 67.

13 Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và tôi, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội, tr. 351-352.

14 Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu: nghệ sĩ và tác phẩm, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội, tr. 634.

15 Trần Trọng Đăng Đàn (2011), Sđd, tr. 129.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1]. Trần Trọng Đăng Đàn, Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (2004).

    [2]. Trần Trọng Đăng Đàn, Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận, Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh (2011).

     [3]. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử và lý luận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội (2004).

     [4]. Hà Minh Đức, Vũ Đình Long, Nam Xương, Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội (1997).

     [5]. Hoàng Chương, Vấn đề văn học kịch, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội (1996).

     [6]. Phan Kế Hoành, Huỳnh Lý, Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội (1978).

     [7]. Phan Kế Hoành, Vũ Quang Vinh, Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam, 1945-1975: hoạt động sáng tác và biểu diễn, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội (1982).

     [8]. Trần Văn Khải, Nghệ thuật sân khấu Việt Nam: hát bội, cải lương, thoại kịch, thú xem diễn kịch, Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn (1970).

     [9]. Marvin Carlson, Theories of the theatre: a historical and critical survey, from the Greeks to the present, Cornell University Press, New York (1993).

     [10]. Võ Văn Nhơn, Văn học Quốc ngữ trước 1945 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn (2007).

     [11]. Oscar G.Brockett, Robert Findlay, Century of innovation: A history of European and American theatre and drama since the late nineteenth century, Allyn and Bacon, Massachusetts (1991).

     [12]. Đình Quang, Kịch nói qua 50 năm phát triển của văn học cách mạng, Tạp chí văn học, số 11, trg 4-7 (1995).

     [13]. Đình Quang, Kịch nói giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí Văn học, số 7, tr.3-12 (2001).

     [14]. Đình Quang, Điểm qua phương pháp sáng tạo của sân khấu phương Tây, Tạp chí sân khấu, số tháng 10, tháng 11, tr.56-59 (2012).

     [15]. Bùi Chí Quế, Bộ sưu tập Sài Gòn 68, Thư Viện khoa học tổng hợp Tp Hồ Chí Minh (lưu trữ), trg 88-101.

     [16]. Nguyễn Thị Minh Thái, Sân khấu và tôi, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội (1999).

     [17]. Nguyễn Văn Thành, Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh một chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội (2008).

     [18]. Nguyễn Văn Thành, Qua liên hoan kịch nói 1990, Tạp chí văn học, số 2, tr.74 (1991).

     [19]. Tất Thắng, Diện mạo sân khấu: nghệ sĩ và tác phẩm, Nhà xuất bản sân khấu (1996).

     [20]. Phan Trọng Thưởng, Những vấn đề lịch sử văn học kịch Việt Nam (Nửa đầu thế kỷ XX), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội (1996).

     [21]. Viện sân khấu, 20 năm sân khấu Việt Nam (1975-1995), Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội (1995).

Nguồn: Tạp chí Phát Triển Khoa học & Công nghệ, tập 18, số x4-2015

     Mời xem lại:

KỊCH NÓI trong đời sống VĂN HỌC-NGHỆ THUẬT TP. Hồ Chí Minh (Phần 1: Kịch nói TP Hồ Chí Minh từ khi hình thành đến năm 1975) – Tác giả: Lưu Trung Thủy

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Kịch nói trong đời sống văn học-nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (Tác giả: Lưu Trung Thủy)