Kiến trúc nhà lá mái ở đảo Lý Sơn (1)
Tác giả bài viết: NGUYỄN THƯỢNG HỶ
1. Kiến trúc nhà lá mái ở miền Trung
1.1. Sự xuất hiện nhà lá mái
Hơn nửa thế kỷ trước, Tiến sĩ Văn khoa Pierre Gourou – Ủy viên thông tấn Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, đã đi khảo sát các ngôi nhà ở Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định, đã tìm ra những điểm khác nhau của ngôi nhà ở mỗi vùng. Trong mô tả có một chi tiết khá thú vị, đó là một loại nhà ở đã tồn tại từ lâu ở Quảng Trị, có hai tầng mái. Kiểu kết cấu phần mái như vậy giống với các mái nhà ở của các vùng cách xa, từ tận Quảng Ngãi, Bình Định đến Phú Yên, Ninh Thuận, và Bình Thuận. Đến hôm nay ta gọi chung với cái tên là nhà lá mái. Nhà lá mái ở miền Trung gồm có các loại nhà: có thể là nhà rội/rọi (cột chôn xuống đất), nhà thượng Rường hạ Rội (thường có cột ở giữa) hoặc nhà Rường phổ biến (cột kê trên đá tán/đá tảng), đặc biệt nhà có hai tầng mái (mái dưới hay trần đắp đất trên sàn bằng tre hoặc gỗ, tầng trên là khung đỡ bằng tre lợp tranh hoặc lá).
Về nhà lá mái, ở Quảng Trị được mô tả là một loại nhà rường (Pierre Gourou gọi là nhà rương2) nằm trên dải đồi đất bazan ở Cửa Tùng, tại làng Liêm Công Tây. Theo chủ nhân, nó được dựng từ khởi nghĩa Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII. Từ năm 2002 đến nay, chúng tôi có vài lần trở lại các vùng nói trên và đến các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, loại nhà này còn xuất hiện ở vùng trung du, huyện Tiên Phước, Quảng Nam, có nhiều nhất ở huyện đảo Lý Sơn – Cù Lao Ré, tỉnh Quảng Ngãi.
Những năm gần đây, chúng tôi còn phát hiện nhiều ngôi nhà của người Chăm ở Ninh Thuận gọi là Thang Lâm, kiến trúc nằm trong khuôn viên của dòng họ và dành cho người giàu3.
1.2. Tên gọi nhà lá mái ở các vùng
Theo P. Gourou, nhà lá mái là loại nhà rương, mái có hai lớp gồm một mái đầu tiên bằng đất nện để khô và một mái thứ hai lợp tranh, đỡ bằng những phên đan bằng tre thô sơ được bó đất cẩn thận, khoảng cách giữa hai lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc 40cm…4.
Mái nhà có hai lớp mái gồm: Mái đầu tiên được làm bằng đất sét nện để khô và mái thứ hai được lợp bằng tranh được đỡ bằng những phên tre đan thô sơ, rồi được bó đất cẩn thận, khoảng cách giữa hai lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc 40cm. Tương tự ở Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, ngoài trần đan bằng tre còn xuất hiện trần bằng những tấm gỗ ghép lại để đỡ lớp đất sét bên trên. Kiểu kiến trúc này khá phổ biến ở vùng Cửa Tùng, ở phía bắc sông Gianh được gọi là “mái xông”5, hay là trần bích (bích có nghĩa là tường). Tuỳ theo từng vùng có tên gọi khác nhau: Vùng Quảng Trị gọi là nhà mái xông, vùng Quảng Nam gọi là nhà bỏ đất hay trần bích, vùng Bình Định, Phú Yên gọi là nhà lá mái, vùng Ninh Thuận, Bình Thuận người Chăm gọi là thang lâm, vùng Quảng Ngãi, đảo Lý Sơn gọi là nhà đắp.
1.3. Sự tương đồng nhà lá mái giữa các vùng
Qua mô tả của P. Gourou và trong đợt đi khảo sát của chíng tôi về những ngôi nhà ở Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Trị từ năm 2002 đến nay, nhận thấy, nhà có phần chạm khắc đẹp nhất ở Lý Sơn là nhà ông Dương Pháp, thôn Tây An Hải. Ở Quảng Trị, chúng tôi theo mô tả tìm đến làng Liêm Công Tây và Di Loan nơi mà P.Gourou đã đến vào năm 1934, các kiến trúc này đã bị hư hại do chiến tranh và thay mới, hầu như toàn thôn là nhà mới với mái ngói. Từ những tư liệu viết đến hình ảnh kết hợp những đợt thực tế đo vẽ, chụp ảnh chúng tôi có những nhận xét sau:
– Khoảng cách từ trần đất đến mái tranh ở Quảng Trị thấp, ở Quảng Nam là trung bình, Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi là cao, như bảng thống kê sau:
Chủ nhà | Khoảng cách từ trần đất đến mái tranh | Địa điểm |
Ông Nguyễn Huỳnh Anh | 40cm | Tiên Phước, Quảng Nam |
Ông Trần Khiêm | 120cm | Tiên Phước, Quảng Nam |
Bà Dương Thị Hường | 60cm | Đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi |
… | 110cm | Tịnh Phong, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi |
Ông Hà Nhuận | 140cm | Phù Mỹ, Bình Định |
Ông Nguyễn Thanh Tâm | 130cm | Thị trấn Sông Cầu, Phú Yên |
– Nét chung: Phổ biến ở phía Nam sông Gianh (Quảng Trị từng tồn tại những ngôi nhà lá mái); nhà lá mái thường là nhà của phú nông, vì nhiều tài sản, vật dụng quý hiếm cần bảo quản phòng tránh hoả hoạn; nhà lá mái được làm bằng vật liệu tre, gỗ và đất đá, khai thác tại chỗ; trần của nhà lá mái được đắp đất rất nặng, chống mưa nắng, bão dữ ở miền Trung, đặc biệt là ở vùng đảo Lý Sơn; nhà lá mái luôn có hai kiểu thức kết cấu vì nóc là vì xuyên tâm và vì có trụ trốn/con đội; khoảng cách từ trính (trến) đến đòn đông khoảng 40- 50cm (nhà ở Quảng Trị), từ 1-2m (nhà ở Quảng Nam, Quảng Ngãi), từ 1,2 – 1,5m (nhà ở Bình Định).
2. Vài nét khái quát về đảo Lý Sơn
Đảo Lý Sơn là một huyện đảo, tỉnh Quảng Ngãi nằm cách đất liền khoảng 25 hải lý, có 3 xã gồm An Hải, An Vĩnh và An Bình. Lý Sơn có những ưu thế để phát triển kinh tế – xã hội, kinh doanh du lịch. Trong chương trình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi, đảo Lý Sơn được xác định là một trong những trung tâm nghề cá lớn của tỉnh, có vai trò quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt đối với việc bảo vệ quyền lãnh hải của quốc gia. Từ đảo Lý Sơn có thể quan sát và khống chế cả vùng biển của miền Trung, đồng thời còn là chốt tiền tiêu nằm án ngữ một trong những con đường quan trọng vươn ra biển Đông từ cảng Dung Quất và Khu Kinh tế mở Chu Lai. Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện đảo 800ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 400ha, đất lâm nghiệp 182ha, đất chưa sử dụng là 218ha. Đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng của huyện đảo Lý Sơn, nguồn tài nguyên này đã thu hút khoảng 62% lao động cả huyện và nuôi sống gần 50% số dân trên đảo. Mật độ dân số khá cao, ước khoảng 2.000 người/km2.
Lý Sơn là vùng đất kế thừa văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Champa từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Vết tích văn hoá vật chất của họ được để lại qua các dấu tích chứa trong tầng văn hoá lớp trên của di chỉ Xóm Ốc và suối Chình. Vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, cư dân Việt đến khai khẩn, lập làng trên đảo. Họ là những ngư dân vùng An Hải, Sa Kỳ của huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh gồm 15 vị tiền hiền của 15 dòng họ lớn di cư ra đảo phân chia khu vực cư trú ở phía Đông và phía Tây đảo Lý Sơn.
3. Kiến trúc nhà lá mái ở đảo Lý Sơn
Lý Sơn là một hòn đảo yên bình giữa biển, ít chịu ảnh hưởng chiến tranh, xu hướng đô thị hóa do vậy các di tích kiến trúc cổ được bảo tồn chu đáo, còn tương đối nguyên vẹn, rất phong phú về số lượng và đa dạng về loại hình. Qua khảo sát thực tế kiến trúc tại huyện đảo và các địa phương khác, tôi nhận thấy nơi đây tập trung nhiều kiến trúc nhà ở mà từng tồn tại khá phổ biến ở miền Trung trước đây từ Thanh Hóa đến Bình Định. Về loại hình, trên cơ sở đặc trưng của kết cấu kiến trúc, chúng tôi chia nhà ở của đảo Lý Sơn thời xa xưa theo ba loại, gồm nhà tranh tre, nhà rường đủ gỗ và nhà đắp. Về số lượng, qua khảo sát hệ thống nhà cổ trên đảo Lý Sơn chúng tôi thống kê được khoảng 19 ngôi nhà rường làm bằng gỗ to lớn, chắc chắn, còn giữ nguyên kết cấu kiến trúc cũ cùng các chi tiết chạm khắc gỗ6. Về niên đại, những ngôi nhà lá mái ở đảo Lý Sơn sớm nhất là cuối thế kỷ XIX, muộn nhất vào năm 1962. Về nguồn gốc chủ yếu mua từ Đức Phổ, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi); Tam Kỳ (Quảng Nam). Về thợ thi công, chủ yếu người gốc Quảng Nam (Văn Hà) và địa phương.
3.1. Các bộ phận và kỹ thuật dựng nhà lá mái
– Mái nhà
Ở thời điểm cách đây khoảng 50 năm là rất khó khăn để có ngói lợp nhà: xa trung tâm sản xuất ngói, giao thông cách trở (vùng hải đảo), là vật liệu dễ vỡ, đắt đỏ. Vì vậy, qua sự trải nghiệm của người đi trước cộng với tri thức bản địa đã giúp cho những con người ở vùng này sử dụng tối đa các vật liệu sẵn có tại địa phương trong phương cách dựng nhà.
Phần mái đất (trần): Tre từ đất liền chở về bằng thuyền, chẻ nhỏ đan thành từng tấm rồi ngâm nước biển. Thời gian ngâm kéo dài đến 3 tháng là tốt nhất. Các tấm tre này được lắp vào trần nhà, được đỡ bằng những đà gỗ hoặc tre (giữ nguyên thân) cũng được ngâm nước biển, kế tiếp là một lớp đất bazan ở chung quanh miệng núi lửa có độ dẻo được nhào trộn với cỏ Đế (mọc hoang) đắp lên trên các tấm tre này. Lớp hỗn hợp đất-cỏ này được đắp lên, nén chặt bằng chày, búa gỗ cho đến khi đạt được độ dày khoảng 8-10cm. Đa số những ngôi nhà lá mái ở đảo Lý Sơn có trần bằng những tấm ván gỗ dày 3cm ghép lại thay cho tre ngâm.
Phần mái tranh bên trên: Hiện nay hầu như không còn nhà lá mái nào ở huyện đảo Lý Sơn còn giữ phần mái tranh, đa số được lợp bằng ngói mới, tấm lợp fibro-xi măng. Qua tìm hiểu từ những chủ nhân lớn tuổi thì ngày trước các mái nhà đều lợp tranh. Nguồn vật liệu này chủ yếu lấy từ đất liền, một phần nhỏ khai thác tại chỗ. Để đỡ lớp mái tranh dày từ 15-20cm) người dân xứ đảo làm bộ khung tre đỡ mái có đầy đủ rui, mè, đòn tay, kèo. Tuy nhiên bộ khung này được nâng lên cách mái đất từ 60-110cm (vị trí nóc) bằng nhiều đoạn gỗ, tre ngắn chống trực tiếp trên mái đất; vững vàng hơn là các đầu cột bên dưới được tính toán độ cao đủ vượt qua khỏi lớp đất và liên kết với các thanh dầm, kèo tre bên trên. Ở các vị trí này đều có đắp ụ đất để tránh xô lệch.
– Vách nhà
Là loại nhà Rường, hầu như toàn bộ khung nhà, mái đất, mái tranh đều chịu lực trên các cột gỗ kê trên đá tán. Vậy nên, phần thân/vách nhà nếu là kết cấu bằng đất cũng không hề gì. Lớp đất bao bọc quanh nhà cụ Nguyễn Cứ dày 10-12cm, đến nay vẫn còn tồn tại nhờ kết cấu khá bền vững. Cắt ngang một đoạn vách gồm các thành phần sau:
Phần lõi: thân cây săng7 đặt đứng theo chiều cao thân nhà gọi là cây mầm, tre cũng được ngâm bùn chẻ nhỏ đặt ngang theo chiều dài nhà gọi là cây trĩ. Cây săng và tre được liên kết với nhau bằng dây đay (loại dây dùng để đan lưới đánh cá) tạo ô có kích thước 10x10cm. Phần bao: cũng đơn giản như mọi nhà vách đất chứa hỗn hợp đất bazan-cỏ dế (đào hố rồi đổ hai loại vào với nhau, dùng chân nhào kỹ, trát đều lên các lớp cốt tre và cây săng sao cho bề mặt vách đất khá phẳng cả hai mặt). Thay vì dùng những nguyên liệu phải lấy từ đất liền quá khó khăn, người dân huyện đảo khai thác nguồn nguyên vật tại chỗ như: đá san hô, đá từ núi lửa; chất liên kết: vôi và nhựa cây bời lời, dây tơ hồng.
– Khung nhà
Trong 3 lần khảo sát (năm 2007, 2008, 2009), trực tiếp quan sát, đo vẽ 9 ngôi nhà lá mái ở đảo Lý Sơn8, tôi có nhận xét như sau: Bộ khung nhà bằng gỗ – giàn trò được kết cấu theo kiểu nhà Rường miền Trung Việt Nam. Cả 9 ngôi nhà đều có qui mô của loại nhà 3 gian 2 chái (người địa phương gọi là nhà đủ gỗ). Hầu hết chúng đều trải qua nhiều lần tu bổ, sửa chữa, nền nhà được lót bằng gạch men, gạch hoa nên đế cột kê trên đá tán bị che khuất; những hàng cột ngoài đỡ mái hiên cũng thay đổi bằng chất liệu mới như xây đá, gạch tô vữa xi măng.
Các kiểu thức kèo nóc vần giữ nguyên như ở đất liền. Phổ biến là kèo giao nguyên có trụ trốn (con đội) với hình thức đế tôm bên dưới trên có cột tròn cách điệu hình quả bí, áp hai bên là lá quả hay ấp quả hình cánh dơi (cánh ác) đỡ bụng của cặp kèo nóc. Kết cấu này được gọi tắt là “vì nóc kiểu vì kèo“. Kiểu thức này phổ biến khắp các huyện trong đất liền của tỉnh Quảng Ngãi, mang phong cách phường thợ Văn Hà của Quảng Nam9. Và phổ biến hơn là các thanh kèo đỡ đòn tay, chủ yếu là kèo chồng (kẻ chuyền) với 3 lần chồng (tam đoạn). Kỹ thuật này hợp với chất liệu gỗ mít (không đủ chiều dài) và phải đỡ một diện rộng mái gỗ có đắp đất ở bên trên.
Trính (tránh, trến) nối hai cột cái (tiền, hậu) với trính ngang (ngay) có dáng thẳng và trính lận có dáng uốn cong hai đầu. Là loại nhà 3 gian 2 chái, số cột có xu hướng giảm để vừa tiết kiệm gỗ và để tăng không gian sinh hoạt, khung nhà có từ 42 cột (6 ngang x 7 dọc) đến 36 cột và chỉ còn 24 cột. Nhà có nhiều cột như nhà ông Lê Lý, xóm Trung Hòa, thôn Đông, xã An Hải; nhà giảm số cột như chủ hộ Bùi Đồn có 24 cột. Chủ nhân khi dựng nhà đã giảm cột cái tiền bằng cách trốn cột này đặt trên lưng trính trường, tuy nhiên cột trốn này vẫn được đưa lên đỡ mái tranh bên trên và cột cái tiền ở đầu hồi vẫn giữ nguyên (không trốn). Kỹ thuật dựng nhà này người Quảng gọi là “con tiền cái hậu”. Một số kích thước so sánh hàng cột cái và cột hàng hiên (cắt ngang):
Địa điểm | khoảng cách 2 cột cái (cắt ngang) | Khoảng cách cột hàng hiên (cắt ngang) |
Thị trấn Đức Phổ | 1400 | 1840 |
Sơn Tịnh, Tịnh Phong | 1720 | 1950 |
Dương Thị Hường, An Hải, Lý Sơn | 1560 | 1570 |
Lê Lý, An Hải, Lý Sơn | 1720 | 1600 |
Kiểu thức trang trí: vẫn là hình ảnh lặp lại của ngôi nhà rường miền Trung nói chung và nhà ở Quảng Ngãi nói riêng. Phần mái đua – hiên của các ngôi nhà ở Lý Sơn cũng như các vùng khác của tỉnh Quảng Ngãi được mở rộng thêm (xem bảng so sánh). Người dân đảo lại thường dùng phần không gian này để tiếp khách, sinh hoạt gia đình. Và các đề tài trang trí, chạm khắc trên gỗ cũng tập trung ở không gian này. Trang trí đẹp và công phu nhất là nhà ông Trương Đạt với các ô trang trí trần gỗ10 gọi là bảng rui tàu và hệ thống bảng lồng (cách gọi của TS. Đoàn Ngọc Khôi). Qua ảnh, chúng ta có thể bắt gặp các kỹ thuật chạm nổi (lấy đất) với đề tài cuốn thư kết hợp hoa lá, đan xen đôi chim khổng tước (song điểu) hoặc các ô đôi cá chép bơi trong lớp sóng nước cách điệu (song ngư), cả hình đôi rồng (song long) cách điệu từ dây lá đang chầu ô chữ hỷ. Đơn giản hơn là nhiều ô hộc để trống ở trần nhà như nhà ông Bùi Đồn nhưng các khung chỉ được bào soi công phu.
3.2. Mặt bằng sinh hoạt tổng thể
Nhà lá mái ở đảo Lý Sơn không thay đổi lớn về các công năng sử dụng của ngôi nhà 3 gian 2 chái và nhà phụ (nhà ngang, nhà dưới). Gian giữa hậu làm gian thờ; gian giữa tiền để tiếp khách; 2 gian 2 bên đặt phản gỗ; 2 chái và phần sau vách ngăn bằng gỗ (phên lụa) là buồng nghỉ, cất đồ đạc; nhà phụ chứa thực phẩm, nông ngư cụ và nấu ăn. Theo lời người dân kể, nhà lá mái thường là nhà của những người giàu có, nhiều của; và để đề phòng cướp biển, giặc Tàu Ô, người xưa đã làm thêm rầm hạ gần sát nền để cất giấu tài sản hoặc có một hầm bí mật chôn giấu của cải ở trên núi. Trên đảo Là một làng chài lớn cách xa đất liền. Quá trình sinh tồn và an cư trên vùng đất mới buộc người dân không ngừng lao động, sáng tạo. Họ khai thác những gì có từ biển, diện tích đất trồng nhỏ hẹp của mình để phục nhu cầu sinh hoạt cộng đồng, gia đình: sử dụng đá của núi lửa, đá vôi (san hô) xếp đặt tạo đường đi lối lại trong xã, trong làng, làm hàng rào cho các sân vườn gia đình, làm bờ kè ở sát bờ biển,…
4. Sự cấp thiết và ý nghĩa việc bảo tồn kiến trúc nhà lá mái
4.1. Những nguyên nhân và sự cấp thiết bảo tồn
– Vật liệu tranh, tre, gỗ đến thời kỳ bị hư hỏng, có tuổi thọ không dài, tính ổn định thấp trong điều kiện khí hậu ở miền biển, miền Trung Việt Nam.
– Người dân hay chủ nhân ngôi nhà hôm nay không hiểu giá trị của loại nhà có trần bằng đất và mái bằng tranh, một loại kiến trúc đặc biệt chỉ có duy nhất ở miền Trung.
– Nguồn vật liệu tranh rạ dùng lợp mái trở nên khan hiếm do người dân không trồng nữa hoặc các nẩm tranh mọc tự nhiên cũng bị phá để trồng các loại cây khác) và cả người thi công không hiểu biết về cách xử lý bảo quản truyền thống các vật liệu thảo mộc này. Việc phun thuốc chống mối mọt loại vật liệu này cũng rất tốn kém.
– Đô thị hóa nông thôn. Do tác động của vật liệu mới xuất hiện ở thành thị như: bê tông, tôn, ngói mới, gạch men,… cùng với sự hiểu sai về “xóa bỏ nhà tạm là tranh, tre, nứa” nên chủ nhân nhanh chóng phá bỏ các mái tranh, mái đất bằng cách lợp tôn, lợp ngói mới, thay trần đất bằng nhựa hoặc bê tông hoá cột, trụ, tường,… nền lót gạch men, khung cửa bằng kim khí,… Đồng thời mong muốn thay đổi ngôi nhà xưa sang kiến trúc hiện đại, chủ nhân đã tháo dỡ, thay thế một số bộ phận hoặc bán ngôi nhà của mình đi. Việc mở rộng mặt bằng sinh hoạt (nhà giảm số cột) để phù hợp với điều kiện sinh hoạt hiện tại của gia đình; sự phân chia hoặc quy ước về chỗ ở của các thành viên trong gia đình bị xóa bỏ hoặc cải biên (phong tục) đã dẫn đến kiến trúc thay đổi.
4.2. Ý nghĩa bảo tồn kiến trúc nhà lá mái
Nhiều năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu kiến trúc Việt Nam quan tâm đến việc nghiên cứu các kiến trúc từ vật liệu thiên nhiên đến bố trí không gian hòa hợp, thân thiện với môi trường sống chung quanh; đặc biệt đối với những ngôi nhà trong vùng đô thị hóa, trở thành các đô thị lớn, thành phố lớn. Một chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu kiến trúc vùng nhiệt đới, PGS.TS. Hoàng Huy Thắng đã đề cập kiến trúc nhà ở với những khái niệm như: “kiến trúc sinh thái“, “kiến trúc môi trường”, “kiến trúc xanh”, “kiến trúc có hiệu quả năng lượng” và “kiến trúc bền vững”.
– Kiến trúc sinh thái: Những ngôi nhà xưa – nhà lá mái, có phải là kiến trúc sinh thái không?. Ta có thể nêu lên những yếu tố của ngôi nhà mà GS. Thắng đã đề cập về khái niệm sinh thái. Ngôi nhà nằm ở vùng đồi gò thuộc Quảng Trị, Quảng Nam và cả Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đều chịu ảnh hưởng vùng nhiệt đới gió mùa, gió Lào nóng. Vậy để chống nóng hữu hiệu, người ta phải đắp thêm lớp đất trung gian ở giữa mái để giảm bức xạ nhiệt của mặt trời. Lớp vỏ bao mái và thân nhà cũng giảm nóng và giảm lạnh. Như vậy loại mái đất trộn rơm đã khắc phục cái bất lợi của thiên nhiên, khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới cũng như phòng tránh những dông sét thường xảy ra, có thể gây ra hỏa hoạn cho những ngôi nhà này bất cứ lúc nào. Đặc biệt ở đảo Lý Sơn xưa kia thường bị nạn giặc Tàu Ô đến cướp bóc, đốt phá việc làm nhà lá mái với trần đắp đất là cách chống cháy hiệu quả nhất11.
– Kiến trúc môi trường: Tính ưu việt của loại nhà lá mái, là nguồn nguyên liệu được khai thác tại chỗ mà không làm ảnh hưởng môi trường sống chung quanh. Như đã mô tả ở phần trên, ngoài việc lấy đất ở chân đồi làm mái, thân nhà, lấy đá gia cường, gia cố bờ kè, lối ngõ vững chãi, vừa ấm cúng vừa xanh mát cho nơi cư trú. Ở Cù Lao Ré không có rơm rạ, người ta dùng cỏ dế, đá núi, đá san hô làm mái nhà, thân nhà, ngõ đi. Tại Bình Định, Phú Yên người ta dùng lá dừa khô, tranh săn, đá ong xây dựng nhà.
– Điều mà chúng ta cần phải luôn suy nghĩ trong điều kiện sống hôm nay là những vật liệu mà chúng ta đã và đang sử dụng hôm nay đều tạo ra nhiều chất thải gây nguy hại đến nguồn nước, không khí, đến tầng ozone mà nhiều nhà môi trường đang cảnh báo như lượng khí thải độc, bụi, khói từ các nhà máy sản xuất xi măng, từ nhà máy thép, kính, inox, nhôm, nhựa; gạch nung bằng củi, than đá; các mỏ đá được khai thác bằng hoá chất, chất nổ,… Lớp đất làm trần ngăn cách mái tranh giữ cho ngôi nhà ấm áp vào mùa đông, mát mẻ vào mùa hè góp một phần tiết kiệm năng lượng điện, không phải sử dụng quạt, máy điều hòa.
– Một vấn đề là nhà lá mái có là kiến trúc bền vững không? Không phải là sự bền vững của vật liệu mà là sự bền vững hệ sinh thái. Theo TS. Nguyễn Đức Nguyên: “Khó có một định nghĩa tách bạch, rạch ròi về kiến trúc bền vững…”. Tuy vậy, nhóm danh từ kiến trúc bền vững hiện nay đã được dùng khá phổ biến và các học giả đều thừa nhận nó có nguồn gốc từ khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX. Tác giả lưu ý đến tính bền vững môi trường và bền vững xã hội với các yếu tố chính sau: Giảm chất thải, nguồn phát sinh chất thải vào môi trường; sử dụng vật liệu tái sinh dạng thô; loại trừ các chất độc hại; đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động; nâng cao chất lượng cuộc sống, cân bằng những tác động lên cộng đồng cư dân địa phương.
Như vậy, kiến trúc nhà lá mái đã sử dụng các loại vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường, không tạo ra sản phẩm chất thải, khí độc trong quá trình gia công chế biến cũng như khi tháo bỏ làm ảnh hưởng môi trường sống của cộng đồng xung quanh, trở thành một phần trong hệ thống sinh thái như cách diễn giải của Philip Swenz (thực vật nuôi động vật, động vật nuôi thực vật). PGS. Nguyễn Minh Sơn nói rằng: “Kiến trúc truyền thống Việt Nam luôn hướng hòa nhập thân thiện với thiên nhiên”. Ken Yeang một kiến trúc sư nổi tiếng của Malaysia đã đưa ra khái niệm về “lớp vỏ công trình” coi đó là “bộ lọc môi trường” để lọc khí hậu từ bên ngoài vào bên trong nhà. Lớp vỏ công trình gồm: mái, thân nhà; đó chính là “cầu nối giữa con người với thiên nhiên…”; Và nói thêm “ta gìn giữ, bảo tồn lại kiến trúc này không chỉ để bảo tồn những gì được để lại, mà phải đảm bảo sự tồn tại của sinh quyển như một tổng thể”.
Về ý nghĩa về giao lưu văn hóa, những ngôi nhà lá mái ở đảo Lý Sơn rất giống với những ngôi nhà lá mái truyến thống của người Chăm ở Ninh Thuận đã được Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã phục dựng. Đây cũng là những ngôi nhà mà ông Pierre Gourrou đã bắt gặp ở Nam Sông Gianh vào nửa đầu thế kỷ XX. Đặc điểm ngôi nhà này có 2 tầng mái, mái bên dưới (trần) đắp đất, mái trên lợp ngói. Tuy nhiên theo nhận định của chúng tôi mái ngói này thay cho mái tranh hoặc lá được lợp ban đầu. Vì vậy, có thể nói rằng nhà lá mái ở đảo Lý Sơn là sự tiếp thu, kế thừa văn minh Chăm, sáng tạo phù hợp với điều kiện địa phương.
Thay cho lời kết luận về ý nghĩa bảo tồn cấp thiết của PGS. Chữ Văn Tần:
Nếu Hội An có phố cổ như một bảo tảng sống về diện mạo của đô thị cảng cổ thì ở Lý Sơn hệ thống nhà ở cổ truyền rất độc đáo của một làng nông chài xứng đáng được bảo tồn và tôn tạo phục vụ cho việc tìm hiểu một dạng văn hóa vật chất truyền thống của người Việt và giới thiệu rộng rãi cho khách tham quan du lịch trong và ngoài nước12.
_________
1. Bài viết đã đăng trên tạp chí Kiến trúc, Hội Kiến trúc sư Việt Nam, số 2 năm 2022, dưới cùng tiêu đề; có chỉnh sửa.
*. Nguyên Trưởng Phòng nghiệp vụ – Bảo tồn, Trung tâm Quản lý Di tích Danh thắng Quảng Nam.
2. Theo mô tả của Pierre Gourou, phần liên kết hai cột cái theo hàng ngang bằng quá giang (lòng trếng) và hàng dọc bằng một xà gọi là xuyên. Trên quá giang và xuyên là sàn (gọi là đố bản) được khép kín về phía cửa vào bằng những tấm ván, trên đó để các loại đồ dùng, nên có tên gọi là rương (cái hòm gỗ). Ở Quảng Nam gọi là rầm thượng và các tấm ván bọc xung quanh sàn để đồ này gọi là khuôn củi. Ở Bình Định gọi là lẫm thượng, nhưng bố trí ở nhà cầu và nhà lẫm để chứa đồ quý và lương thực. Rương hay Rường cũng là một loại nhà giống nhau của miền Trung.
3. Bảo tàng Dân tộc học đã phục dựng lại ngôi nhà này.
4. Pierre Gourou (2001), “Phác thảo Nghiên cứu về nhà Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định (Esquisse d‟une étude l‟habitation annamite, dans L‟Annam Septentrional et central du Thanh Hoa au Binh Dinh. Les éditions d‟art et d‟histoire. Paris), bản dịch của Đào Hùng, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Thừa Thiên Huế, số 4 (34).
5. Tường hai đầu hồi bằng đất gọi là tường xông, vì thế mái đất cũng được gọi là mái xông.
6. Trong số 19 ngôi nhà này tác giả chuyên đề này chỉ mới khảo sát được 9 ngôi nhà lá mái, con số này có thể tăng lên nếu tiếp tục khảo sát. Theo Thống kê của trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh hợp tác với khoa Kiến trúc của trường Đại học Nữ Chiêu Hòa, Nhật Bản thì số nhà lá mái ở đảo Lý Sơn chiếm 63,33% gồm 19 nhà trong số 30 nhà đã khảo sát.
7. Đây là loại cây thân gỗ, nhỏ được cột lại thành bó kẹp theo các mạn thuyền buôn bán đưa từ vùng biển phía Nam về.
8. Danh sách nhà lá mái ở huyện đảo Lý Sơn đã khảo sát: ông Lê Lý, thôn Tây An Hải; ông Dương Định, thôn Tây An Hải; ông Bùi Đồn, thôn Tây An Hải; bà Dương Thị Hường, thôn Tây An Hải; ông Nguyễn Hạp, thôn Đông An Hải; ông Trương Đạt, thôn Đông An Hải; ông Nguyễn Cứu, thôn Đông An Vĩnh; ông Võ Hiển Đạt, thôn Tây An Vĩnh; ông Dương Pháp, thôn Tây An Hải.
9. Ở Quảng Nam có hai phường thợ mộc: thợ Kim Bồng ở phường Cẩm Kim, thành phố Hội An (phía Bắc); thợ Văn Hà, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh (phía Nam). Cả hai phường thợ có nguồn gốc từ vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh. Qua phỏng vấn, đa số các cụ cao niên của đảo đều cho biết, hầu hết những ngôi nhà này đều do phường thợ Văn Hà dựng nên. Và cũng qua phong cách, kiểu thức của trính, kèo, phần trang trí trong ngôi nhà, tôi xác nhận đó là phong cách dựng nhà của phường thợ Văn Hà.
10. Loại trần gỗ có trang trí này rất hiếm chỉ thấy xuất hiện ở Quảng Nam: là nhà của ông Lê Phước Câu (thị trấn Ái Nghĩa, Đại Lộc) và cụ Nguyễn Sắc, thôn Mỹ An, xã Đại Quang, Đại Lộc (ảnh 10c). Tuy nhiên tấm ván trang trí này nằm ở trần mái ở kèo lòng ba, không phải hiên.
11. Nguyễn Thượng Hỷ (2014), “Làm nhà chống giặc Tàu Ô ở Đảo Lý Sơn”, báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 24, ngày 29-6-2014.
12. Đoàn Ngọc Khôi, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Vũ, Nguyễn Văn Bốn nghiên cứu và biên soạn (2002), Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn, UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở KH-CN và Môi trường xuất bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đoàn Ngọc Khôi, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Vũ, Nguyễn Văn Bốn nghiên cứu và biên soạn (2002), Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn, UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở KH-CN và Môi trường xuất bản.
Hoàng Huy Thắng (2006), “Kiến trúc sinh thái Việt Nam”, Tạp chí Kiến Trúc, số 136.
Lê Trọng (2007), Lý Sơn, đảo du lịch lý tưởng, Nxb. Văn hóa Thông tin.
Philip S. Wenz (2007), “What is an Ecological House”,
https://www.sfgate.com/green/article/What-is-an-ecological-house.
Pierre Gourou (2001), “Esquisse d‟une étude l‟habitation annamite, dans L‟Annam Septentrional et central du Thanh Hoa au Binh Dinh”, Les éditions d‟art et d‟histoire, Paris, bản dịch của Đào Hùng, “Phác thảo Nghiên cứu về nhà Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Thừa Thiên Huế, số 4 (34).
Trung tâm Bảo tồn Di sản di tích Quảng Nam (2008), “Nhà lá mái ở Quảng Nam – kiến trúc sinh thái”, trong Nhà ở cổ truyền dân gian người Việt ở Quảng Nam, trang 23-40.
Nguồn: Nghiên cứu văn hóa miền Trung 2022,
Chuyên đề Di sản kiến trúc truyền thống, Nxb Đại học Huế
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Kiến trúc nhà lá mái ở đảo Lý Sơn (Tác giả: Nguyễn Thượng Hỷ) |