Mạn đàm về chữ “Nho – 儒” trong các tranh luận về Nho giáo, Nho học xưa nay

OPENLY AND FRIENDLY DISCUSSION
ABOUT THE CONCEPT “NHO”

HÀ ĐĂNG VIỆT
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

TÓM TẮT

     “Nho giáo”, “Nho học”, “Nho gia” hay “Nho thuật”… là những khái niệm rất đỗi quen thuộc đối với những ai từng trải qua trường lớp Việt Nam và các nước thuộc hệ quy chiếu Hán văn. Nhưng để biện biệt cho tường minh khái niệm và lai lịch của nó thì không hẳn nhiều người hiểu một cách thấu đáo. Bài viết này xuất phát từ góc độ văn hóa học để đi đến ngọn nguồn của khái niệm thông qua tổng quan và lí giải các cách hiểu khái niệm này của giới học giả Trung Hoa và Việt Nam trong lịch đại, ngõ hầu gửi tới độc giả trong, ngoài học giới một cách hiểu thấu triệt nhất về khái niệm quan trọng và ý nghĩa này.

Từ khóa: Nho, Nho giáo, Nho học.

ABSTRACT

     Confucianism and confucianist scholar are very familiar concepts for anyone who have been being trained in the countries of “”Han scipt” reference system. But not all the people can clearly understand the concepts above. The paper comes from the perspective of cultural science to find out the origin of the concept through an overview and explanation of the ways of understanding this concept of Chinese and Vietnamese scholars. The objective of the paper is in order that readers and scholars must understand thoroughly the most aspects of the concept.

Keywords: Confucianism, confucianist.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Cơ sở kinh tế – xã hội cho sự ra đời của Nho giáo, nội dung hoặc cấu trúc của học thuyết Nho giáo, quá trình ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt Nam phong kiến và cả hiện đại nữa về các mặt: phong tục, đạo đức, lối sống, hành vi, tư tưởng, nhân sinh quan, thế giới quan, hay trong xây dựng các thiết chế xã hội, qui đinh luật pháp hay khoa cử, mặt tích cực hay tiêu cực… là những điều chúng ta đã bàn đến nhiều. Tất nhiên là ở đó có những điểm đã đi đến thống nhất và không hẳn đã hết những chỗ còn bàn cãi.

     Với điều này, cần kể đến công trình dày dặn sau đây: Trần Trọng Kim với Nho giáo [4], Cao Xuân Huy với Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu [2], Trần Đình Hượu với Những vấn đề triết học và lịch sử tư tưởng [3]Đó là những công trình có hệ thống về lịch sử và cấu trúc, tư tưởng Nho giáo đã được định danh và có quyền uy khoa học mà các bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan đều dẫn dụ hoặc dùng làm hệ toạ độ tham chiếu. Ngoài ra còn có những cuộc hội thảo về Nho giáo, ở đó tập trung nhiều bài viết lẻ đề cập cụ thể đến từng sự hiện diện của Nho giáo, Nho học suốt thời gian tồn tại của nó trong đời sống xã hội – khoa cử – học thuật Việt Nam. “Nhưng chính đối tượng – Nho giáo là gì, nhà Nho là ai – thì chưa xác định” (Trần Đình Hượu).

2. Nội dung

     Điều mà học giả Trần Đình Hượu đặt ra và đau đáu cho đến nay vẫn còn đó: “Ở Việt Nam, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu là Nho hay cả Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu nữa cũng là Nho? Chỉ các ông Nghè, ông Thám là Nho hay cả các thầy đồ và thường kiêm cả thầy thuốc, thầy địa lí, thầy số nữa, cũng là Nho? Chỉ những người trung nghĩa như Lí Trần Quán, các di thần nhà Lê – và khác hơn một chút, các nhà Nho Cần Vương cuối thế kỉ XIX – là Nho hay cả những người ẩn dật như Lí Tử Cấu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, cả những người nổi dậy chống triều đình như Cao Bá Quát, Hoàng Phan Thái cũng là Nho? Chỉ những người lo tu dưỡng đạo đức, “tiến lên thì làm quan, lui về thì làm thầy” mới là Nho hay cả những người quân sự như Trần Quốc Tuấn, nhà kinh tế như Nguyễn Công Trứ cũng là Nho? Đã là Nho thì chỉ thừa nhận kinh truyện Nho gia, bài xích mọi dị đoan hay cũng có thể đồng thời có cả tư tưởng Lão – Trang, Âm dương, Phật giáo? Với những người rất thường gặp có tư tưởng phức tạp như vậy thì nên phân loại thế nào? Phải chăng có nhà Nho chân chính, có loại nhà Nho pha tạp, có loại nhà Nho giả hay nhà Nho là như thế?” [3, tr.54].

     Tất cả những trăn trở đó đã khiến cho các lớp hậu học không khỏi mông lung và tự thấy như là trách nhiệm thế hệ của mình. Vì lẽ đó, công việc tìm đáp án cho niềm khắc khoải của bậc tiên sư họ Trần từ quan điểm học thuật để hiểu một cách minh xác nội hàm các khái niệm ấy, không thể nói là không có ý nghĩa! Cũng vì thế đương nhiên, ở đây sẽ không đề cập đến những vấn đề nói ngay ở đầu nữa.

     Đức Khổng Tử (551-479 Tr.CN) được coi là người sáng lập ra Nho giáo trên cơ sở phát triển tư tưởng, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng của Chu Công Đán (tức Chu Công đã cùng Chu Vũ Vương xây dựng nhà Chu). Chu Công đã xác lập đẳng cấp trong xã hội gồm có: thiên tử – chư hầu – khanh, đại phu – sĩ. Chế độ đẳng cấp này được giai cấp thống trị các triều đại sau chịu ảnh hưởng tiếp nhận triệt để. Ông đề ra các thể chế như phong tước, triều kiến, thăm hỏi, tang tế…; đề ra quy định về trang phục như “ngũ phục” (5 loại quần áo mặc khi có tang), “ngũ lễ” (tân, quân, gia, tam tòng, tứ đức)… làm cho quan hệ đẳng cấp có tôn ti trật tự, bảo đảm ổn định xã hội. Đồng thời Chu Công cũng định ra lễ nghi và nhạc trong triều đình, quy định chặt chẽ về nhạc và điệu múa ở các đẳng cấp khác nhau: hội hè, yến tiệc, hôn thú, ma chay… phải có kiểu riêng. Chế độ lễ nhạc mà Chu Công soạn ra tương đối hoàn chỉnh, giúp cho xã hội ổn định trật tự và phát triển và có ảnh hưởng sâu sắc đến các triều đại sau này. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ “Lục kinh” gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu Kinh Nhạc (về sau Kinh Nhạc thất truyền). Sau khi Khổng Tử mất, các học trò tập hợp các lời dạy của thầy, soạn ra cuốn Luận ngữ. Còn sách Đại học do một trong những học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, tức Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, tức Tử Tư viết ra cuốn Trung dungĐến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Tư tưởng của Chu Công mà Khổng Tử tiếp thu và phát triển ấy, truyền đến Mạnh Tử là phép truyền tông, hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, hay Nho giáo tiên Tần, Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng – Mạnh”. Từ đây mới hình thành khái niệm Nho giáo và Nho gia.

     Xin nói rõ hơn về khái niệm này: Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu – người lí tưởng này gọi là “quân tử” (kẻ làm vua, quân tử là chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau Khổng Tử dùng từ “quân tử” để chỉ phẩm chất đạo đức: “quân tử sở tính nhân nghĩa lễ trí” (bản tính của người quân tử là nhân, nghĩa, lễ, trí), phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức: “quân tử quần dĩ nghĩa, tiểu nhân quần dĩ lợi” (người quân tử quần tụ vì điều nghĩa, kẻ tiểu nhân tụ họp nhau vì cái lợi). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tự tu” (tự sửa mình). Sau khi “tu thân” thì “hành đạo” (thi hành đạo hoá dân, phối thiên và phục thiện…). Trong Đại học có chép: “Thân tu thì gia tề, gia tề thì quốc trị, quốc trị thì thiên hạ bình. Từ Thiên tử cho đến thứ dân, tất thảy đều phải lấy việc tu thân làm gốc...”. Học thuyết trị quốc bình thiên hạ của Nho giáo là một phần của văn hóa Trung Hoa truyền thống vốn rất sâu sắc. Nó đã tự thiết lập cho mình những lí tưởng về đạo đức và hệ thống tiêu chuẩn giá trị cho nền tảng xã hội Trung Quốc, giúp gìn giữ các chuẩn tắc đạo đức xã hội ở mức cao.

     Sách “Sử kí. Ngũ Tông thế gia” (còn gọi là Thái sử công thư do Tư Mã Thiên viết từ năm 109-91 Tr.CN) có ghi: “Hiếu Nho học, bị phục tạo thứ tất ư Nho” (Ham Nho học lại giỏi về tranh biện tất là Nho). Sách “Hậu Hán thư. Phục Trạm truyện” lại nói: “Luỹ thế Nho học, tố luyện danh tín, kinh minh hành tu, thông đạt quốc chính” (Đời đời theo Nho học, theo đuổi việc đào luyện danh nghĩa và tín thực, trải điều minh đức và thực hành tu thân (để) dự vào nền quốc chính). Đó là hai cuốn sách sớm nhất đề cập tới từ “Nho học” ở đời Hán.

     Trước Khổng Tử, chưa thấy nói đến “Nho học”. Cái gọi là “Nho” cổ đại, ý chỉ các thành phần trí thức từ Vu, Sử, Chúc, Bốc (các chức quan coi việc nhân sự, thiên sự, lịch pháp; người hành nghề đồng cốt, bói toán bằng mai rùa…) đến giáo chức tôn giáo nguyên thuỷ; các học giả Trung Quốc đời sau như Du Việt, Chương Thái Diệm, Tiền Mục vì thế đã gọi các nhà Nho nguyên thủy là “Phương sĩ” hoặc “Thuật sĩ”. Cho nên, “Nho” trong các cách hiểu nguyên thuỷ, là công việc phần lớn mang tính tôn giáo, chính trị.

     Theo sự phân hoá của Tôn giáo và Vu thuật, “Nho” từng bước diễn tiến theo hai con đường: Một bộ phận dựa vào tri thức nghi lễ nguyên thuỷ trở thành trợ thủ của tầng lớp chư hầu hoặc quân chủ, đến khi trí sĩ lại thay họ dạy dỗ con em ở chốn làng quê; một bộ phận thì lợi dụng tri thức và kinh nghiệm về “Lễ” của mình để chuyên lo việc lễ cho tầng lớp quí tộc – họ thành các nhà thực tiễn trong dân gian.

     Trong văn hiến cổ từ Khổng Tử trở về trước, chữ “Nho” xuất hiện khá muộn. Trong ba sách: “Thi”, “Thư”, “Dịch” không thấy chữ “Nho”; “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” đều chỉ nhắc đến hai lần, song cả hai cuốn này đều chưa thấy nói rõ. Từ Tuân Tử (313-238 Tr.CN) trở về sau, nhất là trong các trước thuật đời Hán, thấy xuất hiện nhiều từ “Nho đạo”, “Nho học”, “Nho thuật”. Sách “Chu quan. Thái tể” viết: “Dĩ cửu lưỡng hệ bang quốc chi dân: nhất viết Mục, dĩ địa đắc dân; nhị viết Trưởng, dĩ quí đắc dân; tam viết Sư, dĩ hiền đắc dân; tứ viết Nho, dĩ đạo đắc dân; ngũ viết Tông, dĩ tộc đắc dân; lục viết Chủ, dĩ lợi đắc dân; thất viết Lại, dĩ trị đắc dân; bát viết Hữu, dĩ nhiệm đắc dân; cửu viết Lũ, dĩ phú đắc dân” (Lấy từng cặp 9 loại dân cày để liên hệ với việc bang quốc: một là Mục, dùng đất để được dân, hai là Trưởng, dùng quí để được dân; ba là Sư, lấy tài năng để được dân; bốn là Nho, dùng đạo để được dân; năm là Tông, lấy họ tộc để được dân; sáu là Chủ, dùng lợi được dân; bảy là Lại, lấy việc cai trị để được dân; tám là Hữu, lấy trách nhiệm để được dân; chín là Lũ, lấy giàu có để được dân).

     Theo nguyên tắc 9 điều “bang quốc chi dân” đều thấy có sự quan hệ mật thiết đến “Nho gia”, “Nho học”. “Chu quan. Đại tư đồ” lại nói: “Dĩ bản tục lục, an vạn dân: nhất viết mĩ cung thất, nhị viết tộc phần mộ, tam viết liên huynh đệ, tứ viết liên sư nho, ngũ viết liên bằng hữu, lục viết đồng y phục” (Dùng 6 tập quán cũ để làm an muôn dân: 1. làm đẹp cửa nhà; 2. tập hợp phần mộ; 3. gắn kết anh em; 4. gắn kết sư nho; 5. gắn kết bạn bè; 6. cùng trang phục).

     “Liên sư nho” tức là thông qua giáo dục, giáo hoá mà khiến cho muôn dân hài hoà an định. Ở đây, tên gọi Sư – Nho phản ánh sự biến thiên của nội hàm “Nho”, rõ ràng “Nho” đã phân li ra từ trong Vu, Sử, Chúc, Bốc.

     Ở Trung Quốc, khái niệm “Nho giáo”, “Nho gia” hoặc “Nho học” đã được các nhà nghiên cứu cận hiện đại Trung Quốc định nghĩa từ nhiều khía cạnh, song dường như chưa có một định nghĩa nào thấu đáo. Lương Thấu Minh (1893-1988, nhà tư tưởng, nhà giáo dục, nhà triết học, nhà hoạt động xã hội Trung Quốc. Tác phẩm tiêu biểu: Hương thôn kiến thiết lí luận, Nhân tâm dữ nhân sinh...) xem “Nho học” là “phản cung tu kỉ chi học” (cái học của việc trở lại sửa mình); Phùng Hữu Lan (1895-1990, học giả chuyên nghiên cứu về lịch sử triết học Trung Quốc cổ trung đại. Tác phẩm tiêu biểu: Trung Quốc triết học giản sử, Nhân sinh đích cảnh giới...) xem “Nho giáo” là “nhân sinh cảnh giới chi học” (cái học của cảnh giới nhân sinh); còn Tiền Mục (1895-1990, Viện sĩ Viện nghiên cứu Trung ương Đài Loan, nghiên cứu và chú giải nhiều tác phẩm Bách gia chư tử) thì xem “Nho gia” là “thông tập lục nghệ chi sĩ” (kẻ sĩ thông thạo lục nghệ)… Tất cả các quan niệm và cách giải thích đó đều chỉ là một số khái quát về Nho học hoặc Nho gia trên một số phương diện nào đó, tuy có lí nhất định, nhưng thiếu tính bao quát.

     Ở Việt Nam, theo Trần Trọng Kim: “Đời xưa người đi học đạo thánh hiền gọi là Nho, tức là người đã học biết suốt được lẽ trời đất và người, để dạy bảo người ta ăn ở cho phải đạo luân thường. Nho là bởi chữ nhân đứng bên chữ nhu mà thành ra. Nhân là người, nhu là cần dùng, tức là một hạng người bao giờ cũng cần dùng đến để giúp cho nhân quần xã hội biết đường mà ăn ở và hành động cho hợp lẽ trời. Chữ nhu lại có nghĩa là chờ đợi, tức là người học giỏi, đợi người ta cần đến, sẽ đem tài trí của mình ra mà giúp việc đời. Phàm những người học nho thuật thường là những người chuyên về mặt thực tế hơn mặt lí tưởng. Bởi vậy từ xưa đến nay những người nho học là những người chực ra cáng đáng việc đời, để làm ích quốc lợi dân, chứ không phải là người yếm thế, chỉ vụ lấy sự vui thú trong vòng tư tưởng.. Cũng bởi lẽ ấy, cho nên thầy Tử Lộ cho rằng: “Bất sĩ vô nghĩa… quân tử chi sĩ dã, hành kì nghĩa dã” (Luận ngữ. Vi tử) (không ra làm quan là vô nghĩa… người quân tử ra làm quan là làm việc nghĩa vậy) [4, tr.17].

     Theo Cao Xuân Huy, thì từ khi xã hội thị tộc (khoảng giữa thời Xuân Thu) bắt đầu tan rã, việc học không còn là độc quyền của quan lại quí tộc nữa mà được nới rộng xuống thứ dân, nên trường tư mở ra, gọi là giai đoạn “học hạ tư nhân”. “Trong bọn quí tộc phá sản, có những kẻ trước kia làm quan văn hoá thì nay phải đi dạy học để mưu sinh. Những người ấy gọi là “tấn thân tiên sinh” sau đó gọi là “Nho”. Trong sách “Quốc cố luận hành”, thiên “Nguyên Nho”, Chương Bỉnh Lân nói rằng: “Cái tên Nho là bởi chữ nhu. Nhu nghĩa là lên đến trời, mà Nho cũng biết thiên văn, biết khi nào đại hạn, khi nào nước lụt…”. Tấn thân tiên sinh là những con người chuyển tiếp từ quan học đến tư học, mà cũng là những con người bảo tồn văn hoá Tây Chu ở đời Xuân Thu” [2, tr.379]. Ngoài những điều đó ra thì tự lập, khoan dung, khiêm nhường, gần người nhân nghĩa, cương nghị, cất nhắc người hiền tài, giao lưu bạn hữu… đều là những qui định cụ thể về tư tưởng và hành vi của nhà Nho.

     “Hán thư. Nghệ văn chí” lại nói: “Nho gia giả lưu, cái xuất ư tư đồ chi quan, trợ nhân quân, thuận âm dương, minh giáo hoá giả dã. Du văn ư lục kinh chi trung, lưu ngôn ư nhân nghĩa chi tế, tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Vũ, tông sư Trọng Ni, dĩ trọng kì ngôn, ư đạo tối vi cao” (Nhà Nho do ở quan Tư đồ mà ra, là người phò tá cho đấng nhân quân, thuận theo âm dương ngũ hành, làm sáng tỏ việc giáo hoá. (Họ) du học ở chốn văn chương và lục nghệ, lưu lại ngôn hành trong việc nhân nghĩa, noi theo Nghiêu Thuấn và làm sáng đạo vua Văn – Vũ, tôn Trọng Ni là thầy, đề cao lời dạy của ngài và xem Đạo ấy là tối cao). Trần Đình Hượu thì cho rằng, nhà Nho có đức tính “Giữ mình trung chính, tự tôn tự trọng, làm cho người xung quanh kính nể không dám xúc phạm, do đó xử sự theo lối quân tử, giữ mình nghiêm cẩn, tránh can thiệp, tránh tiếp xúc, sống hơi biệt lập với cả bạn bè, dầu hết sức thân thiết cũng giữ mức độ, không quá chầm bập đến suồng sã, a dua, bè cánh “quân tử chi giao đạm nhược thủy” là sáng suốt, hợp lí có hiệu quả trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Ứng dụng thái độ đó với người trên là giữ lễ, khiêm tốn mà tự tôn, đối với người dưới là uy nghiêm, khoan dung mà kẻ cả. Thế nhưng cơ sở làm chỗ xuất phát cách hành xử như vậy là sự tôn trọng phận vị, là tư tưởng yên mệnh chứ không phải là khát vọng công bằng và tiến bộ chi phối hành động, là sự giữ gìn chứ không phải lòng yêu thương, sự phẫn nộ, chính nghĩa cảm” [3, tr.64].

     Khổng Tử được học trò mệnh danh là Thánh chi thời (tùy thời vào bậc Thánh), bởi ông là người đáng nhanh thì nhanh, đáng chậm thì chậm, đáng ra làm quan thì ra làm quan, đáng về ở ẩn thì về ở ẩn, mọi ngôn hành đều thung dung trúng tiết. Đạo Nho chính là đạo của người quân tử. Còn Khổng Tử chính là mẫu hình nhà Nho quân tử. Mà một trong những đức tính điển hình của người quân tử biểu hiện ra ngôn hành, được Tử Tư đề cập trong Trung dung đó là hòa nhi bất đồng; đồng nhi bất lưu; trung lập nhi bất ỷ; vô thái quá bất cập (hài hòa mà không giống nhau; giống nhau mà không a dua; đứng giữa mà không dựa vào bên nào; không thái quá không bất cập…) đã trở thành chuẩn mực, dù ít dù nhiều, trong ứng xử – hành vi của các nhà Nho hậu thế đều chịu ảnh hưởng. Nho giáo là như thế. Nhà Nho là như thế!

3. Kết luận

     Như vậy, từ khái niệm – chữ “NHO” được đặt ra ở đầu, bài viết đã đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Nho” là gì? trên các bình diện văn tự, văn hóa học. Có thể thấy, “Nho” là khái niệm đã được định danh từ trước Khổng Tử, trong các cách hiểu nguyên thuỷ, vốn chỉ những thành phần trí thức như Vu, Sử, Bốc, Chúc hay những người hoạt động trong các lĩnh vực tôn giáo, chính trị, còn gọi là các “phương sĩ”, “thuật sĩ”. Khái niệm Nho giáo và Nho gia được hình thành ở thời Xuân Thu Chiến Quốc thông qua sự tiếp thu tư tưởng Chu Công của Khổng Tử rồi được kế truyền và xiển phát từ Khổng Tử đến Mạnh Tử, còn được gọi với tên Khổng giáo hay tư tưởng Khổng Mạnh. Còn “Nho học” là khái niệm đến mãi đời Hán mới xuất hiện trong hai cuốn sách lớn là Sử kí Hậu Hán thư. Từ đây, khi mà các khái niệm này được hình thành, sau một thời gian dài, đến mãi thời cận đại, trong học giới Trung Quốc mới bắt đầu có sự manh nha dần dà định danh cho nó. Đồng thời với đó, các học giả Trung Quốc và Việt Nam cận, hiện đại cũng ra sức đi vào lí giải cho tất cả những nội hàm của khái niệm “Nho gia”, “Nho học”… mà như chúng tôi đã trình bày khá cặn kẽ trên đây. Hẳn là qua đây, những ai quan tâm đến văn hóa, văn hiến cổ truyền ít nhiều cũng nghiệm ra được những thông tin có ý nghĩa trong học vấn của mình. Đó cũng là mục đích mà bài viết muốn hướng tới vậy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thang Nhất Giới (1995), Trung Quốc Nho học văn hóa đại quan, – Nxb Đại học Bắc Kinh.

2. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, – Nxb
Văn học.

3. Trần Đình Hượu (2007), Tuyển tập, Tập 1 – Những vấn đề triết học và lịch sử tư tưởng, – Nxb Giáo dục.

4. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, – Nxb Văn học.

5. Viện Khoa học Xã hội (2001), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 1 – Tứ Thư, – Nxb Khoa học Xã hội.

6. Viện Khoa học Xã hội (2001), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 2 – Ngũ Kinh, – Nxb Khoa học Xã hội.

7. Http://www.baidu.com

8. Http://www.hanban.edu.cn/

9. Http://www.wikipedia.org.

Nguồn: Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Thủ đô Hà Nội – số 33/2019

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Mạn đàm về chữ “Nho – 儒” trong các tranh luận về Nho giáo, Nho học xưa nay (Tác giả: Hà Đăng Việt)