Mối bang giao giữa triều đình Huế với hai phiên vương Thủy xá, Hỏa xá

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  NGUYỄN VĂN THƯỞNG
(Trường Đại học Phú Yên)

1. Vài nét về hai Phiên vương Thủy Xá và Hỏa Xá

     Thuỷ Xá, phía Tây giáp Hoả Xá. phía Đông giáp đồn Phúc Sơn thuộc tỉnh Phú Yên và các tộc người thiểu số ở Thạch Thành, phía Bắc giáp các tộc người thiểu số ở Bình Định.

     Hoả Xá, phía Đông giáp Thuỷ Xá, phía Tây giáp đất Sơn Phủ thành Trấn Tây, phía Bắc giáp các tộc người thiểu số.

     Con đường đi đến vùng đất của hai Phiên vương Thủy Xá, Hỏa Xá được Lê Quý Đôn mô tả trong cuốn Phủ biên tạp lục “Từ nguồn An Lạc đi lên các thôn Hà Nghiêu, Đất Cày, qua đèo La Hai giáp đất phủ Phú Yên, đén các xứ Sông Lôi, Nước Nóng, Thượng Nhà đến nguồn Hà Lôi là chỗ các Sách người Đê, người Man ở (tục gọi Đê là người Chàm, Man là người Mọi) cộng 3 ngày, lại từ đây cho người Man tiền bảo họ dẫn theo đường núi đi hết 14 ngày thì đến nơi hai M ’Tao Thủy Xá và Hỏa Xá nước Nam Bàn. Thủy Vương ở phía Đông núi, Hỏa Vương ở phía Tây núi.

     Về vị trí của hai Phiên vương Thuỷ Xá, Hoả Xá trong Phương đình dư địa chí của Nguyễn Siêu đã đề cập khá rồ: Thủy Xá và Hỏa Xá nằm ở phía Nam nước Chiêm Thành cũ, nay trên đường Phú An (tức Phú Yên) có núi tên là Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông ngọn núi, giáp với đồn Phước Sơn, tỉnh Phú An, phía Nam là thuộc Man Thạch Thành. Trong Thạch Thành có tượng đá gọi là Hồ Vương Thành, vuông ước 4 mẫu, phía Bắc là sách Man tỉnh Chiêm. Hỏa Xá ở phía Tây ngọn núi giáp sở Sơn Bốc nước Chân Lạp, phía Nam là Lạc Man, trên Đại Giang dưới Ba Giang là giới hạn phong vực hai nước.

     Nhiều tài liệu cho rằng hai Phiên vương này thuộc nước Nam Bàn dưới thời Lê Thánh Tông thế kỷ XV. Theo Phan Huy Chú thì khi vua Lê Thánh Tông tiến quân vào đến núi Thạch Bi (1471) và lấy làm điểm phân cương rồi phong con cháu quốc vương Chiêm Thành cai trị Nam Bàn ở phía Tây núi ấy.

     Khảo sát về nước Nam Bàn bấy giờ có chừng 50 thôn ấp, có núi Bà Nam rất cao, đó là trấn trọng yếu của nước ấy. Có hai M’Tao Thủy Xá và Hỏa Xá ở phía Đông núi và Tây núi. Mỗi M’Tao có hàng trăm thủ hạ. Họ dùng dao cày đất và đốt cây cỏ để trồng trọt. Cứ tháng giêng làm, tháng 5 thu hoạch, nhưng có lúc trời hạn không, thu được gì do không biết lịch canh tác. Khi đi thu thuế, các M ’Tao thường cỡi voi, đoàn đi khoảng 10 người, đến buôn thôn nào thì khua chiêng 3 hồi, người trong buôn nghe được liền tìm vật liệu dựng các lều tranh cho vương ở1. Trong Phủ biên tạp lục cũng đã đề cập về nước Nam Bàn: “Nước Nam Bàn xưa do Lê Thánh Tông phong ở phía Tây đầu nguồn phủ Phú Yên… ”2.

     Như vậy, vị trí của hai Phiên vương này được mô tả trong các tài liệu trên là vùng đất Tây Nguyên ngày nay, tức là các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và kéo dài đến tỉnh Đăk Lăk và là vùng đồng bào cư trú ở phía Tây các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay. Vùng đất này ở đầu nguồn hai nhánh sông Ba đó là Ea Ayun và Krông- Hnăng. Nhiều tài liệu đề cập và những bức địa đồ công bố cũng chỉ cho biết trong dãy Trường Sơn phía trên một dãy sa mạc của xứ Đàng Trong, có người Kemoi ở, còn phía dưới sa mạc là xứ Chiêm Thành mà ranh giới cực Bắc ở vào khoảng giữa mõm Varela – Đèo Cả phía Nam tỉnh Phú Yên và vịnh Comorin tức vịnh Cam Ranh ngày nay3.

     Người đứng đầu hai Phiên vương có tên gọi khác nhau:

Vua LửaVua Nước
Người Giarai gọi là :Pơtau PuiPơ tau la
Người Rađê (Ê đê) gọi là:Mtao PuiMtao la
Người Lào gợi là:Sadet FaiSadet Nam
Người Campuchia gọi là:Sdacht PhleungSdacht Teuk
Người Việt gọi là:Hỏa XáThủy Xá4

     Từ thế kỷ XV, đời sống sinh hoạt và sản xuất kinh tế cũng như phong tục của các dân tộc thuộc hai Phiên vương Thủy Xá và Hỏa Xá còn đơn giản nhưng đã định hình riêng biệt cho mình một ỉổi sống và sinh hoạt đặc thù. Họ ‘‘gác cây làm nhà” (làm nhà sàn), “cày bằng dao, trồng bằng lửa, tháng giêng gieo, tháng năm lúa chín, không gặt mà chỉ tuốt” (tức sống bằng kinh tế nương rẫy với kỹ thuật phát cốt đốt trỉa, dùng tay tuốt lúa chứ không cắt bằng liềm). Họ “không biết ngày tháng. Tuốt lúa xong thì thu thuế. Vua cưỡi voi, đi theo độ hơn mươi người, đến một thôn nào thì đánh ba hồi chiêng, người trong thôn đều ra, làm nhà tranh cho vua ở, bởi vì tục có câu nói vua vào nhà nào thì nhà ấy có sự không hay, cho nên vua không dám vào nhà ai. số người nhiều ít, tùy ý tự nộp, một cái nồi đồng, một tấm vải trắng, một cây mía, một buồng chuối, lấy cũng không biên chép gì, lấy xong lại đi chỗ khác”1.

     Như vậy từ thời Lê Thánh Tông, vùng đất này đã có tên là nước Nam Bàn – một phiên thuộc của nước Đại Việt. Đến thế kỷ XIX, các vua triều Nguyễn tiếp tục đặt mối quan hệ và đã thể hiện chính sách bang giao, hòa hiếu với Nam Bàn thông qua người đứng đầu hai Phiên vương gọi là Thủy Xá (Pơtao la) và Hỏa Xá (Pơ tao Pui).

2. Mối bang giao giữa triều đình Huế với Thủy Xá, Hỏa Xá

    Việc bang giao giữa hai Phiên vương Thủy Xá, Hỏa Xá trước đối với Đại Việt và sau đó là chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn đều diễn ra thường xuyên, theo Trương Vĩnh Ký vào thời các chúa Nguvễn, Thủy Xá và Hỏa Xá đã nộp phấm vật đều đặn. Và ngược lại, các chúa Nguyễn cũng có mối quan hệ với Nam Bàn một cách thân thuộc. Trong Đại Nam thực lục tiền biên, chép: “Buổi quốc sơ, vì cớ họ (tức Thủy Xá và Hỏa Xá) giáp giới với Phú Yên, cứ 5 năm một lần sai người đến các nước ấy cho quà (áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt, và chén đĩa bằng sứ). Vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa phẩm vật địa phương (kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực) để hiến.”1 Người mang quà của chúa Nguyễn lên tận nơi trao tặng và nhận lễ vật đáp của Thủy Xá, Hỏa Xá nước Nam Bàn mang về dâng lên chúa là hai cai đội ở Phú Yên được cử làm Chánh và Phó sứ.

     Năm Tân Mùi (1751) Pơtao la đời thứ 5 là Rơchom Gút cử người đến Phú Yên tiến cống chúa Nguyễn. Cai đội ở Phú Yên tiếp đón sứ thần của Thủy Xá và của cả Hòa Xá sai sứ sang cống. “Chúa (Nguyễn Phước Khoát) hậu tứ rồi cho về.”3

     Nằm ở vị trí giao thông thuận lợi, cả về đường sông lẫn đường bộ, Phú Yên là nơi giao dịch sớm với đồng bào các dân tộc ở miền núi phía Tây của tỉnh. Sự bang giao với triều đình của Thủy Xá và Hỏa Xá thường thông qua con đường từ Phú Yên lên và xuống “Vua Thủy Xả mới lên ngôi, sai man thuộc đến thông hiếu ở thượng đạo Phú Yên, xin làm phiên thuộc và xin ban ơn cho. Bọn Nguyễn Long và Võ Văn Lượng đem việc tâu lên. Vua nói rằng “Họ đã theo về thì triều đình có tiếc gì”. Sai ban cho hai chiếc áo gấm và những vật như cồng thau theo lời xin”1 .

     Việc cống nạp chỉ tạm ngừng trong thời gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Tây Sơn với chúa Nguyễn Ánh. Sau đó, Thủy Xá và Hỏa Xá lại làm nhiệm vụ của mình vào năm 1803 dưới thời vua Gia Long; dưới thời Minh Mạng vào những; năm 1820, 1821, 1823, 1829, 1831, 1837, 1840; dưới thời vua Thiệu Trị vào những năm 1841, 1843. 1844, 1845; dưới thời vua Tự Đức vào những năm 1852, 1855, 1859, 1862, 1865, 1868, 1873, 1876,1879, 1884, 1885. Họ đều đi qua Phú Yên để nộp cống phẩm theo lệ 3 năm 1 lần2.

     Trong phần Nhu Viễn3 (3 quyển) của Đại Nam hội điển sự lệ được biên soạn theo chỉ dụ vua Thiệu Trị và Tự Đức có đề cập đến quá trình giao tiếp của triều đình Nguyễn với các thuộc quốc. Nội dung thể hiện rõ chính sách an dân, tài đức quản lý của các bậc đế vương đến dân chúng khấp nơi từ gần đến xa xôi đều yên ôn và kính nể triều đình.

     Theo Đại Nam thực lục tiền biên ghi lại: Hai nước Thuỷ Xá và Hoả Xá cổng chung các phẩm vật. Nước Thuỷ Xá thì cống 2 chiếc ngà voi, 2 cái sừng tê. Nước Hoả Xá thì cống 1 chiếc ngà voi, 1 sừng tê. Cứ đến 3 năm, nước Thuỷ Xá phải chọn sai người đi sứ và mang cả phẩm vật của hai nước đến tỉnh Phú Yên làm lễ tiến cống.

     Từ đầu thời vua Gia Long, năm 1803, hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá sai sứ đến Phú Yên rồi dinh thần tâu lên, vua sai ban áo gấm và xuyến ngà rồi cho về4. Năm Minh Mệnh thứ 2, Quốc trưởng Ma Ất sai sứ tới thành Phước Sơn trấn Phú Yên xin cống nhưng việc không thành. Năm thứ 4 em là Ma Mỗ lên thay, lại sai sứ xin cống, Ma Mỗ chết, việc lại không thành lần nữa. Đến năm 1829, nước Thuỷ Xá mới sai sứ đến thông khoản.

     Dưới thời các vua triều Nguyễn, mối bang giao giữa triều đình Huế với Thủy Xá và Hỏa Xá được thể hiện rõ, gắn kết nhau hơn. Các cuộc tiếp xúc diễn ra thường xuyên, liên tục, đặc biệt là dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu trị và Tự Đức. Do vậy, mà các sử gia trong Quốc sử quán triều Nguyền viết trong phần Nhu viễn có nhiều đoạn khen Thủy Xá, Hỏa Xá: “Từ trước đến nay đôn hậu, cung thuận nộp cống cho triều đình, hai nước ấy một lòng khiêm nhường rất đáng khen5.

     Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), sứ giả của Hỏa Xá đến Phú Yên để dâng lễ vật lên triều, vua cho về kinh bái yết. Cũng trong năm này, vua Minh Mạng ban hành chỉ dụ cụ thể theo định kỳ dâng cống phẩm của Hỏa Xá là các năm Tý, Mão, Ngọ, Dần. Cứ 3 năm sai sứ đi cống 1 lần vào giữa tuần trăng thứ 6. Cống phẩm gồm 2 ngà voi và 2 sừng tê giác. Đến năm 1837, nước Thủy Xá sai sứ đến cống và dâng đủ lễ mừng. Vua ngự điện cần Chính, cho sứ nước ấy làm lễ chiêm bái. Lại theo bộ Lễ ban cho quốc vương mới nối theo họ Vĩnh, vẫn tên là Liệt, ban cấp cho 1 đạo sắc thư và đồ thưởng, đợi sau khi lễ khánh hạ xong, giao cho sứ bộ lĩnh mang về. Khi M ’Tao Hỏa Xá Ma Lam chết, Ma Liệt lên thay, liền sai sứ sang triều cống. Năm 1840, nhân dịp lễ Đại khánh ngũ tuần của vua Minh Mạng, M’ Tao nước Hỏa Xá sai sứ mang lễ vật đến mừng và nộp cống, được vua ban thưởng nhiều tặng phẩm rồi cho về.

    Sản vật của Thủy Xá mang vào kinh thường là ngà voi và sừng tê giác. Trong lễ khánh hạ của vua Thiệu Trị, hai Phiên vương Thủy Xá và Hỏa Xá dâng nạp 4 ngà voi và 3 sừng tê giác.

    Năm 1848, Thủy Xá nghị tâu gửi tặng phẩm vào nghi lễ hương thơm: 3 lạng kỳ nam, 2 cân trầm hương, 4 cân gỗ tốc anh, thêm vào đó là 2 ngà voi và 2 sừng tê giác để bày tỏ sự tôn kính. Hỏa Xá đóng góp vào phần cung đốn 1 lạng gỗ kỳ nam, 1 cân trầm hương, hai cân tốc hương, và 1 ngà voi, 1 sừng tê giác làm tặng phẩm lễ nghi. Nhân dịp này, vua Tự Đức cho sứ thần vào kinh bái chầu, đồng thời giao tỉnh thần Phú Yên đưa truyền chỉ cho hai Phiên vương biết và chuẩn bị ra kinh đô vào ngày tuần giữa tháng tư. Trong những lần tiến cống lễ vật đến kinh, sứ bộ Thủy Xá và Hỏa Xá đến đồn Phước Sơn chờ viên chức Phú Yên lên đón sứ bộ về công quán của tỉnh nghỉ và khoản đãi. Đến khi sứ bộ lên đường, tỉnh Phú Yên phải cử 1 viên Thông phán hoặc Kinh lịch sung chức Trường tống, đưa phái bộ ra kinh.

    Qua các tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn, hầu hết những lần dâng phẩm vật về kinh, Thủy Xá và Hỏa Xá và các sứ thần luôn được vua ban cho nhiều phẩm vật quý. Ngày từ đầu triều Nguyễn đã có lệ thưởng cho Quốc vương nước Thuỷ Xá:

     – 1 cái khăn nhiễu màu lam dài 8 thước,

     – Áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng 1 cặp,

    – Ảo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp 1 cái,

     – Áo sa dày màu lam, màu trắng tay hẹp 1 cặp,

     – Áo sa nam toàn tơ, tay hẹp các màu 3 chiếc,

     – Quần nhiễu màu lam, màu hồng mỗi màu 1 chiếc,

     – Quần lụa nam màu cánh kiến 2 chiếc,

     – 1 bộ đồ uống rượu có 1 cái nậm, 3 cái chén, 1 cái khay.

     Ngoài ra, triều đình còn cấp cho Quốc vương hai nước đều 1 cặp áo mão tam phẩm về võ giai. Thưởng cho Nguyễn Văn Quyền1 làm Đội trưởng ở tỉnh ấy, Đặng Văn Hoạt làm Cửu phẩm thư lại, còn tuỳ phái, thông ngôn, mỗi người 1 cặp áo bằng nhiễu nam vải Tây dương và 10 lạng bạc.

     Năm 1829, vua ban tặng Hỏa Xá:

     – 1 tấm sa có vôn màu xanh.

     – 1 tấm sa có vôn màu đỏ,

     – 20 tấm sa nam.

     Năm 1832, vua Minh Mạng quy định: tặng cho M ‘Tao Hỏa Xá:

     – 2 mảnh gấm thêu kim tuyến thời nhà Tống;,

    – 2 cuốn sa tanh, 2 tấm nhiễu đen,

    – 8 mảnh nhiễu địa phương,

    – 10 tấm lụa địa phương,

     – 1 tấm lụa thêu màu đỏ, 1 tấm lụa màu chàm.

     Ngoài ra, để tiếp xúc với văn minh phương Tây, vua còn tặng thêm cho Phiên vương Thủy Xá một số hiện vật quý như :

     – 1 bộ ấm trà bang sứ Tây;

    – 1 bộ đồ uống rượu bằng pha lê ;

    – 1 cái hộp bằng pha lê vẽ chỉ vàng có cả đĩa;

    – 1 hộp bằng pha lê in bong;

    – 2 nhân vật bằng mã não đỏ.

    Chi phí cho cuộc hành trình đi về kinh đô, năm 1834, vua Minh Mạng quy định tiền thức ăn và tiền đi lại của đoàn đại biểu gồm:

     – 30 quan tiền đồng;

    – 1 con lợn, 5 con gà, 5 con vịt;

    – 20 giạ gạo nếp;

    – 5 giạ gạo trắng;

    – Cá ướp muối và nước mắm;

    – 1 Vò rượu;

    – Trầu và cau đầy đủ số lượng ;

    – Phương tiện đi lại được ấn định bàng đường thủy.

    Khi đến kinh đô, các sử bộ được chiêu đãi 1 bữa yến tiệc, được xem 1 buổi biểu diễn sân khấu và được nhận tặng thưởng 10 quan tiền.

    Năm 1879. Thủy Xá và Hỏa Xá sai Sơn Ngôi, Kiều Tầm đến dâng lễ chúc mừng 2 chiếc ngà voi, vua liền ban cho vua 2 nước ấy sắc Dụ và phẩm vật:

    – Kim tiền hạng vừa có 2 con rồng mỗi người 1 đồng

    – Kim tiền có chữ “Vạn sự như ý”, mỗi người 1 đồng

    – Ngân tiền phi long hạng lớn, hạng nhỏ đều 1 đồng

    – Ngân tiền có 2 con rồng hạng nhỏ đều 1 đồng,

    – Tiền đồng lớn mỹ hiệu mạ bạc 10 đồng,

    – Sa vũ hoa sắc đỏ 2 tấm,

    – Sa hoa chính tơ 2 tấm,

    – Chén uống rợu bằng pha lê trắng đều 1 bộ,

    – Chén độc bạt sắc trắng vẽ vàng của nước Tây 4 cái,

    – Ẩm pha chè bàng sứ vẽ cây mẫu đơn và con phượng 2 cái,

    – Đĩa hạng vừa bằng đồ sứ hình bầu dục vẽ vàng, vẽ hình con voi, con hổ, cổ đồ, hoa cỏ 2 cái.

    Phía triều đình, vua Thiệu Trị xuống dụ rằng: “Nước Đại Nam ta, đức hóa thấm khắp, thanh giáo rộng ban… Khi trẫm mới lên nối ngôi, vua nước Hỏa Xá là Cửu Lại cùng nước Thủy Xá cho sứ sang tỏ lòng thành, dâng lễ cống. Trẫm khen lòng hướng mộ ấy, đã cho sửa đổi quốc hiệu, cho tên hay, ban mũ áo, châm chước định lệ cổng. Nay 2 nước đã theo lễ chư hầu, đời làm phiên thần, lịch của triều đình đã ban cho, nên coi như dân một nước. Chuẩn cho từ nay trở đi, hằng năm phát cho một bản quan lịch, 50 bản dân lịch, giao cho tỉnh Phú Yên chuyển cấp, bắt đầu từ năm Thiệu Trị thứ 5”1.

    Vua dụ rằng: Hai nước ấy được liệt vào hàng phong làm phiên quốc, kính theo lễ độ chư hầu, sang năm là kỳ dâng cống của hai nước chính gặp vào tiết đại khánh. Quốc vương 2 nước ấy ngưỡng mộ phong hóa nhà vua, vui xem thịnh điển, tình nguyện dâng lễ chúc mừng, là xuất từ lòng thành, thực đáng khen. Nên gia ơn cho sứ thần kia được đến kỳ về Kinh, theo ban vào chúc mừng, để yên lòng kẻ ở phương xa.

    Trong các cống vật của Thủy Xá và Hỏa Xá nộp cho các vua triều Nguyễn là những thứ lâm đặc sản quý hiếm của núi rừng như ngà voi, sừng tê giác, kỳ nam, trầm hương, mật ong. Đặc biệt là các loại gỗ có hương thơm như kỳ nam, trầm hương được đánh giá cao dưới thời thuộc Chăm Pa, được triều đình Huế kế tục tín nhiệm và ưa thích.

    Các vua triều Nguyễn sau khi nhận được lễ vật, bao giờ cũng ban tặng lại cho hai Phiên vương Thủy Xá, Hỏa Xá và các sứ thần một số phẩm vật có giá trị. Việc trao đổi ấy không phải là sự mua bán hàng hóa mà the hiện sự tuân phục triều đình của hai Phiên vương ở nơi xa xôi, còn triều đình luôn giữ mối hòa hiếu, giao hảo, gắn kết với đồng bào các dân tộc.

    Bên cạnh nhiệm vụ thống quản, các vua triều Nguvễn nhiều lần cử người thâm nhập vào Thủy Xá và Hỏa Xá để giám sát, tìm hiểu tinh hình. Cũng theo lời tâu của sứ thần: Hoá Xá hết sức ngưỡng mộ đức hoá của các vua nhà Nguyễn.

3. Ý nghĩa

    Mối bang giao giữa triều đình Huế với hai Phiên vương Thủy Xá , Hỏa Xá trong thế kỷ XIX, ngoài những biểu hiện giao hảo và tiến cống phẩm vật của hai bên, song đây là sự thể hiện gắn kết các dân tộc trong cùng một quốc gia. Giai đoạn này, sự kế tục sự nghiệp chúa Nguyễn của các vua triều Nguyễn cho chúng ta thấy được tầm nhìn về sự quản lý thống nhất, sự phát triển bền vững về biên giới, lãnh thổ đất nước.

    Thông qua việc cống phẩm của hai Phiên vương Thủy Xá và Hỏa Xá dâng nộp cho các vua triều Nguyễn có thể như một thứ thuế tuân theo lệ, nhưng sự thống thuộc vào triều đình của nước nhỏ Nam Bàn lúc này là một lẽ đương nhiên. Hơn nữa, đối với triều đình Nguyễn, cụ thể các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… các Phiên vương này đã tự tuân phục triều đình và họ mến mộ tài đức của các vua nên họ muốn triều cống để tạo mối bang giao, hòa hiếu.

     Đối với các vua triều Nguyễn, những cổng phẩm mang đến của các Phiên vương dâng nộp về kinh không thể sánh bằng những khoản đãi, chi phí mà triều đình đã ban ra như đưa sứ bộ từ Phú Yên về kinh, ban tặng phẩm vật, xem hát. Cách tiếp nhận và ban thưởng của các vua triều Nguyễn thể hiện sự quan tâm, khen ngợi của triều đình đối với vùng sâu, vùng xa nơi đồng bào các dân tộc thiểu số đang sinh sống, nhàm tạo nên một khối đoàn kết, thống nhất các dân tộc trong nước.

    Đối với vùng đất phía Tây các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa là địa bàn sinh sống của các đồng bào Gia rai, Ê đê, Ban na, Chăm Hơroi… mà triều đình Nguyễn chưa hề kiểm soát, quản lý được nên mối bang giao này là điều kiện để phát huy tinh thần cộng đồng các dân tộc trên đất nước, đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế như lập ra các giao dịch trường và sở thủ “Nguồn Hà Duy ở thôn Phú Thành, phía Tây huyện Đông Xuân… Ở nguồn có trường giao dịch, đặt một Thủ ngự, phía Bắc có đồn Thạch Lãnh ở xã Phước Đức, phía Tây có đồn Kỳ Lộ thuộc thôn Phú Thành, phía Nam có đồn Trúc Vân ở thôn Hà Nguyên đều đặt từ năm Minh Mạng thứ 3 (năm 1822) tạo thành các điểm trung chuyển hàng hóa từ đồng bằng lên miền núi và ngược lại.

    Sự quan tâm của triều đình Huế đến hai Phiên vương chứng tỏ kế sách vừa ổn định xã hội, vừa giao lưu hàng hóa, phát triển kinh tế, bảo vệ cương vực lãnh thổ từ đồng bằng đến miền núi, góp phần phát triển đất nước.

_________
     1. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964 , tr. 122.

     1. Phan Huy Chú, Hoàng Việt dư địa chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, năm 1997, tr. 17.

     2. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Sđd, tr. 126.

     3. Võ Liệu: Những cuộc thám hiếm xứ người Thượng. Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, tr.37-38.

     4. Võ Liệu, “Thủy xá, Hỏa xá”. Giáo dục Phổ thông, số 52, 1959, tr. 32-34.

     1. Phủ biên tạp lục, Sđd, tr. 126.

     2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tl, NXB Giáo dục, 2001. Sđd, tr. 157.

     3. Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 157.

     1. Đại Nam thực lục, Sdd, tr. 311.

     2. Thủ bút Trương Vĩnh Ký, lưu trữ tại thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hổ Chí Minh.

     3. Nhu: là an, Viễn: là xa

     4. Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 454.

     5. Đại Nam hội điển sự lệ, tập II. bản dịch của Tạ Quang Phát, Bộ Văn hóa Giáo dục. Sài Gòn, 1965, trang 115.

    1. Có tài liệu ghi là Lê Văn Quyền, ông là người thông thạo về ngôn ngữ các dân tộc- TG.

    1. Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 689.

    1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, tái bản, N X B Thuận Hóa, 2006, tr.87-88.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Phan Huy Chú, 1997, Hoàng Việt dư địa chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.

    2. Nguyễn Đình Đầu, Đất nước và con người Phú Yên xưa (1471-1975), bản đánh máy.

    3. Lê Quý Đôn, 1964, Phủ biên tạp lục, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.

     4. Henri maitre, 2008, Le Sungles Moi, bản dịch, NXB Tri thức, Hà Nội.

     5. c. Hickey, 1982, Sons of the Mountains, New Haven anh Lon Don Yale University Press, tài liệu dịch, lưu Thư viện Viện Khoa học Xằ hội TP.HCM.

    6. Nội các triều Nguyễn, 1965, Đại Nam hội điển sự lệ, bản dịch của Tạ Quang Phát, Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn, tập II.

     7. Đỗ Bang, Lê Thế Vinh (Cb), 2009, Lịch sử Phú Yên thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

     8. Nguyễn Quốc Lộc (Cb), 2009, Lịch sử Phú Yên thế kỷ XVII-XVIII, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

     9. Võ Liệu, “Thủy xá, Hỏa xá”, 1959, Giáo dục Phổ thông, số 52.

     10. Paul Nur, 1966, Về chính sách Thượng vụ trong lịch sử Việt Nam. Phủ Đặc ủy Thượng vụ xb, Sài Gòn.

    11. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, tái bản, NXB Thuận Hóa, 2006?

    12. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, NXB Giáo dục, 2001.

Nguồn: Việt nam học – Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ tư

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Mối bang giao giữa triều đình Huế với hai phiên vương Thủy xá, Hỏa xá
(Tác giả: TS Nguyễn Văn Thưởng)