Năng lực và đánh giá theo năng lực (Phần 1)
Tác giả: Phó Giáo sư, Tiến sĩ HOÀNG HÒA BÌNH
(Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam)
Competence and competence-
based assessment
TÓM TẮT
Năng lực (NL) có 2 đặc trưng cơ bản: 1) Được bộc lộ qua hoạt động; 2) Đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Ở đầu vào (cấu trúc bề mặt), NL được tạo thành từ tri thức, kĩ năng và thái độ. Ở đầu ra (cấu trúc bề sâu), các thành tố đó trở thành NL hiểu, NL làm và NL ứng xử. Mỗi NL ứng với một loại hoạt động, có thể phân chia thành nhiều NL bộ phận; bộ phận nhỏ nhất, gắn với hoạt động cụ thể là kĩ năng (hành vi). Các NL bộ phận có thể đồng cấp với nhau, bổ sung cho nhau, nhưng cũng có thể là những mức độ phát triển khác nhau. Cách hiểu về NL là cơ sở để đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả giáo dục.
Từ khóa: năng lực, các hoạt động, kĩ năng.
ABSTRACT
There are two characteristics of competence: (1) performed through activities, and (2) guaranteeing the effectiveness of activities. As input (surface structure), competence is composed of knowledge, skill and attitude. As output (depth structure), those factors become competencies of comprehension, implementation and self-conduct. Each competence is correlative to activity, which can be divided into partial competencies; of which the smallest ones, attached to specific actions, are skills (behaviours). Partial competencies can be of the same level and compensate for each other, but can also be different developmental stages. Understanding competence is fundamental to renovating teaching and learning methodologies and assessments.
Keywords: competence, activites, skills.
x
x x
Xu hướng chung của các nước hiện nay là chuyển đổi từ chương trình (CT) theo định hướng nội dung (content-based approach) thành CT theo định hướng năng lực (competency-based approach). CT theo định hướng NL không chỉ đảm bảo kết quả đào tạo bền vững mà còn tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguồn lực trong đào tạo, đồng thời giảm áp lực làm việc, áp lực học hành đối với người dạy và người học. Việt Nam đang tiến hành đổi mới CT, đổi mới việc biên soạn sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông sau 2015 theo định hướng phát triển NL người học nhằm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo .
Để CT mới thực sự là một CT giáo dục theo định hướng NL, cần làm rõ khái niệm mấu chốt là khái niệm năng lực (competency), hình dung khung NL chung, khung NL mà mỗi môn học cần hình thành ở học sinh (HS) và con đường hình thành, phát triển những NL ấy, giúp người biên soạn CT, tác giả SGK, cán bộ chỉ đạo và giáo viên trực tiếp đứng lớp hiểu rõ và tiến hành công cuộc đổi mới thành công.
Bài viết này góp thêm một ý kiến về khái niệm NL và cấu trúc của NL. Trong bài tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về những NL được hình thành, phát triển qua môn Ngữ văn và con đường hình thành, phát triển những NL đó.
1. Năng lực là gì?
Thông thường, một định nghĩa khoa học (theo logic học) có 2 phần, mỗi phần đáp ứng một yêu cầu riêng như sau:
1) Quy sự vật hoặc khái niệm được định nghĩa vào một phạm trù nhất định để phân biệt nó với những sự vật, khái niệm thuộc phạm trù khác. (VD: Người là động vật cao cấp…; Hình vuông là hình chữ nhật...).
2) Nêu những đặc trưng (về hình thức, cấu tạo, chức năng, nguồn gốc…) của sự vật hoặc khái niệm để phân biệt nó với những sự vật, khái niệm khác cùng phạm trù. (VD: Người là động vật cao cấp có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Hình vuông là hình chữ nhật có hai cạnh liên tiếp bằng nhau). [4, tr.91-99; 10, tr.56].
Dựa trên tiêu chí này, chúng tôi phân tích một số định nghĩa về NL của các tác giả nước ngoài và các tác giả trong nước.
1.1. Năng lực được quy vào những phạm trù nào?
1.1.1. Phần lớn định nghĩa về NL của các tài liệu nước ngoài quy NL vào phạm trù khả năng (ability, capacity, possibility).
Ví dụ:
– Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm NL là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể.” [6, tr.12].
– Chương trình Giáo dục Trung học (GDTH) bang Québec, Canada năm 2004 xem NL “là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực.” [Dẫn theo 11, tr.22].
– Denyse Tremblay cho rằng NL là “khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.” [12, tr.5].
– Còn theo F. E. Weinert, NL là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của HS nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp.” [14, tr.25].
Việc giải thích NL (competency) bằng khái niệm khả năng (ability, capacity, possibility) không thật chính xác. Theo Từ điển Tiếng Việt, khả năng là “1. Cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định. Dự kiến các khả năng. Bão có khả năng đổ bộ vào đất liền. 2. Cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được việc gì. Người có khả năng. Việc làm hợp khả năng. Sử dụng tốt mọi khả năng đất đai.” [13, tr.488]1. Dù theo nghĩa 1 hay nghĩa 2 thì cũng không nên quy NL vào phạm trù khả năng vì người có NL trong một lĩnh vực nào đó chắc chắn sẽ thực hiện thành công loại hoạt động tương ứng; trong khi khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến thành hiện thực nhưng cũng có thể không biến thành hiện thực. Tuy nhiên, cần chú ý là thuật ngữ khả năng của các tác giả nước ngoài luôn đi kèm các cụm từ “đáp ứng một cách hiệu quả”, “hành động hiệu quả”, “hành động, thành công và tiến bộ”, “đi đến giải pháp”.
1.1.2. Nhiều tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam quy NL vào những phạm trù khác
1.1.2.1. Tài liệu hội thảo CT giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể trong CT GDPT mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT) xếp NL vào phạm trù hoạt động khi giải thích: “NL là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… để thực hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định” [1, tr.5].
Thực ra, NL của con người thể hiện, bộc lộ qua việc thực hiện thành công hoạt động, nhưng bản thân nó không phải là hoạt động. Nó là kết quả “huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác” nhưng không phải chính “sự huy động” ấy. Điều này có thể thấy rõ qua các định nghĩa về NL của Chương trình GDTH bang Québec và của Denyse Tremblay.
1.1.2.2. Một số tài liệu khác gọi NL là đặc điểm, phẩm chất hoặc thuộc tính cá nhân.
Ví dụ:
– Cách hiểu của Từ điển Bách khoa Việt Nam: “NL là đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo – tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn – một hay một số dạng hoạt động nào đó.” [3, tr.41].
– Cách hiểu của Từ điển tiếng Việt: NL là “phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. [13, tr.660-661].
– Cách hiểu của Trần Trọng Thủy và Nguyễn Quang Uẩn: “NL là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy.” [Dẫn theo 9, tr.18- 19].
– Cách hiểu của Đặng Thành Hưng: “NL là thuộc tính cá nhân cho phép cá nhân thực hiện thành công hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.” [5].
Giải thích NL là đặc điểm, phẩm chất hoặc thuộc tính của con người tỏ ra đúng hơn coi nó là một hoạt động. Nhưng đặc điểm là một từ quá chung chung. Giữa hai thuật ngữ còn lại là thuộc tính và phẩm chất thì thuật ngữ thuộc tính không nói lên được bản chất xã hội của NL, vì thuộc tính trong tiếng Việt được hiểu là “đặc tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại, và qua đó, con người nhận thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác”, ví dụ: Màu sắc là thuộc tính của mọi vật thể [13, tr.965]. Trong khi đó, NL là cái “có thể phát triển trên cơ sở năng khiếu (đặc điểm sinh lí của con người, trước hết là của hệ thần kinh trung ương), song không phải là bẩm sinh, mà là kết quả phát triển của xã hội và của con người (đời sống xã hội, sự giáo dục và rèn luyện, hoạt động của cá nhân)” [3, tr.41].
Như vậy, để thể hiện được bản chất xã hội của NL, nên xếp nó vào phạm trù phẩm chất theo cách lí giải của Từ điển tiếng Việt: “NL là phẩm chất tâm lí và sinh lí…”2. Tuy vậy, trong Nghị quyết 29 của Trung ương, khi xác định quan điểm “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện NL và phẩm chất người học”, từ phẩm chất được sử dụng đồng thời với NL và có nghĩa hẹp hơn nghĩa thông thường – chỉ bao hàm phẩm chất chính trị, đạo đức của người học3.
Vì vậy, để việc giải thích khái niệm phù hợp với Nghị quyết (xem phẩm chất là “hồng” trong quan niệm về con người phát triển toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”), có thể giải thích NL là một loại thuộc tính với sự mở rộng nghĩa của từ này – bao hàm không chỉ các đặc tính bẩm sinh mà cả những đặc tính hình thành và phát triển nhờ quá trình học tập, rèn luyện của con người.
1.2. Năng lực có những đặc trưng gì?
1.2.1. Để phân biệt NL với những khái niệm khác cùng phạm trù, các tài liệu trong nước và nước ngoài đều thống nhất quan niệm NL cá nhân được bộc lộ ở hoạt động (hành động, công việc) nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong bối cảnh (điều kiện) cụ thể. Đây là đặc trưng phân biệt NL với tiềm năng (potential) – khả năng ẩn giấu bên trong, chưa bộc lộ ra, chưa phải là hiện thực.
Một số tài liệu của Việt Nam còn cho rằng NL gắn với các “dạng hoạt động” (Từ điển Bách khoa Việt Nam, Đặng Thành Hưng), “loại hoạt động” (Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học), “loại công việc” (Tài liệu hội thảo CTGDPT tổng thể trong CTGDPT mới
của Bộ GD&ĐT).
Theo chúng tôi, việc quy chiếu NL với loại hoạt động giúp chúng ta phân biệt NL với kĩ năng (skill) – một thành tố của NL. Mỗi NL gắn với một loại hoạt động, chẳng hạn: NL giao tiếp, NL tư duy, NL hợp tác… Các NL này được thể hiện ở những kĩ năng gắn với những hoạt động cụ thể, như: kĩ năng nói, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng làm việc nhóm… So sánh:
Nhìn rộng ra, sự phân biệt NL và kĩ năng bằng tiêu chí này cũng giúp chúng ta làm rõ được sự khác nhau về cấp độ giữa phương pháp dạy học (PPDH) với biện pháp dạy học (BPDH) – vấn đề được giải quyết rất khác nhau giữa các nhà sư phạm. Phải chăng có thể hiểu: PPDH là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số NL ở HS; còn BPDH là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số kĩ năng nhất định?
1.2.2. Đặc trưng thứ hai của NL được hầu hết các tài liệu nghiên cứu trong nước và nước ngoài thống nhất là tính “hiệu quả”, “thành công” hoặc “chất lượng cao” của hoạt động. Đặc trưng này giúp ta phân biệt NL với một khái niệm ở vị trí giữa nó với tiềm năng là khả năng. Khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến thành hiện thực khi cần thiết và khi có các điều kiện thích hợp, nhưng cũng có thể không biến thành hiện thực. [2, tr.478].
1.2.3. Một số tài liệu như bài viết của Denyse Tremblay, của Howard Gardne, Chương trình GDTH bang Québec và Tài liệu CTGDPT tổng thể trong CTGDPT mới của Bộ GDĐT còn nêu thêm một đặc trưng nữa của NL là “sự phối hợp (tổng hợp, huy động) nhiều nguồn lực”. Chương trình GDTH bang Québec viết: “Những nguồn lực này được sử dụng một cách phù hợp, bao gồm tất cả những gì học được từ nhà trường cũng như những kinh nghiệm của HS; những kĩ năng, thái độ và sự hứng thú; ngoài ra còn có những nguồn lực bên ngoài, chẳng hạn như bạn cùng lớp, thầy giáo, cô giáo, các chuyên gia hoặc các nguồn thông tin khác” [Dẫn theo 11, tr.22]. Theo Howard Gardner, để giải quyết một vấn đề có thực trong cuộc sống, con người phải kết hợp các trí năng liên quan với nhau. 8 lĩnh vực trí năng là ngôn ngữ, logic – toán học, âm nhạc, không gian, vận động cơ thể, giao tiếp, tự nhận thức, hướng tới thiên nhiên; sự kết hợp đó tạo thành NL cá nhân. [Dẫn theo
9, tr.19].
Thực ra, những điều nói về sự phối hợp nhiều nguồn lực liên quan đến cấu trúc của NL (thường được cho là bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái độ…) và một số NL cụ thể (như NL hợp tác, NL giao tiếp…). Có thể xem đó là một đặc điểm của NL nhưng khó có thể xem là một đặc trưng phân biệt NL với những khái niệm khác như tiềm năng, khả năng hay năng khiếu – những thuộc tính vốn cũng có tính tổng hợp.
Tóm lại, có thể hiểu NL là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Hai đặc trưng cơ bản của NL là: 1) Được bộc lộ, thể hiện qua hoạt động; 2) Đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt kết quả mong muốn4.
Quan niệm về NL như trên giúp chúng ta hình dung một CT định hướng NL cho người học phải là một CT chú trọng tổ chức hoạt động cho HS. Qua hoạt động, bằng hoạt động, HS hình thành, phát triển NL, bộc lộ được tiềm năng của bản thân; tự tin, có niềm hạnh phúc bởi thành công và tiếp tục phát triển.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Còn tiếp. Mời xem thêm: