Nghiên cứu, giới thiệu Văn học Việt Nam ở Nhật Bản (Phần 2)
ĐOÀN LÊ GIANG
(Phó giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM)
3. Nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
Bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Nhật đầu tiên có tên là Kim Vân Kiều (阮攸著、小松清譯、金雲翹) do nhà văn Komatsu Kiyoshi 小松清dịch, Toho in và phát hành năm 1942. Bài bạt rất công phu của dịch giả trong sách ấy cũng chính là nghiên cứu đầu tiên về Truyện Kiều của người Nhật Bản. Komatsu Kiyoshi là dịch giả văn học Pháp, nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng ở Nhật Bản. Năm 1941, ông đến Đông Dương gặp người bạn cũ từng du học bên Pháp là thi sĩ Nguyễn Giang, con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà ông biết đến Truyện Kiều, bị thu hút bởi tác phẩm này nên ông mới để tâm dịch thuật và nghiên cứu. Bản Truyện Kiều này được xuất bản đến ba lần: lần đầu tiên – năm 1942, lần thứ hai một năm sau – năm 1943 và lần thứ ba năm 1948.
Hatakenaka Toshiro là người đầu tiên tìm mối liên hệ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với các tác phẩm “anh em” của nó trong văn học thời Edo của Nhật Bản. Năm 1960 ông có công bố bài nghiên cứu quan trọng: Kim Vân Kiều khảo (「金雲翹」考), đăng trên tạp chí Văn học so sánh của Hội Văn học so sánh Nhật Bản, số 3, tháng 9/1960, pp.37~54. Năm 1972, ông trở lại vấn đề này với bài viết: Về Kim Vân Kiều (金雲翹」について) đăng trên Tạp chí Đại học Ngoại ngữ Osaka số 27, ngày 25-01-1972, pp.11-21. Trong các bài viết của mình, GS Hatakenaka đã phát hiện ra ở Nhật Bản cũng có bản dịch và phóng tác Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Năm 1754, Kim Vân Kiều truyện truyền vào Nhật Bản qua con đường tàu buôn, được Nishida Korenori 西田維 則 (?–1765) dịch ra tiếng Nhật với tên gọi Tú tượng Thông tục Kim Kiều truyện 繡像通俗金翹傳 (Truyện Kim Kiều bằng tiếng thường – có tranh minh họa). Sau đó tác phẩm này còn được nhà văn Kyokutei Bakin 曲亭馬琴 (1767-1848) phóng tác thành Phong tục Kim Ngư truyện 風俗金魚傳 (Truyện con cá vàng – bằng tiếng thường) và được xuất bản lần đầu tiên vào 2 năm 1829-1830.
Trước khi đăng tạp chí, năm 1959 GS Hatakenaka đã trình bày bài viết của mình Kim Vân Kiều và văn học thời Edo (江戸文学 と 金 雲 翹) ở Trường Đại học Ngoại ngữ Osaka. Bài nói chuyện đã được một sinh viên trẻ là Takeuchi Yonosuke chú ý. Trong thời gian đi dạy tiếng Nhật ở Việt Nam từ 1960-1964, Takeuchi đã quan tâm đến Truyện Kiều của Nguyễn Du và, sau đó, anh đã trở thành dịch giả và nhà nghiên cứu về Truyện Kiều hàng đầu ở Nhật Bản.
Bài nghiên cứu đầu tiên của Takeuchi về Truyện Kiều được công bố vào năm 1966, đó là bài: Nguyễn Du và Kim Vân Kiều tân truyện (阮攸(グエン・ズウ)と金雲翹新伝), Tạp chí Đại học Ngoại ngữ Tokyo số 14, tháng 12/1966, pp.105~119. Gần 10 năm sau, ông công bố bản dịch Truyện Kiều của mình: Kim Vân Kiều 金雲翹, tác giả Nguyễn Du, Kodansha xuất bản, 1975. Sách này không chỉ là bản dịch đơn thuần mà còn có phần khảo cứu cực kỳ công phu gọi là Giải thuyết với bốn bài viết, hơn 130 trang: (1) Kim Vân Kiều tân truyện trong lịch sử văn học Việt Nam (31 trang, pp.262-292) của Takeuchi Yonosuke; (2) Nguyễn Du và Kim Vân Kiều tân truyện (82 trang, pp.293-374) của Takeuchi Yonosuke; (3) Một số khảo sát liên quan đến tiếng Việt (9 trang, pp.375-383) của Nguyễn Cao Đàm; (4) Kim Vân Kiều và văn học Edo (10 trang, pp.384-393) của Giáo sư Hatakenaka Toshiro (đã nói ở trên).
Mười năm sau công trình dịch thuật thứ hai công phu ấy, năm 1985, Giáo sư Takeuchi lại soạn lại Kim Vân Kiều với bản trích dịch cô đọng hơn, chủ yếu dùng để làm tài liệu học tập cho sinh viên. Bản dịch có tên là Kim Vân Kiều tân truyện, do Đại học Thư lâm xuất bản. Phía sau cuốn sách có phụ bản chữ Nôm với loại chữ viết bằng máy tính.
GS Kawamoto Kunie (Trường Đại học Keio) cũng đi vào vấn đề văn bản Truyện Kiều qua bài viết: Một số vấn đề xung quanh thời gian sáng tác Kim Vân Kiều tân truyện (「金雲翹新伝」成立をめぐる若干の問題), Kỷ yếu của Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Keio số 2 tháng 2 năm 1971, pp.1~25. Bài viết tổng hợp kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam và đưa ra kiến giải riêng.
Năm 1990, Daishùkan Shoten (Đại Tu quán Thư điếm), một nhà xuất bản danh tiếng của Nhật Bản xuất bản số chuyên đề Bách khoa thư về Việt Nam – Cuộc du hành văn hóa lịch sử, Tokyo (quyển số 1990-200, 金雲翹、特集 ベトナム小百科–文化と歴史 を旅する34のキーワード), trong đó có bài về Truyện Kiều của Nguyễn Du: Kim Vân Kiều (金雲翹).
Năm 1995, Akiyama Tokio 秋山時夫 (1917-1995), một cựu binh từ chiến trường Đông Dương, do yêu thích Truyện Kiều đã dịch và xuất bản bản dịch mới có tên Kim Vân Kiều (金雲翹) do Trung tâm dịch vụ của NXB Kodansha ấn hành năm 1996, sách dày 228 trang. Sau khi dịch và xuất bản Truyện Kiều, Akiyama Tokio có cho xuất bản một cuốn sách có tính nghiên cứu về Truyện Kiều với nhan đề: Đi tìm nguyên gốc Truyện Kiều, do tác giả tự xuất bản, Công ty Shinko ấn hành (新興印刷株 式会社), Tokyo, 1997. Đây không phải là công trình văn bản học đi tìm nguyên tác Truyện Kiều, mà là tập sách nghiên cứu so sánh nội dung từng chương Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Akiyama không phải là nhà nghiên cứu và dịch giả văn học chuyên nghiệp, nhưng hai quyển sách mà ông để lại là món quà quý thể hiện tình yêu của một người Nhật đối với kiệt tác văn học Việt Nam.
Năm 2005, bản dịch Truyện Kiều thứ 5 bằng tiếng Nhật được xuất bản. Nhan đề sách là: Nguyên tác: Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều, Việt – Anh dịch, cước chú: Lê Xuân Thủy, Anh – Nhật dịch: Seiji Sato và Yoshiko Kuroda, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kibijin, Tokyo, ngày 09 tháng 3 năm 2005. Ngoài việc chỉnh sửa văn phong, Kuroda Yoshiko còn viết bài bạt: Thế giới của lời thề . Bài bạt thể hiện niềm yêu thích Truyện Kiều của Nguyễn Du, đánh giá rất cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời nữ sĩ còn phát hiện ra thế giới nghệ thuật độc đáo của tác phẩm là thế giới của lời thề: tất cả các nhân vật đều thề, và cốt truyện được triển khai theo những lời thề ấy.
Cũng năm ấy, GS Ishii Kôsei 石井 公成, học giả Phật giáo Đông Á, làm việc ở Trường Đại học Komazawa có bài nghiên cứu về Truyện Kiều: Biến tấu Kim Vân Kiều, Tạp chí Văn học (số chuyên đề Đọc lại Khu vực văn hóa chữ Hán-Đông Á) (『金雲翹』の変奏) (特集 東アジア–漢文文化圏を読み直す ; 東アジアのネットワーク), Iwanami shoten 6(6) 2005, p.166~169.
Việc nghiên cứu chuyên sâu, có đóng góp quan trọng về Truyện Kiều phải kể đến các nghiên cứu của các giáo sư Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Trước hết là các nghiên cứu của GS Kawaguchi Kenichi. Kawaguchi tiếp tục con đường nghiên cứu hàn lâm về Truyện Kiều của thầy mình là GS Takeuchi Yonosuke. Nếu như GS Hatakenaka Toshiro, người đã tìm ra những “anh em” của Truyện Kiều ở văn học Edo, đã gợi ý cho người học trò Takeuchi Yonosuke của mình đến với Truyện Kiều của Nguyễn Du, thì đến lượt mình, Kawaguchi lại làm rõ những gợi ý mà Hatakenaka đưa ra. Kawaguchi đã nghiên cứu sâu hơn về Thông tục Kim Kiều truyện của Nishida Korenori và Phong tục Kim Ngư truyện của Kyokutei Bakin.
Ông đã công bố kết quả nghiên cứu của mình qua hai bài:
– Một số vấn đề xung quanh hai tác phẩm của Nguyễn Du và Bakin (阮攸(グエン・ズー)と馬琴 : 二つの作品をめぐって), Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và tiếng Nhật (日本語・日本学研究), Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản Quốc tế của Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, số 3 năm 2013 (tiếng Nhật), p.199-213;
– Truyện Kiều từ góc độ văn học so sánh Đông Á, in trong kỷ yếu Di sản văn chương đại thi hào Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.464- 473.
TS Nohira Munehiro, học trò của GS Kawaguchi, hiện là giảng viên Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo tiếp tục con đường nghiên cứu sâu về Nguyễn Du. Ông nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du. Năm 2015, ông công bố hai bài quan trọng:
– Khuất Nguyên trong thơ chữ Hán đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Du, nhà thơ Việt Nam (ベトナムの詩人、阮攸の19世紀初頭漢詩作品における屈原), Nhật Bản nghiên cứu giáo dục niên báo của Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, số 19, tháng 3 năm 2015, pp.175-190;
– Một giả thuyết khác về hành trình đi sứ của Nguyễn Du năm 1813-1814, in trong kỷ yếu Di sản văn chương đại thi hào Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.283-290.
Bài thứ hai có nhiều phát hiện rất đáng chú ý. Trong bài viết này ông chứng minh miếu Nhạc Phi mà Nguyễn Du viết trong Bắc hành tạp lục không phải là miếu ở Tây Hồ, Hàng Châu như Đào Duy Anh xác định, mà là miếu ở Hà Nam. Trong bài viết anh cũng xác định lại vị trí các địa danh: mộ Chu Lang, núi Ngũ Tổ Sơn, Thạch đài của Lương Chiêu Minh Thái Tử, nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa, trạm Tây Hà khác với chú giải của các nhà nghiên cứu Việt Nam. Từ những kết luận đó của Nohira có thể dẫn đến phải vẽ lại sứ trình Nguyễn Du và sắp xếp lại các bài thơ trong Bắc hành tạp lục.
4. Nghiên cứu về Phan Bội Châu
Trong số các tác gia văn học Hán Nôm Việt Nam thì Phan Bội Châu là người được chú ý nghiên cứu nhiều nhất và từ rất sớm. Công trình đầu tiên là Truyện các chí sĩ tiên phong Đông Á (東亜先覚志士記伝) do Hắc Long Hội/Kokuryukai (黒龍会) biên tập, Kokuryukai shuppanbu xuất bản năm 1935, trong đó có truyện về Phan Bội Châu (Nguyễn Tiến Lực, 2017). Tiếp theo là hai quyển nữa: (1) Inukai Bokudo truyện (犬養木堂伝) do Toyo Keizai Shimpo biên tập, Toyo Keizai Shimposha xb.1938-1939, trong đó giới thiệu hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật và sự giúp đỡ thiết thực của Inukai Tsuyoshi đối với ông; (2) An Nam lê minh ký (安南黎明記) của Sakurada Tsunehisa 桜田常久 (1897-1980), Kodansha xuất bản, 1942. Trong đó Phần 1 viết về Lưu Vĩnh Phúc, Phần 2 về Phan Bội Châu và Phần 3 về Nguyễn Thái Học.
Sau một thời gian yên ắng, đến thập niên 1960 mới bắt đầu có những nghiên cứu về Phan Bội Châu. Trước hết là những nghiên cứu của Tanigawa Yoshihiko 谷川栄彦, giáo sư lịch sử Đông Nam Á, Trường Đại học Hirishima Shudo. Tanigawa viết về họ Phan trong các công trình chung về sử Việt Nam trước 1945, như bài: Phong trào dân tộc Việt Nam trước Chiến tranh thế giới lần thứ I (第一次世界大戦前のヴェトナム民族主義), Tạp chí Hosei kenkyu số 7 năm 1961, hay công trình dài hơi hơn: Lịch sử phong trào dân tộc ở Đông Nam Á (東南アジア民族解放運動史), Keisoshobo xuất bản, 1979.
Học giả nghiên cứu sâu nhất về Phan Bội Châu thập niên 60 đến 70 thế kỷ XX là Kawamoto Kunie川本邦衛. Từ năm 1966, ông và Nagaoka Shinjiro 長岡新次郎 đã cho xuất bản sách nghiên cứu về Phan Bội Châu: Việt Nam vong quốc sử và những tác phẩm khác (ヴィエトナム亡国史他), Heibonsha xuất bản, 1966. Sau đó, ông có nhiều bài đi vào nghiên cứu tư tưởng của Phan Bội Châu thông qua văn bản tác phẩm của ông. Đó là các bài:
– Về các trước tác thời kỳ đầu của Phan Bội Châu (潘佩珠の初期の著作について), Tạp chí Keio daigaku – Gebun kenkyu số 30-1971;
– “Quan điểm về Nhật Bản của Phan Bội Châu” (潘佩珠 (Phan-Boi-Chau) の日本観), Tạp chí Rekishigaku kenkyu số 391, tháng 12/1972, pp.38~45;
– “Tư tưởng của Phan Bội Châu trong thời kỳ Duy Tân – Đông Du: Nguyên điểm của phong trào dân tộc Việt Nam” (維新東遊期における潘佩珠の思想-ヴェトナム民族運動の起点), Tạp chí Shiso số 584, tháng 2/1973, pp.140~154;
– Quan hệ giữa Phan Bội Châu với phái Bảo hoàng và phái Cách mạng đồng minh hội trong thời kỳ Duy Tân – Đông Du – bài 1 (潘偑珠と保皇及び革命同盟会との関係維新東遊期についてみたる), Tạp chí Keio gijutsu daigaku gengo bunka kenkyusho, số 11-1979, bài 2 số 13, tháng 12/1981, pp.51~69.
Từ thập niên 1980 đến nay, nhà nghiên cứu chuyên sâu nhất, có nhiều đóng góp nhất về Phan Bội Châu là GS Shiraishi Masaya 白石昌也, học giả về chính trị quốc tế Nhật Bản, giáo sư Đại học Waseda. Từ năm 1975 ông đã công bố bài viết công phu bằng tiếng Anh: Phan Boi Chau and Japan (Phan Bội Châu và Nhật Bản) đăng trên Tạp chí Southeast Asian Studies của Đại học Kyoto, Vol.13, No.3, 1975. Với nguồn tư liệu phong phú ở Việt Nam (cả hai miền Nam – Bắc), Nhật Bản, Trung Quốc, Shiraishi đã viết hàng chục bài đi sâu vào giai đoạn Phan Bội Châu ở Nhật Bản, Trung Quốc và xem xét họ Phan trong mối liên hệ với các phong trào dân tộc ở châu Á. Các bài viết ấy đăng trên các tạp chí: Tonan Ajia kenkyu (Đại học Kyoto), Toyo Bunka Kenkyujo Kiyo, Toyoshi kenkyu, kỷ yếu Osaka Gaikokugo daigaku Tai-Betonamugo gakka, kỷ yếu Kokuritsu kyoiku kenkyusho,… Năm 1992, ông trình luận án tiến sĩ ở Đại học Tokyo với đề tài: Phong trào dân tộc Việt Nam và Nhật Bản, châu Á cận đại: trọng tâm là tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu (ベトナム民族運動と近代日本・アジア ファン・ボイ・チャウの革命論を中心に). Sau đó, luận án được xuất bản thành sách: Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và Châu Á: tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới (ベトナム民族運動と日本・アジア-ファン・ボイ・チャウの革命思想と対外認識), Gannando xuất bản 1993. Bản tiếng Việt do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2000. Công trình này có thể coi như “tập đại thành” nghiên cứu về Phan Bội Châu của GS Shiraishi, thậm chí của cả học giới Nhật Bản.
Ngoài những công trình trên, Shiraishi còn có hai sách khác về Phan Bội Châu xuất bản ở Nhật: (1) Phan Bội Châu trong thời kỳ Đông Du – Từ khi đến Nhật đến khi giao lưu với các nhà cách mạng Nhật Bản và Trung Quốc (東遊運動期のファン・ボイ・チャウー渡日から日・中革命家との交流まで), Gannando xuất bản, 1981; (2) Vị anh hùng dân tộc và Hoàng tử Việt Nam cùng hướng tới Nhật Bản – Phan Bội Châu và Cường Để (日本をめざしたベトナムの英雄と皇子―ファン・ボイ・チャウとクオン・デ),
Sairyusha xuất bản, 2012.
Nghiên cứu sâu về tư tưởng của Phan Bội Châu phải nói đến các bài viết của GS Imai Akio, học giả chuyên về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Giáo sư Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Ông có ba bài được nhiều người biết đến: (1) Nho giáo và chủ nghĩa dân chủ trong Phan Bội Châu (ファン・チュー・チンにおける 「民主主義」 と儒教 ), kỷ yếu Tập tham luận của trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo ngày 30 tháng 3 năm 1990; (2) Xung quanh “Chủ nghĩa xã hội” của Phan Bội Châu (『社会主義』 をめぐって), Tạp chí Đại học Ngoại ngữ Tokyo, số 45, 1992, pp.237-250 ; (3) Tư tưởng cuả Phan Bội Châu trong thời kỳ giam lỏng ở Huế (フエ軟禁時代のファン・ボイ・チャウの思想), Tạp chí Đại học Ngoại ngữ Tokyo, số 54, 1997, pp.61-72.
Tác phẩm Tự phán của Phan Bội Châu đã được dịch ra tiếng Nhật do nhóm các nhà nghiên cứu Utsumi Sanbachiro (内海三八郎), Chishima Eiichi(千島英一) và Sakurai Ryoju (櫻井良樹) thực hiện. Bài giới thiệu ở phần đầu sách này là một bài nghiên cứu rất công phu. Sách được Fuyo shobo xuất bản năm 1999 với nhan đề Truyện Phan Bội Châu, nhà hoạt động vì độc lập Việt Nam – Cuộc sống của nhà cách mạng bôn ba Nhật Bản và Trung Quốc (ヴェトナム独立運動家潘佩珠伝 日本・中国を駆け抜けた革命家の
生涯).
Có thể kể thêm ở đây một số nghiên cứu khác nữa:
– Tomita Haruo 冨田春生: Mộ và bia kỷ niệm – Di sản còn lại của phong trào Đông Du (墓と記念碑―東遊運動が残したもの), Tạp chí Nanpo bunka số 2-1985;
– Matsumoto Kenichi 松本健一: Sự thể nghiệm tinh thần châu Á cận đại (近代アジア精神の試み), Chuokoron xuất bản, 1995;
– Shibata Shizuo柴田静夫, Bia ghi ơn: Bác sĩ nghĩa hiệp Asaba Sakitaro và Phan Bội Châu (報恩の碑 : 義侠の医師浅羽佐喜太郎と潘佩珠), Seishido xuất bản, 2009;
– Tanaka Tsutomu田中孜, Bông hoa của phong trào Đông du của Việt Nam ở Nhật Bản – Bí sử độc lập Việt Nam: Phong trào Đông du của Phan Bội Châu và bác sĩ Asaba Sakitaro (日越ドンズーの華 : ヴェトナム独立秘史: 潘佩珠の東遊 (=日本に学べ) 運動と浅羽佐喜太郎), Meiseisha xuất bản, 2010.
Bên cạnh các nhà nghiên cứu Nhật Bản, thì các nhà nghiên cứu Việt Nam ở Nhật cũng có nhiều đóng góp như: Trần Đức Thanh Phong, Trần Đức Giang, Đỗ Thông Minh, Nguyễn Tiến Lực, Đào Thu Vân,… Trong đó, Nguyễn Tiến Lực với luận án tiến sĩ Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Nhật Bản – Từ Minh Trị duy tân đến chiến tranh Thái Bình Dương (ベトナム・日本関係史の研究―明治維新から太平洋戦争まで) bảo vệ ở Đại học Hiroshima năm 1998 là nhà nghiên cứu tiêu biểu nhất.
5. Dịch và giới thiệu Nhật ký trong tù
Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng thứ hai của Việt Nam sau Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nếu như ở Nhật Bản cho đến nay có 5 bản dịch Truyện Kiều, thì Nhật ký trong tù cũng có đến 3 bản dịch. Bản dịch Nhật ký trong tù ra tiếng Nhật cũng thuộc vào loại sớm so với các thứ tiếng khác.
Nhật ký trong tù được giới thiệu lần đầu tiên ở Nhật Bản là bản dịch 8 bài trong tuyển tập thơ Việt Nam có tên Việt Nam thi tập (ベトナム詩集) trong bộ Thế giới hiện đại thi tập (tập 11), Ôshima Hiromitsu 大島博光 dịch, Iidzuka xuất bản, Tokyo, 1967, phát hành 1968. Ôshima sinh năm 1910 ở thành phố Nagano, năm 1934 tốt nghiệp Khoa Văn học Pháp, Đại học Waseda. Dịch nhiều thơ Pháp và thơ thế giới, hoạt động tích cực trong phong trào văn học dân chủ, tham gia sáng lập Nhật Bản dân chủ chủ nghĩa đồng minh năm 1965.
Từ thập niên 1970 đến 1980 có nhiều công lao trong việc giới thiệu văn hóa Pháp. Mất năm 2006, thọ 95 tuổi. Trong Việt Nam thi tập nói trên, ông dịch 8 bài thơ trong Nhật ký trong tù đó là: Khai quyển, Đi đường, Chiều tối, Cảm tưởng đọc Thiên gia thi, Chơi chữ, Ngắm trăng, Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng, Cảnh binh khiêng lợn cùng đi.
Bản dịch Nhật ký trong tù đầy đủ đầu tiên là Hồ Chí Minh – Ngục trung nhật ký – thơ và đời (ホーチミン『獄中日記 詩とそのひと』), Akiyoshi Kukio 秋吉 久紀夫 dịch, giới thiệu, Iidzuka shoten in lần thứ nhất, 1969. Akiyoshi là nhà thơ, dịch giả, giáo sư đại học, sinh năm 1930 ở tỉnh Fukuoka. Tốt nghiệp Đại học Kyushu, Tiến sĩ cùng trường năm 1977, là Giáo sư Đại học Nữ Fukuoka, Đại học Kyushu. Năm 1993 về hưu, được nhiều tặng thưởng về dịch thuật. Tập sách có ba phần chính và lời tựa, phụ lục như sau: Thơ Hồ Chí Minh (tựa); Nhật ký trong tù; 16 bài thơ khác của Hồ Chủ tịch; Lý luận văn nghệ; Phụ lục. Sách dịch, nghiên cứu công phu. Sau lần in thứ nhất, 6 năm sau, năm 1975, sách được
NXB Iidzuka tái bản lần thứ hai.
Bản dịch thứ hai là Hồ Chí Minh – thơ và nhật ký (ホーチミンの詩と日記), Kawamot Kunie dịch. Kawamoto là nhà Việt Nam học người Nhật nổi tiếng đã giới thiệu ở trên. Một năm sau khi Hồ Chí Minh từ trần, Kawamoto cho xuất bản Hồ Chí Minh – thơ và nhật ký (ホーチミンの詩と日記, Asahi Shimbunsha xuất bản, in lần thứ nhất, Tokyo, 1970) giới thiệu về cuộc đời cách mạng, tập thơ Nhật ký trong tù và các bài thơ khác của Hồ Chí Minh. Các chương sách bao gồm: (1) Đến thành phố Le Havre – Ra đi làm cách mạng; (2) Ngẩng đầu mặt trời đỏ; (3) Liễu Châu, Quế Lâm, lại Liễu Châu; (4) Người Việt Nam và thơ chữ Hán; (5) Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do; (6) Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh; (7) Lời thơ Việt Nam gửi đồng bào; (8) Lời bạt.
Việc dịch và giới thiệu Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh ở Nhật Bản gắn liền với cuộc đấu tranh của giới trí thức đại học Nhật Bản chống chiến tranh Việt Nam, thể hiện tình cảm sâu sắc của giới trí thức tiến bộ Nhật Bản với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, thống nhất dân tộc.
KẾT LUẬN
Việt Nam và Nhật Bản đều nằm trong khu vực văn hóa chữ Hán, mô hình văn hóa truyền thống rất nhiều điểm tương đồng, nên người Nhật không cảm thấy khó khăn khi tìm hiểu văn học Việt Nam. Ở châu Á, Nhật Bản là nước hiện đại hóa sớm nhất, nên giới nghiên cứu Nhật Bản cũng quan tâm nghiên cứu Việt Nam từ rất sớm, có lẽ chỉ sau Trung Quốc. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam vì quyền độc lập dân tộc kéo dài suốt mấy chục năm đã tạo nên sự quan tâm sâu sắc của giới trí thức Nhật Bản đối với lịch sử và văn hóa Việt Nam. Văn học Việt Nam được nghiên cứu nhiều cũng nằm trong xu hướng ấy. Gần một trăm năm nghiên cứu văn học Việt Nam, ở Nhật Bản đã hình thành nhiều thế hệ học giả, thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, thành một trong những quốc gia có ngành Việt Nam học mạnh nhất thế giới. Phương pháp nghiên cứu cẩn trọng, chú trọng vào tư liệu, cách nhìn nhận khách quan, đồng thời, áp dụng những phương pháp nghiên cứu tiên tiến, khiến cho việc nghiên cứu văn học của các học giả Nhật Bản có những giá trị đặc biệt, có vị trí riêng so với các nghiên cứu của các nước khác. Việc chú trọng vào văn học, cho thấy học giới Nhật Bản muốn có một hiểu biết căn bản, sâu sắc về văn hóa Việt Nam. Việc đi sâu tìm hiểu, dịch, giới thiệu các công trình nghiên cứu có giá trị của Nhật Bản về Việt Nam vẫn là một thách thức đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Kawamoto Kunie (1998), Truyền kỳ mạn lục san bản khảo (傳奇漫録刊本攷), Sở Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Keio xuất bản, 1998.
2. Lương Thị Thu, Nguyễn Thị Oanh (2006), “Bước đầu tìm hiểu kho sách chữ Hán của Việt Nam ở Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp qua Thư mục của Matsumoto Nobuhiro”, Thông báo Hán Nôm 2006.
3. Nguyễn Tiến Lực (2017), Nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản, Văn hóa Nghệ An, http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/nghien-cuu-vephan-boi-chau-o-nhat-ban.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay.
NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2019 (từ trang 49 đến trang 63)
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)