Nhận xét của một số người Tây phương về tiếng Việt

   ĐỖ QUANG CHÍN

     Người cùng một nước, nói cùng một thứ tiếng thì ít khi nhận thấy sự “kỳ lạ” của tiếng mình, bởi vì hàng ngày quá quen với những âm thanh đó, nên không để ý, trừ khi chịu khó học hỏi, nghiên cứu tiếng nước mình và đem so sánh với các ngôn ngữ khác. Người Việt chúng ta cũng thế, vì đã quen với tiếng nước mình từ khi còn nhỏ, nên không để ý đến điều mà người ngoại quốc thấy khi họ bắt đằu nghe và học tiếng Việt. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày nhận xét về tiếng Việt của bốn người Tây phương sau đây: Cristoforo Borri, Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), Gio. Filippo de Marini và Joseph Tissanier. Các ông là những người ở Việt Nam trong khoảng từ 1618 đến 1663, đã học tiếng Việt và đóng góp nhiều ít vào việc thành lập chữ viết của chúng ta ngày nay. Dưới đây chúng ta sẽ thấy họ nhận xét thế nào về thanh và ngữ pháp tiếng Việt.

THANH TIẾNG VIỆT

     Tháng 12-1624 Linh mục Đắc Lộ (1) từ Áo Môn (2) đi tầu buôn Bồ Đào Nha tới cửa Hàn (Đà Nẵng) sau 19 ngày vượt biển và bị bão ở gần đảo Hải Nam. Tới Đàng Trong, Đắc Lộ đến ở tại Thanh Chiêm (Dinh Chàm), tức là thủ phủ Quảng Nam Dinh, và học tiếng Việt tại đó. Sau này Đắc Lộ viết : “Riêng tôi xin thú nhận rẳng, khi vừa tới Đàng Trong nghe người Việt nói truyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thề học được tiếng Việt”.

__________
(1) Chúng tôi sẽ sơ lược tiểu sử của ông trong chương ba.

(2) Áo Môn tức O Moon, người Bồ Đào gọi là Macau, người Pháp gọi là Macao, là một doi đất cửa sông Tây Giang, ờ phía Bắc đảo Schangch’uan chừng 80 cây số. Vào giữa thế kỷ 16, bọn cướp biển trú ở Áo Môn hay đến quấy nhiễu thành Quảng Châu. Lúc đó, đã có một số thương gia Bồ Đào Nha tạm cư tại đảo Schangch’uan. Nhà cầm quyền Quảng Châu liền nhờ một số thương gia Bồ Đào Nha ở Schangch’uan trợ lực dẹp bọn cướp biển. Sau khi đám người Bồ Đào dẹp xong bọn cướp Áo Môn, họ liền xin người Trung Hoa cho phép ở lại trên đảo Schangch’uan và doi đất Áo Môn. Trung Hoa cho phép, nhưng buộc mỗi năm phải đóng thuế 2 000 écus (écu là đơn vị tiền tệ cùa một số nước Tây phương thời đó). Sự việc xảy ra năm 1557. Từ đó người Bồ Đào dần dần làm chủ Áo Môn, rõ ràng nhất là từ năm 1622. Ngày nay, Áo Môn vẫn còn nằm trong tay Bồ Đào Nha.

     Quả thật, đối với người Âu châu, lúc đầu học tiếng Việt thật là khó, vì họ không phân biệt nổi thanh mỗi tiếng. Linh mục Gio. Filippo de Marini ở Đàng ngoài từ 1647-1658, cũng nhận rằng: “Một người sau khi đã học nói tiếng Việt kha khá-, thì kinh nghiệm cho họ hay rằng, tiếng Việt quả là cực kỳ khó khăn” -. Linh mục Joseph Tissanier ở Đàng Ngoài từ 1658-1663 cũng ghi lại như sau : -“Tôi xin thú nhận rẳng, lúc đầu tiếng Việt làm tôi phát sợ, vì thấy nó khác các ngôn ngữ Âu châu quá” nên hầu như tôi thất vọng trong việc học tiếng này (1).

     Tuy tiếng Việt khó, nhưng sau một thời gian miệt mài, những người trên đây đã nói và nghe được tiếng Việt. Joseph Tissanier (2) đến Đàng Ngoài ngày 13-4-1658, bốn tháng sau, ông đã có thể tạm “giải tội” (3) và nói những câu truyện thường với người Việt. Đối với Đắc Lộ, sau mười tháng học, ông đã bắt đầu giảng thuyết (4). Linh mục C. Borri đến Đàng Trong năm 1618, và qua sáu tháng học tập, ông đã nói truyện và “giải tội” được. Ông thú nhận rằng, muốn hiểu và nói được tiếng Việt hoàn toàn, phải dành ra bốn năm trọn để học (5)

     Tiếng Việt tuy khó, nhưng lại “du dương, hòa điệu” (6) “giống như bản nhạc liên hồi”(7) . Borri nói rõ rằng, người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh (8), thì theo ý ông, tiếng Việt là tiếng dễ dàng nhất đối với họ (9). Marini cho rằng, dường như là dân Việt bẩm sinh đã có một cơ thể rất chính xác, được điều chỉnh thật đúng và hòa hợp hoàn toàn với trí óc cùng buồng phổi ; phải nói là, theo tự nhiên, người Việt là nhạc sư, vì họ có tài phát âm một cách nhẹ nhàng và chỉ hơi biến thanh là đã khác nghĩa (10). Dường như đối với người Việt “nói và hát cũng là một” (11). Ông Marini nói thêm : “Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu. Những người Việt từ nhỏ đã học nói theo nhịp điệu, dầu họ không phải là nhạc sư” (12).

     Theo Đắc Lộ, Marini, Tissanier, thanh tiếng Việt khó vì những lý do sau đây : Thứ nhất, tất cả mọi tiếng đều là cách ngữ. Thứ hai, cùng một tiếng phát âm một cách khác nhau, có thể chỉ nhiều nghĩa và thường lại có nghĩa đối nghịch nhau. Vì thế theo Đắc Lộ, cùng một tiếng như tiếng Dài chằng hạn, nếu đọc bằng nhiều cách, thì nó chỉ tới 23 sự vật hoàn toàn khác nhau (13). Thứ ba, thanh cùa mỗi tiếng đôi khi rất nhẹ và khá tế nhị. Do đấy, ai muốn tấn tới trong việc học tiếng Việt, phải chu chu chăm chắm mà học, để có thể phân biệt được các thanh. Thứ bốn, đây là điểm khó khăn nhất trong khi dùng tiếng Việt, đó là việc phát âm. Trong khi đọc lên một tiếng, người ta phải làm thế nào để hơi thở, môi, răng, lưỡi và họng cùng hòa hợp phát ra một tiếng vừa phải và chính xác. Như vậy thì tiếng vừa phát ra mới chỉ đúng sự việc mình muốn nói (14).

__________

(3) Giải tội : Là một bí tích trong dạo Công giáo do Chúa Ky Tô thiết lập. Theo quyết định của cộng dồng Latran IV năm 1215, người Công giáo khôn lớn mỗi năm phải đi xưng tội một lần với vị Linh mục có quyền giải tội. Linh mục phải tuyệt đối giữ kín mọi tội người khác đã xưng với mình nơi tòa giải tội; dầu có phải chết cũng không được nói ra.

(4) Thư của Đắc Lộ vỉết ngày 16-6-1625 ờ Đàng Trong, gừi L.m. Phụ tá Bề trên Cả (Tổng quản) Dòng Tên ở La Mâ, bằng chữ Bồ Đào Nha, trong Archivum Romanum Societatis lesu, Jap. — Sin- 68, tr13.

(5) Christofle BORRI, Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine, Lille, 1631, tr. 74.

(6) Ibid., tr. 73.

(7) RHODES, Sommaire des divers voyages.., Paris, 1653, tr. 36.

(8) Ngày xưa, Borri viẽt là tonaccent, nhưng đáng lý theo khoa ngữ học ngày nay, thì phải viết là sonton.

(9) BORRI, Relation de la novvelle mission, tr73.

(10) MARINI, Relation des Royaumes de Tunquin et de Lao, tr 171.

(11) “Et ad essi vna cosa è il parlare, et il cantare” (MARINI, Delle Missioni, tr. 95).

(12) MARINI, Relation des Royaumes de Tunquin et de Lao, tr 171-172.

(13) “Vne mesme syllabe, par exemple celle-là Daĩ, signifie vingt-trois choses entie rement differentes, par la diuerse facon de pronohcer” (RHODES, Divers voyga-ges et missions, tr 72).

(14) MARINI, Relation des Royaumes de Tunquin et de Lao, tr. 171-173.

     Hẳn thật những điểm khó khăn trên đây về thanh tiếng Việt, người Âu châu cảm thấy rõ ràng nhất. Cùng một tiếng, thêm bớt hay là uốn hạ âm thanh, đều làm cho nghĩa khác nhau. Điều này không thấy ở trong nhiều tiếng, như La tinh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Anh v.v… Chính L.m. Đắc Lộ khi bàn về thanh tiếng Việt đã cho một số ví dụ và thuật lại vài mẩu truyện hay hay về việc người Tây phương nói tiếng Việt. Sau đây là ví dụ của ông:

     Trong tiếng ba, nếu thêm thanh huyền sẽ thành chữ , thanh hỏi thành bả, thanh sắc thành , thanh nặng thành bạ, và thanh ngã thành . Như vậy, sáu thanh (cũng có thể gọi là sáu dấu) trong một tiếng làm khác hẳn nghĩa mỗi tiếng khi phát âm : ba bà bả [vả] bá bạ bã. Theo lời giải nghĩa của Đắc Lộ, thì sáu tiếng trên đây hoàn toàn là một câu và có đù nghĩa như sau : Ba bà thổi vào mặt (hay tát vào mặt) bà thứ phi đã bị duồng dẫy (bỏ rơi) một thứ cặn thuốc (thuốc độc) (1). Để bạn đọc hiểu rõ hơn ý nghĩa câu trên mà Đắc Lộ đã trình bầy, chúng tôi tường căn phải trích ngay những định nghĩa về mấy chữ đó do Đắc Lộ ghi trong cuốn Tự điển của ông xuất bàn tại La Mã năm 1651 (2).

     L.m. Đắc Lộ muốn chứng minh rõ rệt hơn, còn đem ra một ví dụ khác : Chữ ca, nếu thêm thanh (dấu), có bốn nghĩa khác nhau : ca : hát, : trái cà, cả : lớn, : con cá (3). Để người ngoại quốc thấy rõ hơn sự nguy hiểm trong khi phát thanh sai tiếng Việt, Đắc Lộ thuật lại hai câu truyện sau đây : Một hôm L.m. bạn với Đắc Lộ muốn bảo người giúp việc đi chợ mua cá. Khi người giúp việc ở chợ về, báo cho ông hay là đã mua như ý.

     L.m. muốn. Ông liền xuống nhà bếp coi xem loại nào, thì ông bỡ ngỡ vì người đi chợ lại mua một thúng đầy . L.m. biết ngay là vì đã đọc trại tiếng thành cà, nên ông xin lỗi người giúp việc. Một L.m. khác bảo người nhà đi chém tre. Đoàn trẻ em trong nhà L.m. nghe thế sợ quá, bỏ chạy tán loạn. Thì ra ông phát thanh lầm là chém trẻ, nên làm cho đoàn trẻ em khiếp sợ. Phải giài thích mãi trẻ em mới yên tâm và trở về nhà với Linh mục.

__________

(2) RHODES, Dictionarium annamiticum, lusitanum, et latinum, Roma, 1651, cột 15-17.

Nguồn: LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ (1620-1659).
Nxb. Tủ sách ra khơi (SaiGon 1972)

Ảnh đại diện do Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) thiết lập.