TẢN VIÊN SƠN THÁNH trong đời sống VĂN HOÁ TÂM LINH CƯ DÂN VIỆT _ MƯỜNG (Phần 1)

NGUYỄN HUY BỈNH
(Tiến sĩ, Viện Văn học – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)

1.

     Tản Viên Sơn Thánh hay còn gọi là Sơn Tinh là một nhân vật huyền thoại gắn với đời sống văn hoá tâm linh của cộng đồng cư dân Việt – Mường. Hình tượng nhân vật này là hiện thân của vị thần tối linh đại diện cho những khát vọng lớn lao và chính đáng của con người. Do vậy, từ trong truyện kể và trong tín ngưỡng dân gian, Tản Viên Sơn Thánh trở thành một vị thần linh thiêng, quyền phép nhiệm màu đã tồn tại vĩnh hằng trong tâm thức dân gian, Tản Viên được tôn sùng là vị thần đứng đầu trong thần điện tứ bất tử của người Việt.

2. Hình tượng Tản Viên Sơn Thánh trong truyện kể dân gian Việt – Mường

     Trong đời sống văn hoá tâm linh người Việt mà cụ thể là không gian văn hoá xứ Đoài, truyện kể về nhân vật Tản Viên Sơn Thánh được lưu truyền rộng rãi và trở thành một hiện tượng văn hoá độc đáo, bởi gắn với truyện kể này là các di tích thờ cúng, các địa danh, các dòng sông, ngọn núi, các cánh đồng, bãi đá, các tên làng, tên bản,… Các truyện kể ấy không tồn tại một cách độc lập hay rời rạc, mà giữa chúng có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống nhất.

     Từ góc nhìn văn bản học, các thư tịch ghi chép về nhân vật Tản Viên Sơn Thánh sớm nhất là trong Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỉ XIV), tiếp đó là trong cuốn Lĩnh Nam chích quái. Từ đó đến nay, đã có nhiều thư tịch, tài liệu ghi chép về Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) và núi Tản Viên, như Việt sử lược, An Nam chí lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Dư địa chí, Kiến văn tiểu lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, v.v. Sưu tầm bản kể trong đời sống văn hoá dân gian xứ Đoài, có nhiều truyện kể khác nhau liên quan đến nhân vật này. Các sự kiện trong suốt cuộc đời và hành trạng nhân vật từ khi sinh ra, trưởng thành, lập chiến công đều tồn tại sống động trong tâm thức dân gian.

     Đối sánh giữa truyện kể về Tản Viên Sơn Thánh trong các thư tịch cổ của người Việt với truyện kể về Tản Viên Sơn Thánh trong các tư liệu được sưu tầm ở xứ Đoài gần đây cho thấy có nhiều tình tiết khác nhau. Ở motif sinh nở thần kì, nếu trong các thư tịch cổ hình tượng Tản Viên ra đời từ hạo khí tinh anh của đất trời, hoặc ra đời từ cuộc “hôn nhân thần thánh” giữa cha rồng và mẹ tiên (Lạc Long Quân và Âu Cơ), thì trong truyện kể dân gian lưu truyền ở xứ Đoài, Tản Viên là con của một bà mẹ nghèo khổ có tên là Đinh Thị Đen. Truyện kể rằng: Một lần, khi bà Đen xuống đầm nước tắm, bỗng trên trời có một đám mây ngũ sắc bay qua sa ngay xuống nơi bà đứng. Bà về mang thai 14 tháng rồi sinh ra Tản Viên (Sơn Tinh). Khi lớn lên, Sơn Tinh được tiên ban cho gậy quý, được vua Thủy Tề ban cho sách ước và về sau trở thành con rể vua Hùng. Về hành trạng nhân vật Tản Viên, trong sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên có ghi lại rằng: Vương là Sơn Tinh, trước kết bạn thân với Thủy Tinh, ẩn cư trong động núi Gia Ninh ở Phong Châu. Thời Chu Noãn Vương, nước Việt ta gọi là Văn Lang, hiệu của vua là Hùng Vương. Vua có người con gái tên là Mị Nương, nhan sắc nức tiếng gần xa. Vua nước Thục là Phán sai sứ mang lễ đến cầu hôn, đức vua ưng thuận, nhưng đại thần là Lạc hầu can ngăn cho rằng Thục Phán cầu hôn cốt có ý dòm ngó nước ta, khuyên vua tìm người hiền tài để kén làm rể. Vua theo lời, tìm được Vương và Thủy Tinh. Vương có thể đi xuyên qua đất đá, Thủy Tinh thì có thể đi vào nước lửa, chẳng có gì cản trở được. Hai người thử tài với nhau, bất phân thắng bại. Vương nói với Thủy Tinh: Chúng ta người nào cũng có thuật lạ, may mắn được quân vương để mắt trọng vọng, mỗi người nên về lấy sản vật trong quận để làm lễ tạ. Thủy Tinh thật lòng tin ngay. Vương trở về núi, ngay đêm ấy lo chuẩn bị các thứ thổ sản như vàng bạc, ngọc thạch, sừng tê, ngà voi, cùng các loại chim thú, mỗi thứ cả trăm; trời vừa rạng sáng đã mang đến bày trước sân chầu. Hùng Vương nhận thấy lễ hậu nên thuận gả Mị Nương. Cưới xong, Vương đưa Mị Nương về ẩn ở động Lôi Sơn. Thủy Tinh đến sau, cũng mang dâng các loại thủy sản, vật hiếm của lạ, cá kình cá nghê, mỗi thứ có đến cả trăm. Hùng Vương cho triệu Mị Nương ra làm lễ, nhưng chẳng biết nàng ở đâu. Thủy Tinh cả giận, đem quân tướng đuổi theo, định phá tan Lôi Sơn. Vương tìm nơi cao dời chỗ ở, chọn được đỉnh núi Tản Viên, dựa thế núi cao ở lại đấy, thành kẻ cừu thù với Thủy Tinh, cùng đeo đuổi đánh phá nhau vì oán hận mãi không thôi. Hằng năm, Thủy Tinh nương theo nước mùa thu tiến đánh núi Tản Viên. Dân Di bảo nhau kết rào dựng cọc giúp vương chống Thủy Tinh. Còn trong truyện kể dân gian xứ Đoài đã không có nội dung kể về tình bạn giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, cũng không có nội dung thoả hiệp giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh là mỗi người về lấy sản vật ở quận mình đến làm lễ tạ như trong thư tịch Việt điện u linh mà miêu tả rằng, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đều có tài, vua không biết nhận ai làm rể, bèn bày ra cách mới thử tài là nếu ai mang lễ vật vua yêu cầu đến trước thì vua sẽ gả con gái cho người đó. Hôm sau, Sơn Tinh nhờ có sách ước nên có được các sản vật quý mang đến trước và đón Mị Nương về làm vợ. Đặc biệt, trong truyện kể dân gian xứ Đoài còn miêu tả một cách tỉ mỉ về cuộc chiến đấu giữa hai nhân vật Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Truyện kể rằng, khi Thủy Tinh kéo hết quân tướng từ Biển Đông lên đánh Sơn Tinh, quân Thủy Tinh chia làm ba đường, vây kín núi Ba Vì. Sơn Tinh chỉ huy đội quân đắp núi cao, lao cây gỗ xuống, chặn đường lên của địch. Cuối cùng quân của Thủy Tinh thua trận, chạy tán loạn từ Đầm Đượng tản ra thành mười sáu ngả khác nhau. Đến nay, Đầm Đượng vẫn còn mười sáu cửa ấy. Trong trận chiến ấy, Thủy Tinh dâng nước sông Đà lên đánh Sơn Tinh, quân của hắn tấn công vào mặt sau núi Tản, một ngả tấn công theo ngòi Tôm từ mạn thượng lưu sông Đà đánh xuống, làm cho ngọn núi Chàng Rể bị sạt lở, nghiêng hẳn về một bên vì thế người dân còn gọi núi Chàng Rể Gù Lưng. Các truyện kể về Tản Viên Sơn Thánh đã được sưu tầm ở xứ Đoài còn kể lại rằng, để chống lại Thủy Tinh, Sơn Tinh đã phải cho đắp núi cao lên tận mây xanh, Thủy Tinh không thể dâng nước lên được bèn thúc xoáy làm lở chân núi. Vì thế Sơn Tinh phải cho quân đắp thêm một dãy núi đá kéo dài từ đá Chông lên núi Chẹ để che sườn núi Tản; còn trái núi nữa, Sơn Tinh đặt chắn ngang sông Đà, không cho dòng nước tiến vào. Hai núi ấy người dân vẫn gọi là núi Chẹ và núi Chẹ Đùng. Khi Sơn Tinh đánh núi Chẹ và núi Chẹ Đùng chặn mất ngả ngòi Tôm, Thủy Tinh liền xẻ con ngòi Lạt ở phía tây bắc xuống để dẫn nước sông Đà đánh tập hậu Sơn Tinh. Không thắng được Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lập mưu, giao hẹn với Sơn Tinh chỉ đánh đến khi gà gáy là nghỉ. Hắn ngầm cho đào sông, xẻ núi tiến sát chân núi Tản. Sơn Tinh bèn giả tiếng gà gáy, báo hiệu cho quân sĩ lao gỗ đá từ trên cao xuống. Ở nơi Sơn Tinh làm tiếng gà gáy đã xoáy thành đầm, nhân dân gọi là Đầm Gà. Sơn Tinh không chỉ đắp núi rải khắp vùng đất Ba Vì, Thanh Thủy, Thanh Sơn để chống lại Thuỷ Tinh, mà khi quảy núi, ông còn vô tình tạo thành hai trái núi ở La Phù và Thạch Khoán ngày nay. Hay khi Sơn Tinh gánh đất, những tảng đất lọt sọt đã tạo nên cả một dãy gò đồi ở Tòng Mệnh, tảng lớn nhất rơi xuống thành đồi Mòm, những hòn đất rơi rải rác thành quả gò Choi. Trong trận chiến với quân tướng của Thủy Tinh, một vị tướng của Thủy Tinh là Giải bị thua trận, hắn dẫn quân về Ghềnh Bợ, nhưng lại bị quân Sơn Tinh lao gỗ đá từ trên cao xuống, đánh quân Giải chết đầy mặt sông. Giải liền lặn xuống khoét đáy sông thành vực, làm cho Ghềnh Bợ trở thành một nơi sâu thẳm. Do đó, dân gian còn lưu truyền câu ca rằng: Muốn vượt sông Đà chớ qua ghềnh Bợ… Ngoài ra, còn khá nhiều truyện kể về các địa danh, các nhân vật, vùng đất, con người gắn với sự tích về Tản Viên Sơn Thánh đã được sưu tầm và ghi chép lại trong sách Dưới chân núi Tản, một vùng văn hoá dân gian 1,… Tất cả những truyện kể ấy được hiện diện từ kí ức của người dân và đã in sâu trong tâm trí của họ về một vị thánh anh hùng – Tản Viên.

     Như vậy, đối sánh giữa bản kể về Tản Viên Sơn Thánh trong thư tịch cổ với các văn bản truyện kể được sưu tầm ở vùng đất xứ Đoài trong những năm gần đây đã cho thấy đã có những khác biệt về hành trạng của nhân vật ngay từ sự ra đời, lập chiến công và cả vai trò của nhân vật Tản Viên Sơn Thánh trong đời sống tâm linh của cộng đồng. Sự khác biệt này có thể lí giải từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do quá trình ghi chép sự tích về Tản Viên Sơn Thánh có khoảng cách lịch sử gần 10 thế kỉ, trải qua những thăng trầm lịch sử nên cốt truyện không có được sự đồng nhất. Mặt khác, trong quá trình lưu truyền ở khắp các vùng miền và địa phương khác nhau, truyện kể về Tản Viên Sơn Thánh tồn tại theo quy luật của văn học dân gian với đặc tính tập thể, truyền miệng trong việc lưu truyền tác phẩm đã chi phối nội dung cốt truyện này. Ngoài ra, vấn đề địa danh hoá cốt truyện Tản Viên cũng góp phần tạo nên nhiều truyện kể với các tình tiết khác nhau.

     Từ trang truyện kể dân gian được lưu truyền trong thư tịch và trong đời sống tâm linh của người dân xứ Đoài, hình tượng Tản Viên Sơn Thánh là hiện thân của một vị thần núi, cai quản không gian thiêng của ngọn núi Tản – nơi đó là địa linh, ở vào vị trí trấn thủy trọng yếu chống lại sự tàn phá của thuỷ tai do dòng sông Đà và sông Hồng gây ra. Tản Viên Sơn Thánh còn là hiện thân của nhân vật anh hùng chiến đấu chống lại thế lực ngoại bang, liên minh các bộ tộc, bảo vệ địa bàn cư trú của cư dân. Bên cạnh đó, qua truyện kể dân gian, Tản Viên Sơn Thánh còn là nhân vật anh hùng sáng tạo văn hoá, tạo ra lửa, khơi nguồn nước cứu nạn dân chúng, dạy dân các nghề nghiệp khác nhau và được tôn thờ như một vị tổ sư bách nghệ. Đặc biệt, Tản Viên Sơn Thánh nổi bật với vai trò của vị anh hùng trị thuỷ, giúp dân chống lại sự tàn phá của thuỷ tai, của sông nước dữ dội chứa đầy hiểm hoạ. Với hành trạng và chiến công kì vĩ ấy, hình tượng nhân vật Tản Viên Sơn Thánh đã có sức sống lâu bền trong tâm thức dân gian và được thờ cúng là một vị thần tối linh trong đời sống tâm linh người Việt.

     Không chỉ tồn tại trong đời sống văn hoá tâm linh người Việt, hình tượng Tản Viên Sơn Thánh còn hiện hữu trong đời sống văn hoá tâm linh của các cư dân người Mường. Nhà dân tộc học khả kính Nguyễn Từ Chi đã cung cấp một bản kể về sự tích Đức Thánh Tản Viên của người Mường, truyện có nội dung tóm tắt như sau: Bố đẻ của Đức Thánh Tản Viên vốn là bố Trượng (làm vía, tức cúng cho người sống). Một hôm, theo gót người dẫn đường, ông đến cung Vua Khú (loài rắn dưới nước), cứu được Khú con. Vua Khú mừng lắm, đưa ra nhiều báu vật để tạ ơn người cứu con mình. Được Khú con mách nước, bố Trượng không nhận món quà nào cả, chỉ xin một con “dao ước”, người có dao này ước gì được nấy. Nể quá, Vua Khú bằng lòng, nhưng báo trước rằng Vua chỉ cho ông mượn trong đời ông thôi, hết đời phải trả lại. Từ đó ông ước gì được nấy và trở nên giàu có. Nhưng trước khi chết, ông không kịp dối dăng gì với con trai. Nên hôm đám tang chính là hôm loài Khú vâng lệnh Vua Khú đến tận nhà đòi dao ước nhưng con bố Trượng không trả lại dao ước. Thế là Khú dâng nước lên đánh, con bố Trượng cứ nhắm núi mà chạy, chạy đến đâu nước đuổi theo đến đấy, chạy kì đặt chân lên đỉnh núi Ba Vì. Đến khi chỗ đất chưa bị ngập chỉ còn bằng miệng nong, thì Khú cũng không thể dâng nước cao hơn nữa. Về sau, con bố Trượng trở thành Đức Thánh Tản Viên 2. Từ trong bản kể này, hình tượng Tản Viên là hiện thân của nhân vật anh hùng chống lại sức mạnh và sự hung dữ của loài vua Khú – đại diện cho quyền lực dưới nước. Ngoài ra, trong đời sống văn hoá tâm linh của người Mường, hình tượng Tản Viên Sơn Thánh còn tồn tại qua một số truyện kể có tình tiết tương tự truyện kể về Tản Viên được lưu truyền trong không gian văn hoá người Việt, truyện có nội dung kể về cuộc chiến đấu giữa Sơn Tinh – Thần núi và Thuỷ Tinh – Thần nước. Hai người đều yêu mến một nàng công chúa, cuối cùng Sơn Tinh được nàng chấp thuận; người kình địch của Sơn Tinh bèn gây ra nạn lụt dâng nước sông Đà lên để ngăn cản không cho người con gái đi theo chồng chưa cưới của mình, nhưng Sơn Tinh làm cho núi cao mãi lên. Sau khi thoát khỏi nạn lụt, vị thần núi tung ra một trận mưa đá sấm sét làm tan cuộc tấn công của Thuỷ Tinh 3. Nội dung cốt truyện này của người Mường có sự tương đồng với nội dung cốt truyện truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh của người Việt. Một điều khá thú vị nữa là nội dung và cốt truyện này cũng tương tự nội dung cốt truyện Niếc Tà Phờ Num, Niếc Tà Tức 4 của người Khơ-me Nam Bộ.

     So sánh văn bản truyện kể về Tản Viên Sơn Thánh của người Mường và người Việt thì có thể dễ dàng chỉ ra các tình tiết giống và khác nhau. Tuy nhiên, có một điều thống nhất là trong tâm thức dân gian của người Việt và người Mường, Tản Viên là hiện thân của vị thần núi. Theo quy luật của sự lưu truyền và vận động truyện kể dân gian về các vị thần tự nhiên thì truyện kể về thần núi ban đầu là một thần thoại về một ngọn núi thần, về sau trải qua quá trình tồn tại, lưu truyền trong thời gian và không gian, nó đã được truyền thuyết hoá và gắn với các triều đại, với các vùng đất, các địa danh và những con người cụ thể. Cả người Việt và người Mường đều coi ngọn núi Ba Vì là núi chủ – nơi trú ngụ của Tản Viên và hình tượng Tản Viên đã được sùng bái trong đời sống tâm linh của hai tộc người này với tư cách là một vị thần vừa cụ thể sừng sững như ngọn núi Ba Vì vừa bí ẩn, kì vĩ trong tâm thức dân gian.

__________
1. Các truyện kể dân gian về Tản Viên Sơn Thánh ở xứ Đoài đã được tác giả Đoàn Công Hoạt sưu tầm, biên soạn và đã xuất bản trong sách Dưới chân núi Tản một vùng văn hoá dân gian, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử văn hoá Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 2001.

2. Xem chú thích số 28 trong chuyên luận Cõi sống và cõi chết trong quan niệm cổ truyền của người Mường. In trong Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, NXB Văn hoá Dân tộc, Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 2003, tr. 57-58.

3. Janne Cuisinier, Người Mường địa lí nhân văn và xã hội học, NXB Lao động, Hà Nội, 1995, tr. 572-573.

4. Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên), Truyện cổ Khơ Me Nam Bộ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1983, tr. 36-37.

Còn tiếp:

Mời xem: TẢN VIÊN SƠN THÁNH trong đời sống VĂN HOÁ TÂM LINH CƯ DÂN VIỆT _ MƯỜNG (Phần 2)