THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ đối với NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI trong TIẾNG VIỆT trên MẠNG INTERNET HIỆN NAY (Trường hợp diễn đàn giải trí Kites.vn) – Phần 2
TRỊNH CẨM LAN 1,
NGUYỄN MINH DIỆU 2
(1. PGS TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội
2. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội)
4.2. Sự khác biệt thái độ giữa khách và thành viên
Dưới đây là kết quả điều tra thái độ ngôn ngữ của khách và thành viên đối với các hiện tượng biến đổi ngôn ngữ:
Bảng 3: Thái độ của khách và thành viên đối với các biến đổi ngôn ngữ
Kết quả phân tích định lượng cho thấy, đối với loại ngôn phẩm có trộn mã và sử dụng tiếng lóng, thái độ của thành viên có xu hướng tích cực hơn hẳn thái độ của khách. Trong đó, những ngôn phẩm có trộn mã được đánh giá là dễ hiểu và gần gũi hơn cả đối với các thành viên (giá trị lần lượt là 4,94 và 4,55). Tuy nhiên, khuynh hướng hoàn toàn trái ngược lại xảy ra với những ngôn phẩm có biến đổi ngữ âm mà theo đó, các thành viên, những người là tác thể của sự biến đổi lại có thái độ tiêu cực hơn hẳn khách. Nếu nhìn sự khác biệt này từ góc độ biến đổi ngôn ngữ nói chung và đặc biệt là trong sự so sánh với hai hiện tượng biến đổi còn lại là trộn mã và sử dụng tiếng lóng nói riêng thì những giá trị thu được đối với hiện tượng biến đổi ngữ âm dường như không thể hiểu được. Điều này hoàn toàn nằm ngoài những dự đoán ban đầu của chúng tôi và có vẻ trái ngược hẳn với logic thông thường. Câu hỏi đặt ra là điều gì tạo nên sự bất thường đó? Do phương pháp điều tra trực tuyến không cho phép thực hiện phỏng vấn sâu nên chúng tôi không thể có lời giải thích từ CTV cho dù số liệu thống kê gợi ý những chỉ báo quan trọng mách bảo nên khai thác sâu hơn nguồn dữ liệu. Do vậy, không có cách nào khác hơn là đi tìm câu trả lời từ đặc trưng thuần tuý ngôn ngữ học của từng hiện tượng biến đổi.
Xét tư liệu trộn mã, có thể nhận thấy các chủ thể ngôn phẩm chủ yếu trộn mã vì một số động cơ như: (1) tiết kiệm bởi các bộ phận mã ngôn ngữ khác trộn vào ngôn phẩm tiếng Việt thường có kích thước vật chất ngắn gọn hơn, giúp tiết kiệm thời gian và không gian so với phương tiện tương đương trong tiếng Việt, chẳng hạn tks (cảm ơn), new (tin tức), hi (chào anh/chị/bạn…), bye (chào tạm biệt); hay (2) lấp những ô trống từ vựng khi khó tìm trong tiếng Việt phương tiện diễn đạt hiệu quả hơn, chẳng hạn hotgirl, hotboy, clip,…; hay (3) để thể hiện những điều khó nói hay ít phù hợp với văn hoá Việt như love you (yêu anh/ em), you are so cute (em thật duyên dáng), he’s nice (anh ấy rất dễ thương)…; hay (4) để giảm nhẹ ý thô tục, chẳng hạn: Trông rất sexy, Body ngon thế!… Những biến đổi như vậy có mặt tích cực ở chỗ nó có xu hướng làm giàu thêm cho tiếng Việt, nó giúp các chủ thể ngôn phẩm thuận tiện, tiết kiệm hơn trong biểu đạt nhưng hiệu quả dường như lại cao hơn. Nhưng với tư cách là người chỉ tiếp nhận ngôn phẩm, những người khách hoàn toàn không được hưởng những lợi thế đó, ngược lại, nó có thể gây cho họ sự khó hiểu làm giảm khả năng tiếp nhận. Đây có thể là lí do làm cho cán cân đánh giá tích cực nghiêng hẳn về phía các thành viên.
Tương tự như vậy, việc sử dụng tiếng lóng cũng tạo ra những lợi thế nhất định cho các thành viên, điều mà những người khách không được hưởng. Với tư cách một phương ngữ xã hội, tiếng lóng mà cư dân mạng sử dụng cũng mang những đặc trưng như tiếng lóng của các nhóm xã hội khác. Nếu trước đây, khái niệm tiếng lóng được dùng để chỉ riêng ngôn ngữ của những kẻ lưu manh, trộm cắp, làm ăn bất chính thì giờ đây, cách hiểu về tiếng lóng đã thay đổi. Theo đó, yếu tố “bí mật” ngày càng giảm đi, thay vào đó là những yếu tố làm tăng thêm cho phát ngôn sự hấp dẫn, mới lạ và vì thế, nó có thể làm giàu thêm các phương tiện biểu đạt. Đặc điểm này cho phép những người sản sinh ngôn phẩm có thêm nhiều lựa chọn để diễn đạt phong phú hơn. Với lợi thế nghiêng về các chủ thể sản sinh ngôn phẩm là chính, tiếng lóng của cộng đồng mạng có thể vì thế mà được nhóm thành viên ưa thích hơn nhóm khách.
Khác hẳn với hai hiện tượng trên ở năng lực làm giàu các phương tiện diễn đạt, hiện tượng biến đổi ngữ âm hoàn toàn không giúp làm giàu thêm cho tiếng Việt. Quả thực, nếu không có một số đơn vị mã ngôn ngữ khác hay một số đơn vị từ lóng, cộng đồng mạng có thể sẽ thiếu đi hoặc khó tìm ra một số phương tiện diễn đạt hiệu quả trong số vốn liếng tiếng Việt của mình, nhưng nếu thiếu đi các biến thể ngữ âm là kết quả của sự biến đổi hỗn độn, vô tổ chức, cư dân mạng có lẽ cũng chẳng hề hấn gì trong việc thể hiện tư tưởng, thông điệp, có chăng chỉ giảm đi một chút cái gọi là “bản sắc” nhóm mà thôi. Xét từ góc độ chuẩn mực, sự biến đổi ngữ âm ấy chỉ là một trong những tác nhân làm mất đi vẻ đẹp của tiếng Việt bởi những lệch lạc, méo mó so với chuẩn mực thông thường. Và như vậy, khác với trộn mã và sử dụng từ lóng, bản thân các thành viên cũng ít được hưởng lợi từ hiện tượng biến đổi ngữ âm, thậm chí còn bị gây khó khăn do sự hỗn loạn, thiếu quy luật. Còn khách, với tư cách người tiếp nhận, khó khăn sẽ giảm đi một nửa và khi đó, thiện cảm cũng ít bị ảnh hưởng hơn. Đây có thể là nguyên nhân đưa đến giá trị về thái độ ưa thích của thành viên đối với hiện tượng biến đổi ngữ âm thấp hơn khách một cách bất ngờ.
4.3. Thái độ ngôn ngữ và sự khác biệt xã hội
Để khảo sát tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội của người nói, chúng tôi thực hiện một thao tác quy đổi các câu trả lời trên thang ngữ nghĩa 7 bậc thành câu trả lời 3 phương án lựa chọn. Theo đó, CTV chọn mức 1 và 2 được xem như có thái độ tiêu cực, CTV chọn mức 6 và 7 được xem là có thái độ tích cực, CTV chọn mức 3, 4 và 5 sẽ được coi là có thái độ trung lập đối với các biến đổi ngôn ngữ.
Như đã trình bày, thái độ ngôn ngữ của mỗi cá nhân có thể chịu những ảnh hưởng ít nhiều bởi những đặc điểm xã hội của cá nhân đó. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nữ giới thường có xu hướng dùng biến thể chuẩn/có uy tín nhiều hơn nam giới. Bên cạnh đó, các nhà biến thể học cũng cung cấp nhiều bằng chứng về sự khác biệt thái độ ngôn ngữ theo học vấn: những người có học vấn thấp và ít có điều kiện tiếp xúc với ngôn ngữ chuẩn sẽ có thái độ chấp nhận chuẩn ít hơn những người có học vấn cao và có điều kiện tiếp xúc nhiều với biến thể chuẩn… (Labov, 1976 [11]; Chamber & Trudgill, 1980 [5]).
Ngược lại với các nghiên cứu trên, ở Việt Nam, nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Hương đã không tìm ra mối tương quan nào giữa giới tính và thái độ đối với chuẩn, tuy nhiên, tác giả lại tìm ra mối quan hệ có ý nghĩa giữa học vấn và thái độ đối với chuẩn: những người có học vấn cao có xu hướng chấp nhận chuẩn nhiều hơn những người có học vấn thấp và thái độ chấp nhận chuẩn có tác động tích cực đến hành vi ngôn ngữ: những người có thái độ chấp nhận chuẩn có xu hướng sử dụng biến thể chuẩn nhiều hơn những người không có thái độ chấp nhận chuẩn [13]. Ủng hộ kết quả của Vũ Thị Thanh Hương ở tương quan giữa học vấn và thái độ ngôn ngữ nhưng không chia sẻ kết luận về tương quan giữa giới với thái độ, chúng tôi (Trịnh Cẩm Lan, 2007 [3], 2012 [4]) đã tìm ra nhiều mối tương quan có ý nghĩa giữa thái độ ngôn ngữ với giới, tuổi, học vấn, nghề nghiệp. Và ở đây, chúng tôi muốn tiếp tục đi tìm thêm những bằng chứng ủng hộ những kết luận đã có của mình. Bảng 4 là những kết quả khảo sát mối tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với đặc trưng xã hội của cộng đồng cư dân mạng.
Bảng 4: Tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội của cư dân mạng
(*) p là độ khác biệt có ý nghĩa thống kê được xác định bằng Chi-Square Test. Theo quy ước chung của SPSS, mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê được tính là 95%, tức là khi Chi-Square Test cho giá trị của p = 0,05. Tất cả mọi giá trị của p ≤ 0,05 đều được xem là đạt mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê và p > 0,05 được xem là không đạt mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê. Dấu (*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, còn dấu (**) thể hiện sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê.
Dễ nhận thấy, hai tương quan tuổi và học vấn với thái độ ngôn ngữ là những tương quan nổi bật hơn cả với độ khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (0,00). Theo đó, nhóm cư dân dưới 15 có thái độ cực đoan theo cả hai chiều, hoặc khẳng định, hoặc phủ định, không xuất hiện CTV nào thuộc nhóm tuổi này có thái độ trung lập. Trái ngược với xu hướng trên đây, nhóm trên 25 lại có thái độ thiên về trung lập. Xen vào giữa hai trạng thái đối nghịch này là nhóm 15-25 với thái độ tiêu cực là cơ bản nhưng xu hướng hướng tới trung lập là biểu hiện rõ nét. Có thể thấy thấp thoáng phía sau những con số là một chiều hướng phát triển, định hình của thái độ theo sự trưởng thành của tuổi tác, đó là mô hình diễn tiến hợp lí theo thời gian, từ thái độ cực đoan khi còn trẻ đến cách nhìn bình tĩnh, trung dung hơn khi đã có thêm những trải nghiệm cuộc đời. Tương ứng với mô hình phát triển thái độ theo tuổi là mô hình phát triển thái độ theo học vấn, theo đó, nhóm cư dân có trình độ phổ thông, thường tương ứng với nhóm nhỏ tuổi nhất có thái độ lưỡng cực, nhóm cao đẳng và đại học có thái độ dung hoà hơn và nhóm sau đại học có thái độ 100% trung lập. Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy thái độ ngôn ngữ cũng chịu sự ảnh hưởng của giới: trong khi có một tỉ lệ tương đương giữa hai giới có quan điểm trung lập thì ở số còn lại, nữ giới có thái độ tiêu cực hơn hẳn nam còn nam lại có thái độ tích cực hơn hẳn nữ. Điều này khác hẳn với kết luận mà chúng tôi tìm ra năm 2007 và 2012 (Trịnh Cẩm Lan [3], [4]) cho rằng nữ có năng lực thích nghi và xu hướng chấp nhận sự thay đổi và cái mới dễ dàng hơn nam. Ở đây, nữ giới thuộc cộng đồng mạng lại thể hiện thái độ khó chấp nhận những biến đổi hơn nam. Đặc biệt, ở đúng phạm vi này, kết quả hoàn toàn ủng hộ kết luận của Savicki 1996, Rodino 1997 và Herring 2000 (Dẫn theo Crystal [6]) về sự khác biệt giới trong thái độ đối với ngôn ngữ mạng. Ngoài ra, kết quả không thể hiện tương quan đặc biệt nào giữa tần suất sử dụng internet với thái độ ngôn ngữ. Cho dù giả định ban đầu là người sử dụng internet thường xuyên sẽ quen và có thái độ dễ chấp nhận những biến đổi hơn, ngược lại, những người ít lên mạng sẽ khó chấp nhận những biến đổi hơn.
Như vậy, so với những nghiên cứu mà chúng tôi đã thực hiện, kết quả nghiên cứu này hoàn toàn ủng hộ mối tương quan giữa tuổi và học vấn với thái độ ngôn ngữ. Sự khác biệt về giới mặc dù tồn tại nhưng đi theo hướng ngược lại. Kết quả này không chia sẻ với kết luận của Vũ Thị Thanh Hương về mô hình khác biệt theo giới nhưng ủng hộ hoàn toàn những kết luận của Labov [11], Trudgill [5] về sự ảnh hưởng của giới và học vấn với thái độ ngôn ngữ.
5. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã lần lượt trả lời ba câu hỏi đặt ra. Về thái độ đối với các hiện tượng biến đổi ngôn ngữ trên internet, thái độ của cộng đồng mạng khá đa chiều. Sự biến đổi ngữ âm không nhận được sự ủng hộ mặc dù nó góp phần đáng kể tạo nên bản sắc nhóm của một bộ phận giới trẻ thành thị hiện nay. Hiện tượng trộn mã và sử dụng tiếng lóng nhận được thái độ tích cực hơn tuy ý kiến đối với việc sử dụng tiếng lóng không thật thống nhất. Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng khác biệt về thái độ giữa khách và thành viên cho dù có một hiện tượng đáng chú ý trong sự khác biệt này mà theo chúng tôi, một phần do những đặc điểm ngôn ngữ xã hội của chính bản thân sự biến đổi quy định. Nghiên cứu cũng chỉ ra những khác biệt theo giới, tuổi và học vấn trong biểu hiện thái độ ngôn ngữ, trong đó đáng chú ý là sự khác biệt theo tuổi và học vấn với mô hình diễn tiến về mặt thái độ có sự tương ứng hợp lí theo sự trưởng thành của tuổi tác và tương quan thuận với trình độ học vấn nói chung. Kết quả ủng hộ kết luận của nhiều nghiên cứu đi trước.
THƯ MỤC THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Nguyễn Minh Diệu, Tìm hiểu việc sử dụng ngôn ngữ trên diễn đàn giải trí Kites.vn, Khoá luận tốt nghiệp Cử nhân Ngôn ngữ học đạt chuẩn quốc tế, Hà Nội, 2013.
2. Vũ Thị Thanh Hương, Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa thái độ và hành vi ngôn ngữ, Kỉ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học Liên Á, Đại học Quốc gia Hà Nội & Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2004.
3. Trịnh Cẩm Lan, Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến thủ đô – Nghiên cứu trường hợp cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội, 2007.
4. Trịnh Cẩm Lan, Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ, Ngôn ngữ, số 12, 2012.
B. Tiếng nước ngoài
5. Crystal, D., Language and the Internet, Cambridge University Press, Cambridge, 2001.
6. Crystal, D., Internet linguistics: A Student Guide, Cambridge University Press, Cambridge, 2002.
7. Chamber J. K. & Trudgill P., Dialectology, Cambridge University Press, 1980.
8. December, J., What is Computer-Mediated Communication? Online Retrieved 30 June, 2008.
9. Fasold, R. W., The sociolinguistics of society, New York, Basil Blackwell, 1984.
10. Herring, S., Computer-mediated discourse: The handbook of discourse analisis, Oxford, 2003.
11. Labov W., The Study of Language in its Social Context, Language and Social Context, edited by P. Paolo Giglioli, 1976.