THẾ ỨNG ĐỐI VĂN HOÁ của ĐẠI VIỆT với các QUỐC GIA KHU VỰC qua HÀNH TRẠNG và TÂM THỨC của một số QUÝ TỘC THỜI TRẦN (Phần 2)
PGS. TS NGUYỄN VĂN KIM
(Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội)
2. Những vòng tiếp giao văn hoá và ứng đối với phương Nam
Cùng với việc giữ thế ứng đối với văn hoá phương Bắc, nhà Trần cũng rất chú ý đến những ảnh hưởng của môi trường chính trị, văn hoá phương Nam với xã hội Đại Việt. Liên tiếp trong các năm 1294, 1297, 1301, thời vua Trần Anh Tông (1276-1320) nhà Trần đã phải cất quân ngăn chặn các cuộc xâm lấn, cướp phá biên giới miền Tây Bắc của quân Ai Lao. Trong những trận giao tranh đó, danh tướng Phạm Ngũ Lão, một người vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng về sau cũng bộc lộ khuynh hướng quý tộc hoá khá mạnh mẽ, đã lập được nhiều kỳ tích. Bên cạnh đó, chính quyền Thăng Long cũng rất coi trọng quan hệ với Chămpa, một cường quốc đang lên ở phía Nam. Như đã trình bày ở trên, nhân việc sứ giả Chămpa sang cống lễ vật, Hương Vân đại đầu đà đã theo sứ bộ vào thăm quốc gia phương Nam. Đây là một trường hợp cực kỳ hiếm có trong quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia khu vực khi người đứng đầu trên thực tế của một quốc gia đến thăm hữu nghị một nước láng giềng. Về phần mình, hẳn là quốc vương Chămpa cũng muốn xây dựng mối quan hệ thân thiện với Đại Việt và để củng cố mối quan hệ đó chính quyền Chăm muốn có sự ràng buộc qua con đường hôn nhân1. Trong chuyến đi đến Chămpa năm 1301, Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Hành động đó của Nhân Tông một lần nữa cho thấy năng lực xuất thế của Thiền phái Trúc Lâm và chính ông, người giữ cương vị cao nhất của giáo hội, không phải bao giờ cũng nhất nhất tuân thủ theo trì giới. Mặt khác, trên phương diện đối ngoại, Nhân Tông muốn gửi một thông điệp hoà bình của Đại Việt đến quốc gia phương Nam. Có thể cho rằng “Nhân Tông muốn qua cuộc hôn nhân này xây dựng quan hệ hoà bình giữa Đại Việt và Chămpa”2.
Đến thế kỷ XIV, thế và lực của Đại Việt đang được củng cố và tăng lên trong quan hệ khu vực. Trước nghĩa cử đó của Trần Nhân Tông đồng thời cũng có thể là để đáp lại sự phối hợp, giúp đỡ của Đại Việt trong các cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên năm 1282 nên vua Chămpa là Sri Harijit (Jaya Simhavarman III), tức Chế Mân (1285?-1307), con trai của vua Indravarman V, có lẽ đã chủ động đề xuất và sẵn sàng đón nhận sự hứa gả đó3. Kết quả của chuyến “vân du” nhưng thực chất là cuộc vận động ngoại giao đó đã đưa về cho Đại Việt một vùng đất tương đối rộng lớn ở phương Nam với hai châu Ô, Lý (tức Thuận châu và Hoá châu).
Tiếp cận lịch sử theo một chiều hướng khác chúng ta thấy, cuộc hôn nhân Việt – Chăm đã không diễn ra vội vàng. Vốn là một người giàu kinh nghiệm chính trị, uyên thâm, thận trọng nên việc hứa gả công chúa Huyền Trân không thể coi là quyết định đường đột, biểu hiện cảm xúc nhất thời hay sự “trót hứa” của Nhân Tông với Chế Mân như các sử gia thời Lê và một số nhà nghiên cứu quan niệm. Từ khi Nhân Tông hứa gả đến lúc sứ bộ Chămpa sang chính thức đón dâu là 5 năm (1301-1306). Trong thời gian đó cả hai bên đều có thể đưa ra nhiều nguyên nhân hay nguyên cớ để rút lời hẹn ước. Do vậy, trong cuộc hôn nhân, cả hai bên hẳn đều có sự tính toán chiến lược kỹ càng. Ta không rõ sự dâng đất này xuất phát từ thâm ý của vua Chăm hay là điều kiện do Nhân Tông (Anh Tông?) đặt ra. Chỉ biết rằng cuối cùng, cùng với các sính lễ giá trị, chính quyền Chămpa đã chủ động và tự nguyện dâng hai châu Ô, Lý làm lễ vật dẫn cưới. Năm 1307, nhà Trần đổi thành châu Thuận, châu Hoá đến cuối Trần lập thành lộ (trấn) Thuận Hoá. Như vậy, có thể coi “Đất Thuận Hoá ra đời trong sự hội nhập vào lãnh thổ Đại Việt không phải bằng sự lấn chiếm hay xâm lược mà là sản phẩm của quan hệ đồng minh, của sự hoà hiếu và của một cuộc hôn nhân mang ý nghĩa lịch sử”4.
Điều đáng chú ý là, nếu như ghi chép trong Toàn thư là chính xác thì Trần Khắc Chung, một người có ảnh hưởng lớn trong vương triều Trần thời Anh Tông, đã ủng hộ mạnh mẽ cho cuộc hôn nhân Việt – Chăm tức là đồng ý cho công chúa Huyền Trân (có thể đã có tình ý riêng) vào Chiêm Thành kết hôn với Chế Mân. Ông là người giỏi ngoại giao và chắc chắn hiểu rất rõ “tư duy khu vực” của Nhân Tông, đã cùng với Văn Túc Vương Đạo Tái, một người được Nhân Tông đặc biệt yêu mến, nhất trí tán thành cuộc hôn nhân nên “việc bàn mới quyết”. Tháng 6 năm Hưng Long thứ 14 (1306), mùa Hạ, đang độ nóng nực, triều đình quyết định gả công chúa Huyền Trân (18 tuổi) cho Chế Mân5. Như vậy, dưới danh nghĩa hoà bình và củng cố quan hệ láng giềng thân thiện đã có một lớp sương mờ trong kịch bản hôn nhân này từ cả hai phía.
Phân tích sự kiện theo tư duy logic chúng ta thấy, cùng với thông điệp hoà bình chắc rằng Đại Việt muốn mở rộng ảnh hưởng về phía Nam để tạo thế phòng ngự có chiều sâu về chiến lược. Thế trận gọng kìm do quân Nguyên đặt ra trong cuộc kháng chiến lần thứ hai khiến nhà Trần càng hiểu thêm vị trí của hai châu Ô, Lý. Do vậy, “câu chuyện Chế Mân lấy châu Ô, châu Rí làm đất dẫn cưới công chúa Huyền Trân (1306) chỉ là một cớ hợp thức hoá sự chuyển nhượng từ trong thực tế trong khi nhà Trần phải lo tìm đồng minh để đề phòng mối xâm lăng từ phương Bắc”6. Bình luận về sự kiện trên GS. Đào Duy Anh cho rằng: “Vua Chiêm Thành là Chế Mân vì sợ uy nhà Trần mấy lần chiến thắng quân Mông Cổ, sai sứ sang cầu hôn. Thượng hoàng Nhân Tông đem công chúa Huyền Trân gả cho. Chế Mân bèn lấy hai châu Ô và Lý làm vật nạp trưng”7.
Nhìn toàn cục, đối với Chămpa về hình thức tuy có bị mất một phần đất, cư dân, tài sản… nhưng qua cuộc hôn nhân, chắc hẳn vương quốc này hy vọng có thể cải thiện quan hệ với Đại Việt. Từ đó, họ sẽ thâm nhập sâu hơn vào xã hội Đại Việt để rồi nếu cơ hội đến thì không những có thể giành lại đất mà còn có thể tăng cường ảnh hưởng ra vùng châu thổ sông Hồng rộng lớn, mở rộng không gian sinh tồn đồng thời khai thông tuyến thương mại trực tiếp với Trung Hoa. Tiếc rằng mối tình Huyền Trân – Chế Mân đã sớm kết thúc khiến chúng ta rất khó dự báo chính xác diễn tiến quan hệ Việt – Chăm nhưng những hành động xâm lấn thường xuyên và sau đó là các cuộc tiến công quyết liệt của quân Chămpa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga vào vùng Nghệ – Tĩnh, Thanh Hoá mà điển hình là ba lần tràn vào cướp phá, tiêu huỷ Thăng Long trong các năm 1371, 1377 và 1378 cho thấy rõ tham vọng của nước này. Phải đến năm 1390, khi Chế Bồng Nga bị thuỷ quân nhà Trần do Trần Khát Chân chỉ huy bắn chết ở Hải Triều, thì về cơ bản mối hiểm hoạ từ phương Nam mới cơ bản chấm dứt. Cũng cần phải nói thêm là, nhà Trần rất cảnh giác với Chămpa. Suốt thời Lý và đầu thời Trần hai bên đã xảy ra nhiều cuộc xung đột. Năm 1279, vua Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, nhưng chính Trần Nhân Tông, người nổi tiếng nhân từ, đã không chấp nhận đề nghị đó!
Trong thế ứng đối văn hoá với các quốc gia khu vực, cùng với các vua, một số danh tướng, quý tộc nhà Trần cũng đã lập được nhiều thành tích và chiến công lớn thông qua các hành trạng văn hoá. Trong số đó, Trần Nhật Duật (1253-1330) nổi lên như một nhân vật tiêu biểu. Các sử thần nhà Lê đánh giá: “Ông là bậc thân vương tôn quý, làm quan trải bốn triều, ba lần coi giữ trấn lớn, trong nhà không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò mà không ai cho là say đắm. So với Quách Tử Nghi tột cùng xa xỉ mà không ai chế, ông cũng gần được như thế”8. Không những say mê nghệ thuật ông còn là tác giả của nhiều tiết tấu âm nhạc, khúc điệu múa hát. Hơn thế, Chiêu Văn còn là người tinh thông sử sách, “rất hâm mộ huyền giáo, thông hiểu xung điển, nổi tiếng đương thời là người uyên bác”9. Tác giả Lịch triều hiến chương loại chí cũng cho rằng: “Chiêu Văn mưu kế tài giỏi, độ lượng nhã nhặn, làm việc gì cũng được”. Hơn thế, “Ông là người nhã nhặn có độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt; lại thông hiểu kinh điển, giỏi âm luật, người thời ấy khen là người hiểu biết rộng rãi. Những văn thư của triều đình đều do tay ông thảo cả”10.
Là một đại quý tộc, được giao đảm trách quan hệ đối ngoại Trần Nhật Duật đã tự tạo nên một phong cách riêng hết sức độc đáo. Khi người nước ngoài đến kinh đô, nếu là người Tống, ông thường ngồi gần đàm luận say sưa nhưng nếu là người Chiêm hay các dân tộc khác thì theo quốc tục của họ mà tiếp đãi. Sứ giả nước Xích Mã Tích (Tumasik) sang cống, trong triều chỉ có ông hiểu và dịch được ngôn ngữ nước họ. Mỗi lần tiếp sứ Nguyên, với tư cách Tể tướng, Trần Nhật Duật đều có thể nói chuyện trực tiếp, không cần người phiên dịch. Do cách ứng xử linh hoạt, có chiều sâu văn hoá và năng lực cao về ngôn ngữ nên sứ giả nhà Nguyên tưởng ông là người Chân Định (Hà Bắc), một vùng đất có tiếng là văn vật ở Trung Quốc. Tuy nhiên, qua các hoạt động ngoại giao đó, với tư cách là trọng thần, mặc dù luôn có ý thức về luật pháp và coi trọng phép nước nhưng Trần Nhật Duật đã tự mình “tháo dỡ” một số nguyên tắc trong quan hệ bang giao. Tài năng cá nhân vượt trội và một thiết chế chính trị chưa đủ chặt đã dẫn đến nhiều hành vi, ứng đối văn hoá vượt lên trên quy định của hoàng gia đồng thời cũng khác với thông lệ.
Là người luôn được giao cai quản trọng trấn, Trần Nhật Duật có ý thức rất mạnh mẽ trong việc mở rộng ảnh hưởng và khẳng định uy quyền của Thăng Long – Đại Việt. Thế ứng đối của ông là sự tổng hoà giữa tinh thần dân tộc với bản lĩnh chính trị và niềm tin về tri thức văn hoá. Việc xử lý thành công mối quan hệ với các tộc người sống ở phía Tây thể hiện sự tài giỏi và nguồn tri thức văn hoá của ông. Năm Canh Thìn (1280) thổ tù ở đạo Đà Giang là Trịnh Giác Mật tụ tập đồ đảng cướp bóc dân chúng. Triều đình cử Trần Nhật Duật đến dụ hàng. Vào chỗ rừng thẳm, núi cao, giữa diệp trùng vòng vây và vũ khí đe doạ nhưng ông chỉ đem theo năm, sáu tiểu đồng đi thẳng đến trại của Mật. Ông dùng tiếng nói của họ để đối đáp, lại cùng với Mật ăn bằng tay, uống bằng mũi. Thổ tù Trịnh Giác Mật vô cùng sợ hãi, khâm phục. Trần Nhật Duật bình được Đà Giang mà không tốn một mũi tên. Như vậy, những thành công của Trần Nhật Duật, như lịch sử ghi lại, đã được thể hiện trên nhiều phương diện nhưng trong đó rõ nhất, điển hình nhất là sức mạnh văn hoá. Chính sức mạnh văn hoá khiến quân Nguyên phải khiếp sợ. Và cũng chính sức mạnh văn hoá đó khiến cho thổ tù Trịnh Giác Mật phải quy phục. Ba vũ khí văn hoá mà ông sử dụng tỏ ra cực kỳ hiệu nghiệm: Nói bằng tiếng nói của chính họ, Ăn bằng tay và Uống bằng mũi. Nói cách khác, ông đã thực sự dấn thân vào vòng văn hoá đó, làm chủ và cuối cùng đã chinh phục được nền văn hoá đó.
Vấn đề đặt ra là, giữa thời chiến tranh, loạn lạc nhờ đâu mà Trần Nhật Duật có thể có được những năng lực siêu phàm đó. Vua Trần Nhân Tông từng giải thích: “Chú Chiêu Văn có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc cho nên giỏi tiếng các nước đó”11. Cách giải thích thấm đượm tinh thần Phật giáo đó của người đứng đầu thể chế không chỉ là sự ngợi khen chân thành mà còn là sự kính trọng đối với những tài năng vượt trội. Phải chăng, chính tư tưởng thân dân, gần dân, sự khoáng đạt trong giao tiếp và một môi trường xã hội tương đối dân chủ, tự do của nhà Trần đã tạo nên những con người bản lĩnh, đa tài đó12. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất, tại chiến trận Hàm Tử, Trần Nhật Duật còn mạnh dạn sử dụng số người Tống do chính ông dung nạp trước đây tham gia cuộc chiến. Cùng với binh sĩ người Việt, họ được mặc trang phục, cầm binh khí giống như quân Tống khiến quân Nguyên cả sợ, bỏ chạy, bị quân ta đánh tan tác. Toàn thư cho rằng: “Chiến công đánh bại giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”13.
Trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, Trần Nhật Duật học ngôn ngữ, phong tục các dân tộc ở đâu và vào thời gian nào? Có thể ông đã học trong các năm trấn nhậm ở vùng biên ải, trong các cuộc hành binh nhưng điều chắc chắn là ông còn học từ chính những người “Man” người Chiêm là nạn nhân của các cuộc chiến tranh hay di cư sang đất Việt. Lịch sử cho thấy, xung quanh kinh thành Thăng Long thời Lý – Trần luôn có một vòng văn hoá ngoại sinh và Trần Nhật Duật đã chủ động tiếp nhận từ chính họ hay con cháu họ14. Toàn thư ghi rõ: “Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (Đa Gia Ly, có thể là vùng Ba La hiện nay? – TG)… có khi ba bốn ngày mới về. Lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại đến hôm sau mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông”15 hỏi han, đàm đạo. Thời Trần, các quý tộc thường có nhiều gia nô. Nhiều khả năng, Trần Nhật Duật đã nuôi duỡng một số gia nô là người ngoại quốc. Từ hành trạng và những cống hiến nổi bật của ông với đất nước, vương triều, có thể coi Trần Nhật Duật là Nhà dân tộc học, Nhà ngôn ngữ học lỗi lạc trong lịch sử cổ trung đại Việt Nam. Lúc cuối đời, Chiêu Văn Vương còn là người chu toàn, giàu ân nghĩa. Ông đã hết lòng chăm sóc, nuôi dạy hoàng tử Thánh Sinh con vua Trần Anh Tông. Về sau, hoàng tử trở thành vua Minh Tông, dốc lòng “đem văn minh sửa sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày”16.
Là một triều đại hình thành từ vùng ven biển, nhà Trần có ý thức về biển rất mạnh mẽ. Trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc kháng Bắc, địch Nam, nhà Trần đã xây dựng được một lực lượng thuỷ quân mạnh, thành thạo hải chiến. Bên cạnh đó, tiếp nối truyền thống, vương triều Trần cũng rất coi trọng quan hệ giao thương trên biển. Chính quyền Thăng Long rất chú tâm đến hoạt động của các thương cảng đặc biệt là Vân Đồn ở Đông Bắc cũng như các cảng vùng Thanh – Nghệ Tĩnh tiếp giáp với Chămpa và các quốc gia láng giềng phía Nam. Dưới danh nghĩa văn hoá và bảo vệ an ninh trên biển, Trần Khánh Dư, được giao trấn nhậm vùng Vân Đồn, đã có ý thức rất mạnh mẽ về vai trò của quan hệ hải thương. Chính ông đã tiến hành nhiều thương vụ nhưng nổi tiếng nhất là việc bán nón Ma Lôi cho khách thương và cư dân vùng thương cảng. Phòng khi hữu sự và để tránh nhầm lẫn giữa người Việt với người Hoa, Trần Nhật Duạt đã dùng giải pháp phân lập văn hoá, ngầm sai người nhà (quan hệ thân tộc) đem nón Ma Lôi (nguồn hàng hoá quê hương) đến bán và thu được nguồn lợi lớn (mục tiêu kinh tế). Theo Toàn thư, ban đầu mỗi chiếc bán không tới 1 tiền nhưng về sau giá cả dần nâng lên mỗi chiếc đắt bằng một tấm vải. Kết quả là, số vải mà ông và gia thần thu được lên tới hàng ngàn tấm!
Có thể coi, Trần Khánh Dư là một quý tộc điển hình của vương triều Trần. Ông là một phức hợp của nhiều nhân cách, tư cách. Nhân Huệ vương là người đầu tiên trong giới quý tộc thời Trần đã công khai coi lợi ích, lợi nhuận và sự bóc lột dân chúng là quyền năng của kẻ thống trị với “tuyên ngôn” nổi tiếng: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?”17. Ngoài tài năng quân sự, ông còn có tư chất của một thương nhân, rất thành thạo nghề buôn. Qua các nguồn sử liệu có thể coi ông là một quý tộc có tư duy thương nghiệp điển hình nhất thời Trần. Tư duy đó khác biệt căn bản với tư duy nông nghiệp của phần lớn các quý tộc thời đại bấy giờ luôn hướng về kinh tế nông nghiệp với các điền trang, thái ấp. Tư duy đó cũng khác với tư tưởng chủ đạo của nhà Trần luôn coi trọng vai trò của nhân dân và coi việc “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” được thể hiện trong các phát ngôn của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo. Nhưng, không chỉ là người có tư duy kinh tế thương nghiệp, Trần Khánh Dư còn là người ưa hoạt động thực tiễn. Bị triều đình đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản do tư thông với công chúa Thiên Thuỵ, ông về vùng quê Chí Linh “cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than”. Điều thú vị là, ông đã dùng hoạt động thực tiễn đó để tự giới thiệu lại chính mình, khôi phục lại được danh vị quý tộc và chức vụ trong quân đội (Phó đô tướng quân) khi thời cơ đến. Được giao trấn nhậm Vân Đồn, có quyền lực trong tay, môi trường kinh doanh thuận lợi, sẵn có tư duy thương nghiệp, ông đã tiến hành những thương vụ lớn hơn. Nhiều khả năng, vụ buôn nón Ma Lôi đã có những tác động tiêu cực đối với hoạt động của vùng thương cảng. Chính sử triều Lê nhận xét, vua Trần Nhân Tông vì tiếc ông có tài làm tướng nên không nỡ bỏ!
Trần Khánh Dư là người có công lớn trong việc chặn đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến lần thứ ba nhưng Nhân Huệ vương còn là một trí thức quý tộc, là người đề tựa cho tác phẩm Vạn Kiếp tông bí truyền thư với lời bình nổi tiếng: “Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết”18. Theo Phiêu kỵ đại tướng quân, bộ sách quý của Trần Hưng Đạo là nhằm để phía Bắc trấn ngự Hung nô (chỉ nhà Nguyên), phía Nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). Những điều viết về ông hẳn còn nhiều sai khuyết nhưng Trần Khánh Dư là hiện tượng dị biệt, có tính cách mạnh mẽ. Mặc dù các sử thần nhà Lê coi là người “tham lam, thô bỉ” và trong ông luôn có dáng vẻ kiêu hùng của một võ tướng quý tộc nhưng các tác giả Toàn thư cũng như Lịch chiều hiến chương loại chí đều phải công nhận Trần Khánh Dư là một nhà chỉ huy quân sự có biệt tài. Phan Huy Chú xếp ông là một trong bốn vị danh tướng tiêu biểu của thời Trần sau Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật và Phạm Ngũ Lão.
Là những quý tộc, giữ trọng trách của đất nước, dần quen với cuộc sống cung đình nhưng hầu hết các vua và quý tộc thời Trần đều ý thức sâu sắc về cội nguồn của mình là vùng “hạ lưu”, sống và giàu lên nhờ nghề đánh cá. Theo đó, cư dân vùng biển đều có tục xăm mình để “Giao long tưởng là đồng loại mà khong hãm hại”19. Sau khi nắm giữ được quyền lực, tục đó mau chóng trở thành một biểu trưng chính trị và văn hoá của dòng họ Trần. Toàn thư ghi rõ: “Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm mình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi, gọi là “thái long” (rồng hoa). Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình rồng ở trên người, cho rằng thuồng luồng biển sợ hình rồng, lỡ gặp gió bão thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm đến, cho nên gọi là “thái long”20. Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất, tiếp nối truyền thống văn hoá và để thể hiện quyết tâm giết giặc để “Đền nợ nước, báo Hoàng ân” binh sĩ nhà Trần đều cho thích lên cánh tay hai chữ “Sát Thát”. Đó là khẩu hiệu hành động, mang ý nghiã chính trị, thể hiện quyết tâm giết giặc. Hành động đó khiến tướng Nguyên Ô Mã Nhi cho rằng quan quân nhà Trần đã “khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm”!21
Là người có ý thức dân tộc và quê hương sâu sắc, Thượng hoàng Trần Nhân Tông có lần đến ngự ở cung Trùng Quang, có sự tham dự của vua Anh Tông và Trần Quốc Tuấn, đã tái khẳng định nguồn gốc của dòng họ Trần: “Nhà ta vốn là người hạ lưu (thuỷ tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”22. Theo chính sử, chính ông cũng có hình xăm ở đùi. Nhưng khi Nhân Tông yêu cầu vua Anh Tông xăm hình thì nhà vua đã từ chối bằng cách trốn về cung Trùng Hoa. Hành động chối bỏ một phong tục của quá khứ, mang tính đặc trưng của dòng họ Trần của vua Anh Tông hẳn đã dẫn đến một phản ứng văn hoá mang tính dây truyền trong giới quý tộc. Từ đó, các vua nối ngôi không xăm hình ở đùi nữa! Nhưng, chắc chắn rằng, tục xăm hình vẫn còn phổ biến và được ưa chuộng đối với các tầng lớp xã hội bên dưới. Điều đáng chú ý là, từ chỗ mang ý nghĩa ma thuật, tục xăm hình đã dần trở nên “đời thường” hơn và được coi là dấu hiệu để chỉ thang bậc xã hội, nghề nghiệp, nguồn gốc xuất thân, sắc thái tâm lý… Năm 1298, khi nhà Trần đặt các quân hiệu Thượng đô, Thuỷ dạ xoa đô, Chân kim đô đã sai thích các chữ như “Chân kim”… lên trán. Quân cấm vệ cũng được thích chữ “Kim cương”. Nhưng đến năm 1323, cùng với việc mở khoa thi Thái học sinh, vua Trần Minh Tông (1330-1357) cũng ra lệnh bỏ tục quân sĩ xăm mình rồng ở lưng và hai vế đùi. Nếu như coi tục xăm mình là sắc thái văn hoá của cư dân vùng biển thì đến đây, về cơ bản, chí ít là trong giới quý tộc cao cấp phong tục đó đã bị bãi bỏ23. Phải chăng, chính nhận thức về tính chất “Đông Nam Á” đặc thù này mà các ông vua và quý tộc thế hệ thứ ba đã từ bỏ một phong tục thiêng gắn với truyền thống của mình. Nói cách khác, một bộ phận lớp trên của văn hoá cuối thời Trần đã có sự chuyển dịch từ phương Nam (Đông Nam Á) lên phương Bắc (Đông Bắc Á), từ Tư duy ven biển, đánh cá đến Tư duy châu thổ, làm nông gần và giống hơn với mô thức Trung Hoa.
Cũng cần phải nói thêm là, với sự chuyển dịch tâm thế đó, Đại Việt dường như bắt đầu có cái nhìn xa lánh, kỳ thị với các nền văn hoá của các quốc gia láng giềng Đông Nam Á. Đến thế kỷ XIV, trong ánh hào quang của các cuộc chiến tranh vệ quốc, tự mình coi là một cường quốc khu vực, nhà Trần muốn xác lập một nguyên tắc mới trong mối bang giao với các quốc gia láng giềng. Lòng tự tôn dân tộc cùng những ảnh hưởng ít nhiều của lối tư duy Hoa Bắc không khỏi dẫn đến những nhãn quan sai lệch về các truyền thống văn hoá phương Nam. Toàn thư viết: “Buổi đầu dựng nước, thuyền buôn nước Tống sang dâng người nước Tiểu Nhân, thân dài 7 tấc, tiếng như ruồi nhặng (chúng tôi nhấn mạnh – TG), không thông ngôn ngữ, lại dâng một tấm vải hoả hoãn giá mỗi thước 300 quan tiền, lưu truyền làm của quý”24. Cũng có thể coi nhận định đó là xuất phát từ góc nhìn của các sử thần thời Lê nhưng qua các hoạt động đối ngoại “khôn khéo” (ví như các phép ngoại giao của Đoàn Nhữ Hài với hoàng triều Chămpa), sau ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên nhà Trần dường như cũng thêm tự tin trong thế ứng đối văn hoá không chỉ với phương Nam mà còn cả với phương Bắc. Do vậy, nhận xét của Nguyễn Trãi về tiếng nói của cư dân các nước Xiêm, Chiêm, Chân Lạp “như tiếng nói của chim quỵet” thực ra chỉ là hai cách diễn tả về một trạng huống mà thôi. Có thể cho rằng, đến thế kỷ XIV, văn hoá Đại Việt đã có sự chuyển dịch khá lớn về vị trí và tầm nhìn khu vực.
Hiển nhiên, cũng giống như bất cứ một triều đại nào khác, trước những thách đố của lịch sử, ở những thời điểm mà cả dân tộc phải gồng mình lên chống lại các trận cuồng phong chính trị và văn hoá từ bên ngoài, giới quý tộc Trần cũng có sự phân hoá sâu sắc. Trong tập thể anh hùng đó cũng đã có không ít cá nhân tự tách mình ra, chối bỏ trách nhiệm, tồn tại lạc lõng thậm chí bị đào thải ra khỏi dòng chảy chung của lịch sử văn hoá dân tộc. Nhưng, “gạn đục, khơi trong”, trong dòng chảy văn hoá đó cũng có những con người, trường hợp mà ở một thời điểm đã có đóng góp nhất định cho sự phát triển văn hoá cũng như nền học thuật. Có thể thấy tâm thế đó qua hiện tượng Trần Ích Tắc, kẻ đã được nhà Nguyên phong làm “An Nam Quốc vương”. Là con thứ của Thượng hoàng Trần Thái Tông, đến năm 15 tuổi ông đã “thông minh hơn người, làu thông kinh sử và các thuật”. Mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng trung quân nhưng các sử thần thời Lê vẫn không thể không bình tâm để đưa ra nhận xét: “thông minh, hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không tinh thạo, từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc đào tạo thành tài, như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v. v… gồm 20 người đều được dùng cho đời”25. Và, cả “tòng Thị lang” Lê Tắc cũng đã để lại cho đời một tác phẩm “An Nam chí lược” có giá trị khảo cứu, học thuật. Hơn thế, khi “Bốn biển đã quang trần đã lặng” (thơ Trần Thánh Tông) theo truyền thống văn hoá của dân tộc Việt, thấu hiểu nỗi đau nhân thế, những xao động của lòng người buổi tao loạn, vương triều Trần đã đối xử hết sức khoan dung với những kẻ lầm lạc. Sau kháng chiến chống Nguyên lần thứ ba, chính Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã chủ động, lập tức sai đốt hòm biểu xin hàng quân Nguyên của vương hầu, quan lại “để yên lòng những kẻ phản trắc”26.
Như vậy, trên nền tảng văn hoá của cư dân vùng hạ châu thổ, giáp biển đậm đặc tính chất Đông Nam Á với nhiều dáng vẻ cổ sơ, giới quý tộc nhà Trần đã có ý thức rất rõ và mãnh liệt về những ưu thế và hạn chế trong truyền thống văn hoá của mình27. Điều quan trọng là, họ đã sớm phát hiện ra sức mạnh mãnh liệt của văn hoá và tận dụng triệt để những sức mạnh để củng cố vương triều, quyền lực, mở rộng ảnh hưởng và hơn thế còn dựa vào văn hoá để tạo nên sức đối kháng và đối kháng thành công trước những áp chế văn hoá, chính trị của đế chế Mông – Nguyên cùng các thế lực bên ngoài.
3. Nhận xét và kết luận
3. 1.
Trở lại với luận đề mà Nguyễn Trãi nêu ra đầu thế kỷ XV chúng ta thấy quan niệm về văn hoá của Ức Trai thể hiện rất rõ tâm thức của một bộ phận xã hội đang sống và trải nghiệm trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ được coi là bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Đại Việt. Trước Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo còn sau đó, sau thắng lợi của kháng chiến chống Minh, là một văn hoá Đại Việt theo mô hình Nho giáo. Quá trình chuyển giao giữa hai mô hình đó bắt đầu diễn ra mạnh mẽ vào thời cuối Trần, trải qua thời Hồ và định hình rõ rệt vào thời Lê sơ. Là một nhà Nho, bản thân và gia tộc đều làm quan và “ăn lộc” của các triều đại Trần, Hồ rồi hiển vinh và chịu nỗi oan thấu trời dậy đất vào thời Lê, Nguyễn Trãi là một hiện tượng văn hoá tiêu biểu của thời đại. Là người thấu hiểu và có tình cảm sâu sắc về những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, của thời đại Lý – Trần, nhưng cũng nhận thức được sức mạnh của dòng chảy văn hoá của khu vực, Nguyễn Trãi đã dự nhập rồi trở thành trí thức Nho giáo. “Song học thức của Nguyễn Trãi vượt ra ngoài phạm vi Nho giáo một cách rõ rệt. Chí khí và trí tuệ của Nguyễn Trãi bắt nguồn rất nhiều từ văn hiến Việt Nam, từ những thành tựu văn hoá và tinh thần của dân tộc Việt Nam”28. Là người yêu nước và có lòng thương dân tha thiết, tư tưởng và cuộc đời Nguyễn Trãi luôn bị giằng xé bởi những nghịch lý và chính ông không thể không cảm thấy bị lạc lõng trước thời cuộc, trước một mô hình của thiết chế quan liêu mới mà ông cùng với Lê Lợi và các hào kiệt Lam Sơn đã “nếm mật nằm gai” xây dựng nên. Nhưng, như lịch sử đã cho thấy “mô hình thì chẳng bao giờ đóng khuôn được hết những “tràn bờ” của tư tưởng, văn hoá Việt Nam”29. Sau một thời kỳ cấu trúc rồi tái cấu trúc, khuynh hướng Việt hoá, bảo lưu tinh hoa truyền thống, giải Hán hoá, thâu hoá những đóng góp của các yếu tố văn hoá ngoại sinh từ phương Bắc và cả phương Nam, của Phật, Nho, Đạo và cả Bà La Môn, Hindu giáo để rồi hợp luyện với cốt cách văn hoá Việt – Đông Nam Á… tất cả đều kết tinh trong một cấu trúc mới, trong một dòng mạch mới để từ đó tạo nên văn hoá Đại Việt – Thăng Long một thuở.
3. 2.
Tuy phải trải qua nhiều thách thức nhưng quốc gia Đại Việt triều Trần đã không chỉ nắm giữ được vương quyền mà còn tạo thế đi lên cho đất nước. Với tư cách là những người nắm giữ quyền lực chính trị, giới quý tộc Trần vừa tích cực góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển lịch sử, văn hoá vừa là những biểu trưng của sự hợp tụ, kết tinh văn hoá của một thời đại30. Điều cần đặc biệt chú ý là, vào thời Trần, văn hoá Đại Việt đã có được một không khí dân chủ, tự do để các nhà sáng tạo văn hoá thể hiện tài năng và theo đuổi chí nguyện của mình. Trong khung cảnh đó, không chỉ có những giá trị nhân văn, những triết lý cao siêu mà cả những khát vọng bản năng, nhu cầu thường nhật của con người cũng được thể hiện và tôn trọng. Cùng với Dòng văn hoá dân gian, Dòng văn hoá quý tộc bác học, uyên thâm chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, thì một Dòng văn học chữ Nôm với nhiều yếu tố thuần Việt đã xuất hiện31. Do vậy, đặc trưng của văn hoá Trần là tính không khuôn mẫu, là sự đa dạng, khác biệt, phá cách và trội vượt. Trong rất nhiều trường hợp, thể chế chính trị thời Trần, nhất là thời kỳ từ Thái Tông đến Nhân Tông, Anh Tông đã chấp nhận và dung dưỡng cho những biểu hiện văn hoá ấy. Có thể coi đó là nội dung, đặc tính văn hoá Đại Việt thời Trần nhưng đồng thời chủ trương khoan dung văn hoá đó cũng thể hiện sự khôn khéo của thể chế khi buổi đầu chính quyền mới được thiết lập. Nhìn chung, các chính quyền đều có khuynh hướng, nói như Lê Quý Đôn, là “uốn theo lòng dân, chiều theo nếp cổ” để nhận về sự hậu thuẫn đông đảo của xã hội.
Trong các di sản văn hoá mà dân tộc ta sáng tạo ra thế kỷ XIII-XIV, giới quý tộc nhà Trần và cả một đội ngũ trí thức đông đảo chịu ảnh hưởng vòng văn hoá – chính trị của vương triều Trần đã đóng vai trò quan trọng. Trong rất nhiều trường hợp, họ vừa là nhân chứng, vừa là người phản ánh vừa dự nhập và sáng tạo văn hoá. Không hẳn và không thể là một tập hợp giới thuần khiết, xã hội Đại Việt nói chung cũng như giới quý tộc nói riêng cũng diễn ra đồng thời hai quá trình phân tầng và kết nhóm. “Chính sự tổng hợp của hai quá trình phân tầng và kết nhóm này đã dẫn đến sự hình thành các đẳng cấp trong xã hội thời kỳ đó”32. Do vậy, không thể có một xã hội quý tộc hợp chỉnh nhưng trên bất cứ phương diện nào họ cũng là những người có nhiều ảnh hưởng trong tư duy và sáng tạo văn hoá. Điều cần khẳng định là, những ảnh hưởng về văn hoá, xã hội của các cá nhân tài ba như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông hay Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Tuệ Trung, Pháp Loa, Huyền Quang… đã góp phần tạo nên một xã hội học tập, xã hội tri thức, xã hội của sự minh triết và sự thông tuệ. Xã hội đó đã cho phép nhà Trần có được thế ứng đối cao với văn hoá khu vực.
Bối cảnh chính trị, xã hội và văn hoá thời Trần đã lọc chọn và đào luyện nên một thế hệ những con người dũng cảm, sáng tạo, tài năng, sẵn sàng chịu hy sinh, thách thức. Với phương châm dùng người thì phải “căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm” và nếu có tài thì “không ngại trong việc uỷ dụng nhanh vọt”33 nên giới quý tộc và tất cả những người dấn thân vì vương triều luôn hiểu trọng trách mà dân tộc giao phó mặt khác họ cũng nhận thức rõ rệt về những cơ hội tiến thân nếu có thực tài. Có thể nói, “Quyền lực và vinh quang của nhà Trần đầu thế kỷ XIV đã thúc đẩy ý thức dân tộc Việt Nam với tính đồng nhất chung, cũng như chiếm được lòng trung của các quan lại”34. Trong bối cảnh lịch sử bấy giờ những kẻ nhu nhược, bất tài đều dễ dàng bị kiểm chứng, phát lộ và bị xã hội lên án. Trước những thách đố của thời đại, sự nhu nhược, bất tài đồng nghĩa với sự suy bại thậm chí có thể dẫn đến mất nước. Bằng cái nhìn phân lập, có thể chia giới quý tộc Trần thành 3 thế hệ: Thế hệ thứ nhất gắn với thời kỳ thiết lập vương triều và kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất; Thế hệ thứ hai gắn với cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai và thứ ba; Và, Thế hệ thứ ba là lớp người sinh ra, trưởng thành thời hậu chiến, tức là từ thời vua Trần Minh Tông (1320-1357) trở về sau. Sau khi Trần Nhân Tông, rồi Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải (người cũng hiểu tiếng nói của nhiều nước “phiên”), Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư… qua đời, vương triều Trần ngày càng thiếu vắng những con người kiệt xuất. Thêm vào đó, cấu trúc của một xã hội Quý tộc thân tộc Phật giáo đã dần bị phá vỡ ở thế hệ thứ hai và đặc biệt là thế hệ thứ ba bởi quan hệ hôn nhân, sự trỗi dậy của tầng lớp trí thức Nho giáo văn quan và cả sự công phá của tiền bạc. Càng về cuối thời Trần, cùng với khuynh hướng quý tộc hoá cũng đồng thời diễn ra quá trình bình dân hoá của giới quý tộc35. Trong xu thế đó, nhiều hệ giá trị chuẩn, truyền thống bị đảo lộn. Thời bình trị có quy luật và nhu cầu phát triển riêng của nó. Mặt khác, những định chế Nho giáo ngày càng hình thành rõ nét không chỉ đã tạo nên một thế hệ và mẫu hình Quý tộc đa tộc Nho giáo mới mà còn kiềm toả khiến cho nhiều năng lực thiên bẩm không có được khoảng không gian xã hội cần thiết để có thể thi thố tài năng và phát triển trội vượt.
3. 3.
Vương triều Trần về cả văn hoá và cấu trúc kinh tế – xã hội là sự hỗn dung nhiều dạng thức, tầng nấc khác nhau. Cấu trúc đó có những điểm mạnh, dễ khoan dung và hội nhập nhưng cũng bộc lộ những đặc tính không đồng nhất nên cũng có thể bị biến đổi, tổn thương trước những thách đố của thời đại. Trong khi kiên quyết chống lại mưu toan thôn tính, nô dịch của nước ngoài thì xã hội Đại Việt thời Trần cũng luôn lọc chọn, tiếp nhận nhiều giá trị của văn hoá khu vực, kể cả những yếu tố văn hoá của các quốc gia xâm lược. Đó chính là sắc thái, bản lĩnh của văn hoá Đại Việt. Nếu coi bản sắc văn hoá của một dân tộc là sự kết hợp của ba vòng thành tố gồm tính nhân loại, tính khu vực và tính tộc người hay “bản sắc dân tộc của văn hoá như một vòng tròn chính tâm đa sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hoá nhân loại”36 thì văn hoá Đại Việt thời Trần là hiện tượng điển hình của sự tích hợp những vòng sáng đa sắc đó.
Càng mở rộng phạm vi và đi sâu nghiên cứu chúng ta càng thấy văn hoá, văn học Đại Việt thời Trần ví như các tác phẩm Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái, Thiền Uyển tập anh, Khoá hư lục37… có sự hỗn dung cao với văn hoá khu vực. Sự tương đồng, tiếp biến văn hoá không chỉ diễn ra với văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ mà còn với cả văn hoá Chămpa, Chân Lạp, Ai Lao. . . trong mối liên hệ và biến thiên của những mối tiếp giao văn hoá nội vùng, liên vùng. “Điều đó chứng tỏ sự giao lưu văn hoá mạnh mẽ giữa nhân dân ta và các nước láng giềng vốn có từ thời Bắc thuộc. Đặc biệt đến thời Lý – Trần thì đã sâu rộng và bằng cả hai con đường vừa thông qua văn học bác học vừa thông quan văn học dân gian”38. Điều đáng chú ý là, sau các cuộc chiến tranh và là điểm đến của các dòng thiên di, bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau, những thành tố văn hoá ngoại sinh đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đã được truyền tải đến xã hội Đại Việt. Nhiều nhóm cư dân ngoại tộc đã sống và hoà trộn với cư dân bản địa. Một thể chế chính trị và môi trường văn hoá tương đối thoáng mở, khoáng đạt đang trong quá trình vận động để đạt đến một sự phát triển hoàn thiện, đã sẵn sàng dung nạp những yếu tố văn hoá ngoại vi để bổ sung cho những khuyết vắng của mình. Từ chỗ chỉ là những hiện tượng, bộ phận văn hoá, các yếu tố ngoại sinh khác lạ, tiêu biểu của văn hoá khu vực đã thẩm thấu và từng bước trở thành giá trị, gắn bó hữu cơ để rồi cuối cùng đã trở thành một bộ phận hợp thành của văn hoá dân tộc. Do vậy, thế đối ứng của văn hoá Đại Việt với văn hoá khu vực còn nằm ngay chính trong phạm vi nền văn hoá dân tộc chứ không chỉ là những ảnh hưởng vắt và xuyên qua biên giới. Hiển nhiên, những yếu tố ngoại vi đó đã làm thay đổi cấu trúc văn hoá truyền thống nhưng không chỉ dừng lại ở đó nó còn làm cho không ít yếu tố văn hoá truyền thống tìm thêm được những chất liệu văn hoá mới, những tư tưởng bổ trợ để đạt đến giá trị sáng tạo và thăng hoa39.
3. 4.
Đến cuối thế kỷ XIV trong thế suy vi của nhà Trần, Phật giáo cũng ngày càng mất vai trò ảnh hưởng. Cùng với sự suy thoái và khuynh hướng quý tộc hoá diễn ra mạnh mẽ, hệ tư tưởng Phật giáo cũng không còn đủ uy tín xã hội và năng lực để tiếp tục dẫn dắt tâm thức xã hội. Nhiều cơ sở tôn giáo trở thành chỗ “tu thân” của những kẻ trốn tránh trách nhiệm xã hội. Hơn thế nữa, Phật giáo cũng ngày một mang sắc thái dị đoan. Nhu cầu xã hội và sự phát triển đất nước đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng mới thay thế. Trong bối cảnh đó, do đã nảy mầm, bám rễ trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc và cả trong thời Lý, Nho giáo đã trỗi dậy. Cuộc tấn công của Nho giáo đối với Phật giáo (mà sau đó là thể chế) đã diễn ra trên rất nhiều phương diện từ tư tưởng, triết lý đến các quan niệm và hành vi xã hội. Vũ khí nhiệm màu của Nho giáo không chỉ là sự sâu sắc trong thuyết Lý học Tống Nho, là sự kết hợp trên một bình diện mới của Tam giáo mà còn chỉ ra những nguyên tắc và cách thức thực tế để thiết lập một thiết chế quân chủ tập quyền mạnh, kỷ cương, chặt chẽ. Nho giáo đã đem đến một tư duy chính trị mới, những cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội, văn hoá mới40.
Trên một số phương diện, các tuyên bố của Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông về Nho giáo là sự thể hiện tinh thần dân tộc của các vua Trần, lòng trung với các vị tiền nhân nhưng qua đó cũng chứng tỏ đến khoảng nửa sau thế kỷ XIV giới quý tộc Trần đã trở nên trì trệ và quan liêu hoá không thể thích ứng được với những biến chuyển của thời đại. Nói cách khác, “Hệ thống cai trị thời Trần ngăn cản những người mới, ngăn cản sự đổi mới phong cách lãnh đạo để cho hợp lòng dân”41. Chính vì thế, thể chế đó đã gây nên sự bất bình, chán chường trong nhiều bộ phận xã hội. Giới quý tộc cao cấp cũng như vương triều này hẳn có thể và phải chấp nhận thay đổi bộ phận nhưng không thể thay đổi tổng thể, tháo dỡ toàn bộ những cấu trúc truyền thống vốn vẫn được coi như những giá trị chuẩn mực, gắn bó mật thiết với địa vị chính trị, lợi ích cố hữu, tâm thức của dòng họ, của giới quý tộc và vương quyền.
Bên cạnh đó, tầng lớp ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ là các quý tộc Trần đã mất dần uy lực về chính trị và kinh tế. Không thể giải quyết thấu triệt những vấn đề của thời hậu chiến, sự phân hoá giữa các nhóm người và thành phần xã hội theo đuổi những mục tiêu, tư tưởng khác nhau khiến chế độ tập quyền đã không được củng cố chắc chắn. Trong khi đó, chế độ kinh tế điền trang, thái ấp, cơ sở kinh tế chủ yếu của giới quý tộc phong kiến, cũng không thể đạt đến độ phát triển chín muồi ngõ hầu có thể trở thành chế độ kinh tế trang viên để rồi phát triển thành chế độ kinh tế lãnh địa như ở Nhật Bản trung đại. Vì nhiều nguyên nhân, đến cuối thế kỷ XIV chế độ điền trang, thái ấp bắt đầu bị suy thoái rồi tan rã mau chóng. Thêm vào đó, sự dồn tụ một số lượng lớn những người xuất gia, tăng đồ trong các chùa càng bộc lộ sự suy vi của Phật giáo và thể chế. Trong khi đó, đội ngũ quan lại xuất thân từ tầng lớp địa chủ trung lưu và nhỏ ngày càng có nhiều ảnh hưởng trong xã hội. Thông qua chế độ khoa cử, giới trí thức Nho học ngày càng xuất hiện đông đảo trong chính quyền và dần chiếm ưu thế về lực lượng, tư tưởng. Họ đã dần tạo ra một dòng phái, diện mạo và những giá trị văn hoá mới. Trong một ý nghĩa nào đó, sự xuất hiện của dòng văn hoá này đã làm cho văn hoá Đại Việt thời Trần trở nên đa dạng và sôi động42. Điều quan trọng là, “Thế cân bằng giữa các lực lượng xã hội bị phá vỡ. Tầng lớp địa chủ quan liêu mới lên sẽ phất ngọn cờ đạo Nho để đánh đổ quý tộc, sư sãi mà giành địa vị thống trị về tay mình”43. Do vậy, có thể coi những phản ứng văn hoá của giới trí thức Nho giáo như “Thất trảm sớ” của Chu Văn An (1292-1370) gửi Trần Dụ Tông, một ông vua “ham chơi bời, lười chính sự” không chỉ là sự thể hiện tinh thần yêu nước và trách nhiệm của giới trí thức Nho học trước dân tộc mà còn là cuộc tấn công trực diện đối với thể chế. Không dừng lại ở đó, lệnh sa thải tăng đồ, bắt những người dưới 50 tuổi phải hoàn tục của Hồ Quý Ly năm 1396 là cuộc phản công quyết liệt khiến cho thế lực của Phật giáo bị suy yếu nghiêm trọng.
Thời kỳ huy hoàng của Phật giáo kết thúc để thay vào đó là một thời đại mới chuyển mạnh sang mô hình Nho giáo. Nhưng, nhà Hồ đã đảm đương một sứ mệnh không trọn vẹn. Trong 21 năm Minh thuộc (1407-1428) nhà Minh đã ra sức thực hiện chính sách đồng hoá văn hoá. Xã hội và văn hoá Đại Việt đã diễn ra nhiều biến động sâu sắc. Nhiều tập tục cổ truyền, dấu ấn văn hoá thuần Việt hoặc đã được Việt hoá, trở thành vốn hồn dân tộc bị bãi bỏ44. Sau khi khôi phục được quốc thống, do những nhu cầu tự thân và trước áp lực của văn hoá khu vực một thiết chế chính trị tập quyền Nho giáo được thiết lập. Theo đó, Mô hình quân chủ quý tộc – Phật giáo đã được chuyển hoá thành Mô hình quân chủ tập quyền – Nho giáo. Mô hình này về cơ bản khác với thể chế chính trị thời đại Lý – Trần, chặt chẽ, duy lý, có nhiều điểm tiến bộ hơn đồng thời cũng hướng mạnh hơn đến mô hình và thiết chế phương Bắc.
Như vậy, một thời đại có “phong tục giản dị và thuần khiết” với những sắc màu huyền nhiệm và một chính quyền thân dân, gần dân đã trở thành ký ức và di sản văn hoá của dân tộc. Trước những biến đổi của thời cuộc, cũng như một số trí thức Nho giáo đương thời, Nguyễn Trãi muốn trở về, bảo vệ những giá trị đó, để cho văn hiến nước Nam không bị “làm loạn” bởi những áp chế và sự thâm nhập của những làn sóng văn hoá từ các quốc gia láng giềng khu vực.
__________
1 A. B. Pôliacốp: Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV, Nxb. Chính trị Quốc gia – Viện Lịch sử quân sự, H. ,1996, tr. 242.
2 Dẫn theo Hà Văn Tấn: Phật giáo từ Ngô đến Trần (Thế kỷ X-XIV), Sđd, tr. 248.
3 Hà Văn Tấn – Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Sđd, tr. 116-157. Theo Nguyên sử, Đại Việt đã cử 2 vạn quân và 500 chiến thuyền vào Chămpa cùng chiến đấu, chống lại quân Nguyên.
4 Phan Huy Lê: Tưởng nhớ công lao của vua Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân, Tạp chí Xưa & Nay, số 263, tháng 7-2006, tr. 17.
5 Hồ Đắc Duy: Có hay không “quan hệ” giữa công chúa Huyền Trân và Trần Khắc Chung?, Tạp chí Xưa & Nay, số 288, tháng 7-2007, tr. 22-25 & 42.
6 Tạ Chí Đại Trường: Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hoá Thông tin, H. , 2006, tr. 170.
7 Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1997, tr. 228.
8 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 120.
9 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 120.
10 Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb. Giáo Dục, H. , 2007, tr. 371.
11 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 118. Trần Nhật Duật là con của Trần Thái Tông, em của Trần Thánh Tông nên vua Trần Nhân Tông gọi bằng chú. Về sự ra đời của Nhật Duật, Toàn thư đã chép lại với những sắc màu huyền nhiệm: “Trước đó, đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua (Thái Tông). Đọc sớ xong [đạo sĩ] tâu vua “Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ”. Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn đồng tử”, nét chữ rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn (tức Nhật Duật). Lớn lên nét chữ mới mất đi”. Đến năm 48 tuổi, ông bị ốm hơn 1 tháng, các con làm chay xin giảm tuổi thọ của mình để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ lại dâng sớ cầu đảo, nên đã được Thượng đế y cho sống thêm 2 kỷ nữa. Trần Nhật Duật mất năm 77 tuổi, Toàn thư, Sđd, tr. 26.
12 Tư tưởng và lối sống thân dân của triều Trần và các vua Trần được thể hiện qua nhiều sự kiện lịch sử. Theo Toàn thư, tháng Giêng năm Thiệu Long thứ 11 (1268) Trần Thánh Tông “xuống chiếu cho các vương hầu, tôn thất khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Nhà vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê gường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau”, Toàn thư, Sđd, tr. 37. Đến năm 1310, khi Trần Nhân Tông qua đời. Linh cữu quàn ở điện Diên Hiền. Sắp đến giờ rước linh cữu mà quan lại và dân chúng còn đứng chật cả cung điện. Viên Tể tướng cầm roi xua đuổi mà vẫn không giãn ra được. Vua Trần Anh Tông bèn sai Trịnh Trọng Tử cho cấm quân hát mấy điệu “Long ngâm”. Mọi người đều ngạc nhiên kéo nhau đến xem, đám người tản ra vì thế linh cữu mới rước đi được. Viết về sự kiện trên các sử thần triều Lê cho rằng: “Triều đình cốt phải nghiêm. Rước linh cữu thì cần gì phải đến tể tướng dẹp người, hữu ty dùng mới đi được? Là bởi nhà Trần khoan hậu thì có thừa mà nghiêm khắc thì không đủ vậy”, Toàn thư, Sđd, tr. 95.
13 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 55.
14 Năm 1252, Trần Thái Tông đã đi đánh Chiêm Thành bắt được vợ chúa Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều thần thiếp, dân chúng đem về. Năm 1277 vua Trần Thánh Tông thân chinh đi đánh “người Man, Lạo ở động Nẫm Bà La (Bố Chính, Quảng Bình) bắt sống bộ đảng hơn 1. 000 người giải về. Xem Toàn thư, Sđd, tr. 24 & 40. Nhà Trần không ngừng mở rộng ảnh hưởng ra các vùng biên viễn. Ví như, năm 1297 triều đình đã sai Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi đánh sách A Lộc, Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng đi đánh sách Sầm Từ. Năm 1294, Thượng hoàng Trần Nhân Tông còn thân chinh đi đánh Ai Lao “bắt được người và xúc vật nhiều không kể xiết”, Toàn thư, tr. 73. Cũng trong thời gian này, năm 1297, 1298 Phạm Ngũ Lão cũng lập được nhiều chiến công trong việc bảo vệ biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc. Cũng cần phải nói thêm rằng, ngay sau khi giành được vương quyền, để triệt hạ những ảnh hưởng của nhà Lý đồng thời để tranh thủ mối quan hệ với các tù trưởng “người Man” Trần Thủ Độ đã đem các cung nhân và con gái họ hàng của Lý Huệ Tông gả cho họ.
15 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 118.
16 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 100.
17 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 74.
18 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 84.
19 Vũ Quỳnh: Tân đính Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1993, tr. 48.
20 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 78.
21 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 52.
22 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 77.
23 Trên thực tế, đến năm 1403 Hồ Hán Thương vẫn ra lệnh quân sĩ người ở châu nào thì thích hai chữ tên châu ấy vào cánh tay để làm dấu hiệu. Xem Toàn thư, Sđd, tr. 204. Tục xăm mình rất phổ biến ở Đông Nam Á và ngay cả ở Nhật Bản cho đến thời Edo (1600-1868) cư dân vùng Tây Nam Nhật Bản vẫn có tục xăm mình, ở nhà sàn và ăn trầu.
24 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 130. Theo Lương thư, ở châu Tự Nhiên, một vùng đất trong Trướng hải, “trên châu có loại cây mọc trong lửa. Người ở vùng lân cận bên trái châu ấy bóc lấy vỏ cây xe dệt thành vải được mấy thước để làm khăn tay, chẳng khác gì vải đay nhưng màu của nó hơi xanh đen. Nếu bị bẩn, đem bỏ vào lửa thì lại sạch như cũ, hoặc dùng để làm bấc đèn thì không bao giờ hết”. Phải chăng loại vải đặc biệt mà nước “Tiểu Nhân” đem đến bán cho vua Trần cũng được dệt ở cùng một địa điểm?. Xem Lương thư, Tư liệu Trung Quốc viết về Việt Nam và Đông Nam Á, Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH & NV, số TL 558, tr. 51.
25 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 36 & 55.
26 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 65.
27 Thời Trần Thái Tông, vua thường ban yến ở nội điện các quan đều dự, đến khi say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát. Trong yến tiệc có người cầm mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh. Theo Ngô Sĩ Liên đó là những hành động thô bỉ! Ông viết: “tuy bấy giờ vua tôi cùng vui, không gò bó vào lễ pháp, cũng là điều giản dị chất phác của phong tục, nhưng không còn chừng mực gì nữa”, Toàn thư, Sđd, tr. 24. Trong hội thề Đồng Cổ, lời thề thấm đượm tinh thần Nho giáo nhưng trước đó bao giờ vương triều này cũng thực hiện nghi lễ rất Đông Nam Á đó là tục uống máu ăn thề. Rồi lời khuyên của Nhân Tông về việc hoà giải mối bất hoà giữa Hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên và tả phụ Lê Tòng Giáo “dùng con rươi quả quýt đi lại, đưa tặng lẫn nhau”. Đức vua đã dùng một món đặc sản địa phương để thể hiện, gợi nhớ mối thân tình, gắn bó máu thịt giữa những người đồng hương xuất thân từ vùng quê Nam Hạ; Toàn thư, Sđd, tr. 63. Luôn gắn với tình cảm quê hương, dòng họ, dân tộc đó chính là đặc trưng đồng thời là sức mạnh của văn hoá Trần.
28 Viện Văn học: Nguyễn Trãi – Khí phách và tinh hoa của dân tộc, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1980, tr. 167.
29 Trần Quốc Vượng: Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, trong: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Dân tộc – Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, H. , 2000, tr. 743-744.
30 Các vua Trần đã dùng văn nghệ dân gian trong nghi lễ ngoại giao. Trần Phu đã từng ghi lại nghi thức triều Trần tiếp ông ta: “Từng dự yến ở điện Tập Hiền bên nước đó, thấy một bọn con trai và gái mỗi bên mười người đều ngồi dưới đất. Có các thứ đàn như đàn tỳ bà, đàn tranh, và đàn bầu. Tiếng hát, tiếng đàn hoà lẫn với nhau. Khi hát thì trước hết ê a lấy giọng rồi sau mới có lời…”. Thời Trần, giới quý tộc vẫn thường thưởng thức các điệu múa như Thác Bạt, Giá Chi, Lý Liên v. v… Khi múa Lý Liên động tác múa cơ bản là bơi chải, sóng nước, chim bay, cá lặn và bông sen chập chờn vờn nước. Người múa khoa trương tay, chân có bước lên bước xuống nhưng bao giờ cũng trở về chỗ cũ, ít khi có những động tác xén ngang đội hình hay kết tròn nhảy xa. Đây chính là những động tác cách điệu của chèo thuyền, dâng sen. Xem Đặng Văn Lung: “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì”, trong: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Sđd, tr. 522 & 541-542.
31 Nguyễn Tài Cẩn – N. V. Stankevith: Chữ Nôm – Một thành tựu văn hoá của thời đại Lý – Trần, trong: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1981, tr. 476-551; Đào Duy Anh: Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1975; Viện Văn học: Thơ văn Lý – Trần, 3 tập, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1977, 1978 & 1989.
32 Nguyễn Thừa Hỷ: Về cấu trúc xã hội chính trị thời Lý – Trần, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Sđd, tr. 303.
33 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 106 & 89.
34 O. W. Wolters: Sự thịnh trị về văn hoá của Việt Nam thế kỷ XIV, trong: Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nguyệt san Xưa & Nay – Nxb. Trẻ, Tp. HCM. , 2001, tr. 123.
35 Thời Trần Dụ Tông nhà vua đã cho gọi những người giàu trong nước đặc biệt là người vùng Đình Bảng (Bắc Giang), Nga Đình (Quốc Oai) vào cung đánh bạc. “Có tiếng bạc tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã gần nghìn quan rồi”, Toàn thư, Sđd, tr 141. Thậm chí, thời vua Minh Tông nhà vua còn gả công chúa Nguyệt Sơn cho Ngô Dẫn, một thương gia giàu có chuyên buôn bán ở Vân Đồn. “Dẫn cậy giàu thông dâm với người con gái khác, lại có những lời lăng nhục công chúa. Công chúa đem việc ấy tâu vua. Dẫn được tha tội chết nhưng bị tịch thu tài sản”, Toàn thư, Sđd, tr. 143. Những thông tin trên cho phép chúng ta có những luận suy đa chiều về vị thế của tầng lớp bình dân giàu có cũng như giá trị và sức mạnh của tiền bạc.
36 Hà Văn Tấn: Bản sắc văn hoá Việt cổ, trong: Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H. , 2005, tr. 152- 153.
37 Viện Văn học: Thơ văn Lý – Trần, 3 tập, Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1977, 1978 & 1989.
38 Đặng Văn Lung: “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì”, Sđd, tr. 548.
39 Có thể xem nghiên cứu xuất sắc của cố GS. Trần Quốc Vượng về Huyền thoại Thánh Gióng (Truyền thuyết về ông Gióng trong sách vở và ngoài đời) và khảo cứu của nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao trong cách luận giải độc đáo của tác giả về truyện Hà Ô Lôi. Theo đó, dấu ấn Chăm (Ấn Độ) trong các tác phẩm đó là rất sâu đậm. Có thể tham khảo thêm Tống Trung Tín: Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (thế kỷ XI-XIV), Nxb. Khoa học Xã hội, H. , 1997, tr. 170-190.
40 Từ thời Trần Thái Tông, Nho giáo đã trở thành một bộ phận của tư tưởng xã hội, đường lối trị quốc và phát triển văn hoá. Việc biên soạn các bộ luật, điển chương về cơ bản đều tuân thủ theo tinh thần, nguyên tắc của Nho giáo. Trước nhiều biểu hiện “lệch lạc” trong quan hệ gia đình, xã hội nên năm 1315 nhà Trần đã đề ra quy định cấm cha con, vợ chồng và nô tỳ trong một nhà tố cáo lẫn nhau. Chế độ kỵ huý cùng được đặt ra. Hệ thống khoa cử, giáo dục cũng ngày một thể hiện tinh thần nhất nguyên Nho giáo. Xem Yu Insun: Luật và xã hội Việt Nam thé kỷ XVII-XVIII, Nxb. Khoa học Xã hội, H, 1994. Cũng có thể tham khảo thêm bài của GS. Yu: Luật pháp triều Lý – Sự tiếp thu luật nhà Đường và ảnh hưởng của nó tới hình luật triều Lê, trong: Lý Công Uẩn và vương triều lý, Nxb. ĐHQG HN, H, 2001, tr. 205-234.
41 O. W. Wolters: Sự thịnh trị về văn hoá của Việt Nam thế kỷ XIV, Sđd, tr. 143.
42 Về truyền thống văn hoá Đại Việt, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Kể từ Đinh – Lê dựng nước, đối địch với Trung Hoa, các mệnh lệnh từ chương dần dần rõ rệt. Đến Lý – Trần nội trị, văn vật mở mang, về tham định thì có những sách điển chương điều luật, về ngự chế thì có các thể chiếu sắc thi ca. Trị bình đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi, Nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng, sách vở ngày ngày ngày càng nhiều, nếu không trải qua binh lửa mà thành tro tàn thì hẳn là trâu kéo phải mệt, nhà chất phải đầy”; Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí viết – Văn tịch chí, Tập II, Nxb. Giáo Dục, H. , 2007, tr. 379.
43 Nguyễn Huệ Chi: Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hoá như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời đại Lý – Trần, trong: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Sđd, tr. 626.
44 Nhung Tuyết Trần and Anthony Reid: Introduction: The Construction of Vietnamese Historical Indentities, in: Việt Nam – Borderless Histories, The University of Wisconsin press, 2006, p. 11.
Nguồn: VNH. TB1.119
Trích dẫn: Viện nghiên cứu phát triển TP.HCM
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)