Thuộc viên Thái y viện năm đầu triều Minh Mạng qua một tài liệu Châu bản
MEMBERS OF THE INSTITUTE OF ROYAL PHYSICIANS IN THE FIRST REGNAL YEAR OF EMPEROR MINH MẠG IN AN OFFICIAL DOCUMENT
Tác giả bài viết: NGUYỄN THỊ DƯƠNG*
(*.Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam)
TÓM TẮT
Về các thuộc viên Thái y viện triều Nguyễn, hiện nay chúng ta chỉ có thể bắt gặp lác đác qua các bộ sử triều Nguyễn hay trong các tư liệu dòng họ song chỉ liên quan tới một vài người. Bài viết này giới thiệu một tài liệu châu bản triều Minh Mạng, cung cấp một cách đầy đủ tên tuổi, quê quán, thời gian ứng vụ của các thuộc viên Thái y viện vào thời điểm năm Minh Mạng thứ nhất (1820). Văn bản này cho phép chúng ta hình dung được phần nào hoạt động của cơ quan chuyên trách về sức khỏe trong hoàng cung, từ đó có thể tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về hoạt động y tế dưới thời Nguyễn.
ABSTRACT
Nowadays, we do not know much about the members of the Institute of Royal Physicians (Thái y việ) except for scattering information in the Nguyễ Dynasty’s history books or family documents, but they are only related to several persons. This paper introduces an official document under the reign of Emperor Minh Mạg fully providing the names, native places, service duration of the members of Institute of royal physicians at the time of the first regnal year of Emperor Minh Mạg (1820). This document allows us to partly visualize the operation of the agency responsible for the health of the royal family, then to continue to learn about health care activities under the Nguyễn Dynasty.
x
x x
Xưa nay, các hoạt động y tế thời phong kiến ở Việt Nam không được sử sách đề cập nhiều. Ngay cả hoạt động của Thái y viện là cơ quan chuyên trách về vấn đề sức khỏe trong hoàng cung cũng chỉ được nói tới một cách sơ lược trong các bộ chính sử, nhất là về các thuộc viên của viện này thì lại càng hiếm khi được đề cập đầy đủ. Trong cuốn Vua Minh Mạng với Thái y viện và ngự dược (1) tuy có nói về Thái y viện nhưng về các thuộc viên của viện này dưới triều Minh Mạng cũng chỉ thấy nhắc tên 7 người. (2) Gần đây, trong quá trình tiếp xúc với mảng tư liệu châu bản triều Nguyễn tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội), chúng tôi bắt gặp một văn bản trong đó liệt kê danh sách các thuộc viên trong Thái y viện xin cho thăng thụ phẩm hàm vào năm Minh Mạng thứ nhất (1820). Thiết nghĩ đây là một tư liệu hữu ích, chúng tôi xin giới thiệu về văn bản này.
Văn bản nằm trong tập 2, Châu bản triều Minh Mạng, từ tờ 336 tới tờ 343, gồm 15 trang, là một bản tấu do Đoàn Văn Hòa ở Thái y viện dâng ngày 17 tháng 11 năm Minh Mạng thứ nhất (1820),(**) có châu cải (mục Ngạch cước tiện nghi Y chánh gồm 9 viên, vua Minh Mạng sửa thành 10, đưa Lê Quang Quận từ Ngạch cước tiện nghi Y phó lên Ngạch cước tiện nghi Y chánh). Trang cuối, trên dòng niên đại có dấu “Ngự tiền chi bảo” và phía dưới là dấu của Đoàn Văn Hòa. Danh sách các thuộc viên Thái y viện lúc bấy giờ được Đoàn Văn Hòa kê khai đầy đủ họ tên, tuổi tác, quê quán và năm ứng vụ, gồm 85 người theo thứ tự như sau:
1. Đoàn Văn Hòa, tuổi 60, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
2. Nguyễn Đăng Long, tuổi 51, xã Đức Bưu, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
3. Lê Quang Đạm, tuổi 52, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
4. Lê Quang Giai, tuổi 66, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
5. Vũ Doãn Tuấn, tuổi 50, xã Hành Phổ, tổng Hành Phổ, huyện Phong Lộc, phủ Quảng Bình.
6. Trần Văn Diên, tuổi 54, phường khách hộ Thành Trung, tổng An Thành, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
7. Nguyễn Văn Sách, tuổi 51, xã Lễ Tuyền, tổng An Cư, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong.
8. Nguyễn Tâm Cư, tuổi 48, xã Hương Cần, tổng Đông Lâm, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
9. Nguyễn Văn Đường, tuổi 49, xã La Miên, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
10. Lê Phước Thụ, tuổi 44, xã La Miên, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
11. Mai Phước Thạc, tuổi 67, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
12. Trần Duy Phác, tuổi 57, xã Phước Linh, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
13. Hoàng Đức Hạ, tuổi 31, xã An Xuân, tổng An Thành, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
14. Lê Quang Quận, tuổi 66, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
15. Hoàng Tăng Thiện, tuổi 53, xã Cổ Lão, tổng Đông Lâm, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
16. Đặng Văn Giảng, tuổi 51, xã Diễm Sơn, tổng An Thái, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn.
17. Nguyễn Văn Thược, tuổi 58, giáp Tây, xã Thế Chí, tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
18. Nguyễn Đăng Sơn, tuổi 59, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
19. Nguyễn Văn Lệ, tuổi 42, xã La Miên, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
20. Hồ Công Phan, tuổi 55, xã Hương Triền, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
21. Trần Duy Huân, tuổi 44, xã Phước Linh, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
22. Nguyễn Văn Nhuận, tuổi 49, xã Mỹ Xá, tổng An Thành, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
23. Vũ Quang Ứng, tuổi 42, giáp Đông, xã Nam Phổ, tổng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
24. Nguyễn Bá Dung, tuổi 43, xã An Hòa, tổng An Hòa, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
25. Trần Hữu Tuấn, tuổi 38, xã Phước Linh, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
26. Nguyễn Quang Vĩnh, tuổi 30, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
27. Hoàng Tăng Từ, tuổi 42, xã Cổ Lão, tổng Đông Lâm, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
28. Nguyễn Đăng Thị, tuổi 54, xã An Hòa, tổng An Hòa, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
29. Nguyễn Công Thục, tuổi 45, xã Thạch Bồng Hạ, tổng Thạch Bồng, huyện Phong Lộc, phủ Quảng Bình.
30. Nguyễn Hữu Dung, tuổi 42, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
31. Nguyễn Tất Hy, tuổi 30, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
32. Nguyễn Văn Nghiễm, tuổi 40, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
33. Trần Văn Nhàn, tuổi 40, ấp Xuân An, chợ Dinh, tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
34. Nguyễn Tất Cát, tuổi 30, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
35. Hồ Phúc Nghĩa, tuổi 41, thôn Ngọc Sa, tổng Phú An Nhị, Phú Châu thuộc, phủ Điện Bàn.
36. Lê Văn Đạo, tuổi 43, xã Dương Xuân, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
37. Lê Văn Ý, tuổi 33, xã Tùng Luật, tổng Minh Linh, huyện Minh Linh, phủ Quảng Bình.
38. Đỗ Văn Diệu, tuổi 48, xã Nghi Giang, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
39. Hồ Công Hoa, tuổi 58, xã Hương Triền, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
40. Lê Quang Chung, tuổi 40, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
41. Nguyễn Văn Phiếu, tuổi 40, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
42. Trần Quang Tô, tuổi 39, xã Hà Cảng, tổng Phò Lê, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
43. Trần Duy Lễ, tuổi 36, xã Phước Linh, tổng Đường Hoa, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
44. Đoàn Đức Quang, tuổi 44, phường Mỹ Toàn, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
45. Trần Văn Sinh, tuổi 43, phường khách hộ Thành Trung, tổng An Thành, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
46. Đoàn Văn Nhiêu, tuổi 33, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
47. Lê Văn Chỉ, tuổi 36, xã Phú Xuân, tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
48. Nguyễn Đăng Đàm, tuổi 33, xã Đức Bưu, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
49. Đoàn Văn Diệu, tuổi 35, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
50. Lê Quang Thành, tuổi 46, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
51. Hồ Đắc Minh, tuổi 34, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
52. Hồ Đắc Hoa, tuổi 26, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
53. Đỗ Đăng An, tuổi 32, phường khách hộ Trúc Đăng, tổng An Thơ, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong.
54. Trần Công Kính, tuổi 33, xã Tiên Nộn, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
55. Trần Gia Tảo, tuổi 42, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
56. Trần Văn Phương, tuổi 32, phường Vĩnh Hòa, tổng An Đôn, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong.
57. Bùi Xuân Bân, tuổi 32, giáp Trung, xã Nam Phổ, tổng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
58. Mai Văn Uyên, tuổi 31, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
59. Lê Quang Triệu, tuổi 32, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
60. Đặng Văn Chức, tuổi 25, giáp Đông, xã Bác Vọng, tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong.
61. Lê Văn Hộ, tuổi 30, Phụ Lũy La Khê, xã La Khê, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
62. Hồ Văn Chi, tuổi 45, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
63. Nguyễn Tất Thiệu, tuổi 28, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
64. Nguyễn Ngọc Phong, tuổi 27, phường khách hộ Hà Bạc, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
65. Hồ Văn Hòa, tuổi 29, xã Hương Triền, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
66. Nguyễn Tiến Bảo, tuổi 49, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
67. Phạm Tiến Đàm, tuổi 52, giáp Thượng, thôn Miêu Nha, thuộc Nội phủ võng nhi, phủ Triệu Phong.
68. Nguyễn Đức Mẫn, tuổi 48, xã Thủy Cần, tổng Thủy Liên, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Bình.
69. Nguyễn Văn Thảo, tuổi 44, xã Phú Liêu, tổng An Cư, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong.
70. Nguyễn Tăng Dương, tuổi 38, xã Câu Nhi, tổng An Thơ, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong.
71. Hồ Đắc Ân, tuổi 37, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
72. Hồ Đắc Nhân, tuổi 48, xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
73. Nguyễn Tiến Quý, tuổi 43, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
74. Nguyễn Văn Trường, tuổi 35, xã Phú Xuân, tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
75. Hoàng Thiên Thái, tuổi 33, giáp Đông, xã Nam Phổ, tổng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
76. Nguyễn Ngọc Trí, tuổi 33, xã Phò Trạch, tổng Phò Trạch, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
77. Hồ Văn Niên, tuổi 41, giáp Đông, xã Triều Sơn, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
78. Nguyễn Tiến Quang, tuổi 32, xã Vĩnh Xương, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
79. Lê Văn Tuân, tuổi 35, giáp Chánh, xã Thanh Toàn, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
80. Lê Văn Ba, tuổi 31, xã Địa Linh, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
81. Nguyễn Văn Thận, tuổi 31, ấp Thượng, gia cư chợ Được, tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
82. Đào Văn Quang, tuổi 29, phường Mộc Trụ, Thủy Lập Tứ Chính, tổng Kế Thống, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
83. Lê Quang Triều, tuổi 23, xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
84. Hồ Văn Tín, tuổi 34, xã Hương Triền, tổng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
85. Lê Phúc Chất (Chí), tuổi 24, xã An Cựu, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.
Qua bản tấu có thể thấy một số vấn đề về cơ cấu Thái y viện cùng các thuộc viên năm đầu triều vua Minh Mạng.
– Theo bản tấu thì cơ cấu Thái y viện vào thời điểm năm Minh Mạng thứ nhất gồm Tống thị Ngự y phó (1 viên), Lệnh chỉ Y phó (2 viên), Ngạch cước tiện nghi Y chánh (9 viên), Ngạch cước tiện nghi Y phó (23 viên), Ngạch cước Y viện (30 viên), Ngoại khoa (20 viên, trong đó Ngạch cước tiện nghi Y chánh 2 viên, Ngạch cước tiện nghi Y phó 2 viên, Ngạch cước tiện nghi Y viện 16 viên). Tổng cộng 85 viên, hàm từ Chánh cửu phẩm tới Chánh thất phẩm (do vua phê). Có thể nhận thấy vào thời điểm này đứng đầu danh sách thuộc viên Thái y viện là Tống thị ngự y phó (Đoàn Văn Hòa). Các Y chánh, Y phó và Y viện đều thuộc “ngạch cước tiện nghi”. Các danh xưng “tống thị…”, “lệnh chỉ…”, “ngạch cước tiện nghi…” không hề thấy xuất hiện trong các bộ chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục hay Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ mặc dù cùng nói về cơ cấu Thái y viện năm Minh Mạng thứ nhất. (3) Điều này rất cần được tìm hiểu thêm.
Nếu so sánh số thuộc viên Thái y viện vào thời điểm năm Minh Mạng thứ nhất (85 người như danh sách nêu trên) với con số 23 thuộc viên Thái y viện vào năm Thành Thái 10 (1898) khi chính quyền Pháp cho rằng số lượng này “hơi nhiều” và đề nghị chỉ lưu giữ 11 người, 12 người còn lại cho về đợi bổ (4) thì có thể hình dung phần nào sự thay đổi của cơ cấu Thái y viện triều Nguyễn trước và sau khi Pháp xâm lược.
– Về quê quán các thuộc viên Thái y viện: nơi xuất thân của các thuộc viên Thái y viện tập trung ở ba phủ Điện Bàn (2 người), Quảng Bình (4 người) và Triệu Phong (79 người). Phủ Triệu Phong có số lượng các người làm việc trong Thái y viện nhiều đặc biệt [trong đó nhiều nhất là huyện Hương Trà (43 người), Phú Vang (20 người), Quảng Điền (10 người)], chứng tỏ đây là một vùng đất có truyền thống về nghề y. Phải chăng do người đứng đầu trong Thái y viện lúc bấy giờ là Đoàn Văn Hòa, quê xã An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà thuộc phủ Triệu Phong nên đã thu hút được một lượng lớn các thầy thuốc trong phủ về làm việc trong Thái y viện?
– Về tuổi tác các thuộc viên Thái y viện: Ngoài yếu tố quê quán, văn bản còn ghi rõ tuổi các thuộc viên Thái y viện vào thời điểm dâng bản tấu, đồng thời lại có thêm năm ứng vụ nên ta có thể biết thêm một số thông tin về hành trạng của họ. Người nhiều tuổi nhất ở vào thời điểm 1820 là Mai Phước Thạc (67 tuổi), người trẻ tuổi nhất là Lê Quang Triều (23 tuổi), cả hai đều ở xã Xuân Hòa, tổng Kim Long, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong. Nhìn chung họ đều tham gia ứng vụ trong khoảng từ năm 1801 tới 1816 đời vua Gia Long; tuổi khi ứng vụ từ 15 tới 63, và số lượng người trẻ tuổi ứng vụ cũng không ít, như Lê Quang Triều, 23 tuổi, ứng vụ năm Nhâm Thân (1812) tức khi mới 15 tuổi hay các trường hợp của Trần Duy Lễ, Nguyễn Đăng Đàm (huyện Phú Vang), Đoàn Văn Nhiêu, Nguyễn Quang Vĩnh, Nguyễn Tất Cát (Hương Trà), Hoàng Đức Hạ, Đặng Văn Chức (Quảng Điền), Lê Văn Ý (Minh Linh, Quảng Bình)… đều ứng vụ ở độ tuổi 17, 18.
Để làm việc ở Thái y viện phải là những người có năng lực, giỏi về nghề thuốc. Họ là những ai, xuất thân dòng dõi ra sao, học hành y nghiệp thế nào hầu như chưa được biết tới. Văn bản trên đây là một trong số những tài liệu hiếm hoi nêu rõ danh sách Thái y viện thời Nguyễn vào năm đầu triều Minh Mạng cho phép hình dung hoạt động của Thái y viện thời Nguyễn trước thời Pháp thuộc. Những thông tin ban đầu mà văn bản cung cấp sẽ là cơ sở để chúng ta có thể tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về hoạt động y tế dưới thời Nguyễn.
Chú thích:
(1) Lê Nguyễn Lưu, Phan Tấn Tô, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2007.
(2) Lê Nguyễn Lưu, Phan Tấn Tô, sđd, tr. 305-307.
(3) Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ , Quyển 10- Lại bộ tứ-Quan chế-Thái y viện viết: “… Năm Minh Mạng thứ nhất chuẩn định Thái y viện Chánh ngũ phẩm Ngự y chánh 1 viên, Tòng ngũ phẩm Ngự y phó 2 viên, Chánh thất phẩm Y chánh 2 người, Tòng thất phẩm Y phó 2 người, Chánh bát phẩm Y chánh 2 người, Tòng bát phẩm Y phó 10 người, Chánh cửu phẩm Y sinh 10 người, Tòng cửu phẩm Y sinh 30 người. Về ngoại khoa: Chánh bát phẩm Y chánh 2 người, Tòng bát phẩm Y phó 2 người, Tòng cửu phẩm Y sinh 16 người. Lại chuẩn định Thái y viện từ Ngự y phó đến Y viện 65 viên, ngoại khoa 20 người đem làm số viên chức Thái y viện, nếu thiếu thì chọn từ hạng thuộc viên sung vào. Thuộc viên mà thiếu thì không cần tăng thêm.
Lại chuẩn định viện ấy từ Chánh thất phẩm Y chánh tới Tòng cửu phẩm Y sinh gồm 66 viên…) (4) Xin xem Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên , Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (96), năm 2012
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Thuộc viên Thái y viện năm đầu triều Minh Mạng qua một tài liệu Châu bản (Tác giả: Nguyễn Thị Dương) |