Tiểu thuyết Việt Nam đương đại và những “tiếng gọi nghệ thuật” (Phần 2)

  Vietnam contemporary novels and “the Calls of Art”

TRẦN THỊ MAI NHÂN
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM)

     2.3 Tiểu thuyết Việt Nam với “tiếng gọi của tư duy”

     Hegel gọi “con người là một ý thức biết tư duy, tức là sự sáng tạo từ bản thân mình và cho bản thân mình, để chứng minh rằng y tồn tại và mọi vật tồn tại” [11, tr. 97]. Descartes – người đặt vấn đề hoài nghi mọi tín điều cũ kĩ, nhà triết học đầu tiên của chủ nghĩa duy lí (rationalisme) – có một câu nói rất nổi tiếng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Je pense, donc je suis).

     Hoạt động sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật cũng là một dạng hoạt động của tư duy con người, đó là “tư duy nghệ thuật” (aesthetic thought). Tư duy nghệ thuật là một dạng tư duy đặc biệt, khác với tư duy thông thường ở “tính chọn lọc cao về thẩm mĩ, tính liên tưởng, tính ẩn dụ” [12, tr. 1888]. Tìm hiểu tư duy nghệ thuật, chúng ta không thể không tìm hiểu “dấu hiệu bản chất” cũng như “tính cấu trúc” của nó. Đó là “ngoài tính giả định, ước lệ nó hướng tới việc nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính, mang nội dung khả nhiên” và “năng lực nhìn thấy thế giới một cách toàn vẹn, nắm bắt nó qua những dấu hiệu phát sinh đồng thời phát hiện các mối liên hệ mới chưa được nhận ra”[13, tr. 216]. Theo các nhà nghiên cứu, tư duy nghệ thuật “chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với tài năng biết cảm nhận một cách nhạy bén về viễn cảnh lịch sử, nắm bắt tinh thần thời đại, dự báo tương lai và tài năng sáng tạo nghệ thuật” [13, tr.261] của người nghệ sĩ.

      Như vậy, tư duy nghệ thuật sáng tạo văn học không thể tách rời hiện thực mà con người đang tiếp cận. Sự chuyển vần của lịch sử, sự đổi thay của thời đại, cũng như sự phá vỡ cấu trúc cân xứng hài hoà trong cái nhìn mang tính định hướng (như vectơ) của con người, sẽ dẫn đến sự thay đổi không thể khước từ của tư duy nghệ thuật. Trước đây, kiểu tư duy sử thi đã tạo cho văn học, nhất là tiểu thuyết, một nét riêng, có lợi thế trong việc khai thác toàn cảnh vĩ mô của cuộc chiến tranh. Cái đối tượng mà nhà tiểu thuyết hướng đến là sứ mệnh lịch sử của nhân dân (đấu tranh giành độc lập) mà ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc có thể được bộc lộ. Cái thế giới nghệ thuật mà nhà văn xây dựng là bức tranh sơn mài hoành tráng được tô điểm bởi chiến công của cả cộng đồng. Trong thế giới đó, con người cá thể – yếu tố cấu thành nên tập thể – thường bị mờ đi sau sắc màu của bức tranh hiện thực hoành tráng, sau những chiến công hay thất bại của cộng đồng. Tất nhiên, với một đất nước mà lịch sử dân tộc là lịch sử của những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm như Việt Nam, tiểu thuyết viết theo kiểu tư duy sử thi sẽ có một vị trí nhất định trong nền văn học dân tộc. Cùng với những thể loại văn học khác, nó đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của “một nền văn học tiên phong chống đế quốc”.

     Nhưng khi con người bước ra khỏi thế giới đậm đặc chất sử thi để bước vào một thế giới khác, thế giới đời thường với tất cả những gì tự nhiên, phức tạp và sinh động, họ phải chuẩn bị một tâm thế khác, phải có cái nhìn khác về cuộc đời, về con người cũng như về chính bản thân mình. Bởi thế giới mà con người đang tồn tại để tư duy và hoài nghi, để sáng tạo và tự vượt không phải là thế giới “nhị nguyên”. Thế giới ấy chấp nhận“tồn tại cùng lúc nhiều khách thể khác nhau”, thậm chí có sự “đa nguyên trong chính từng chủ thể” [14, tr. 37]. Thực tế ấy đòi hỏi nhà văn phải tìm kiếm một góc độ nhìn, một cách tiếp cận mới để nắm bắt nhanh nhạy nhất, hiệu quả nhất cái hiện thực nhiều chiều được đan cài bởi những mảng màu sáng, tối ấy. Vì vậy, từ sau năm 1986, văn học Việt Nam đã diễn ra quá trình đổi mới sâu sắc và quyết liệt: đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Trong đó, dòng chủ lưu của văn học là tiểu thuyết đã có sự chuyển mạch sang một kiểu tư duy mới – tư duy tiểu thuyết. Đó là kiểu tư duy “mà bản chất là việc đánh giá và tái hiện hiện thực bằng nghệ thuật trên quan điểm của con người riêng lẻ” [15, tr. 246]. Có thể xem đây là dấu hiệu đổi mới đầu tiên của văn học thời kì này nói chung và tiểu thuyết nói riêng.

     Với kiểu tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn không đánh giá cuộc sống cá nhân qua lăng kính lợi ích của cộng đồng, dân tộc như trong tiểu thuyết sử thi mà con người được nhìn trong quan hệ gắn bó mật thiết với hoàn cảnh xã hội. Điểm nhìn nghệ  thuật của nhà văn chuyển từ tầm “vĩ mô” xuống tầm “vi mô” về số phận con người, nghĩa là con người được khám phá ở góc độ đời tư. Quan điểm tiếp cận con người ở góc độ riêng lẻ, đời tư đã thu hẹp khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật. Chỉ khi gần gũi với nhân vật, tồn tại trong nhân vật, nhà văn mới có thể thấu triệt toàn diện bản chất của con người mà qua đó tìm ra những nguồn mạch của đời sống nhân sinh. Với tư duy tiểu thuyết, nhà văn còn phát hiện ra tính phức tạp, đa chiều của hiện thực đời sống. Cái thế giới mà tiểu thuyết nói đến không mơ hồ, không hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng mà rất thực, hiện hữu ngay trong cuộc sống hằng ngày của con người. Mỗi người có thể tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình trong đó – đau khổ, nhọc nhằn bên cạnh niềm vui và hạnh phúc thế nhân. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, hiện thực đời sống được miêu tả phức tạp đến thế. Cái tốt – cái xấu, cái cao cả – cái thấp hèn, thiên thần – quỷ dữ, bóng tối – ánh sáng, văn hoá – phi văn hoá,… cứ lẫn lộn, nhập nhoè.

     Vì vậy, đọc tiểu thuyết thời kì này, con người mới vỡ ra nhiều điều, mới ngộ ra rằng lâu nay có lúc mình vẫn chìm trong cõi u u minh minh mà không biết. Họ bỗng có cái nhìn khác hơn về những cái hằng thường, có thể nghĩ khác hơn và còn tỏ ra nghi ngờ những gì trước đây vốn được xem như một xác tín. Và trên hành trình kiếm tìm sự thật, các nhà văn đã mạnh dạn phơi bày tất cả gì đang diễn ra, những gì đang còn bị che giấu, kể cả những điều tưởng đã ngủ yên trong quá khứ. Chính cảm hứng về sự thật – một đặc trưng của tư duy tiểu thuyết đã giúp nhà văn nói lên được sự thật của đời sốngsự thật về con người. Đó là lý do hàng loạt tiểu thuyết viết theo kiểu tư duy mới ra đời đã gây sóng gió trong lòng người và tạo nên những phản ứng đa chiều từ phía người đọc (Thời xa vắng của Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Bên kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài,…). Có thể xem đó là những “đột biến” của văn học, cũng là hệ quả tất yếu của quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật.

     Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã tạo nên những tác phẩm có sức sống, vừa bao quát hiện thực cuộc sống vừa khám phá những bí ẩn trong đời sống tâm hồn con người. Nếu theo phân tích của M. Kundera, lắng nghe “tiếng gọi của tư duy” nghĩa là các nhà tiểu thuyết phải “đưa vào tiểu thuyết một trí năng tối thượng và rực tỏa. Không phải để biến tiểu thuyết thành triết học, mà là để huy động trên cơ sở cốt truyện tất cả các phương tiện lý tính và phi lý, tự sự và nghiền ngẫm, có thể soi sáng bản thể con người; để làm cho trở thành sự tổng hợp tinh thần tối cao. Chiến công của họ là sự hoàn thành lịch sử tiểu thuyết, hay đúng hơn, là lời mời vào cuộc du hành dài lâu [1, tr. 22] thì tiểu thuyết Việt Nam bước đầu đã lắng nghe được “tiếng gọi” tha thiết ấy. Với những dấu ấn đã có của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, với nội lực và tâm hồn nhạy cảm, chúng ta tin rằng các nhà văn sẽ nắm bắt được cuộc sống đang chuyển biến mạnh mẽ và phức tạp như hôm nay để “đưa vào tiểu thuyết một trí năng tối thượng và rực tỏa”, có thể “soi sáng bản thể con người” và góp phần “hoàn thành lịch sử tiểu thuyết”.

     2.4 Tiểu thuyết Việt Nam với “tiếng gọi của thời gian”

     “Tiếng gọi của thời gian” có lẽ là một trong những tiếng gọi ám ảnh đối với các nhà tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986. Mặc dù chưa hoàn toàn vượt thoát khỏi “vấn đề thời gian trong bài toán của Proust về ký ức cá nhân và mở rộng nó đến cái bí ẩn của thời gian tập thể” như quan niệm của Kundera nhưng nhìn lại hành trình đổi mới của tiểu thuyết, chúng ta sẽ thấy về phương diện thời gian, tiểu thuyết Việt Nam đã cố gắng thoát ra khỏi khuôn mẫu truyền thống và tìm cách “vượt qua những cái giới hạn nhất thời của một cuộc đời cá nhân”. Bởi tất cả mọi diễn tiến của số phận, của tư tưởng con người, của những mối quan hệ chằng chịt nhiều chiều của con người,… đều gắn liền với thời gian, bao gồm ký ức thời gian và thời gian đang hiện hữu. Trong đó, sự “đa phương hoá” thời gian của truyện (đảo tuyến thời gian, đan cài các tuyến thời gian, đồng hiện thời gian, để cho các tuyến thời gian cùng song song tồn tại,…) cùng với nghệ thuật “phanh hãm” hoặc “tăng tốc” thời gian đã giúp người đọc nhận ra những đổi thay trong số phận con người trước những biến động của thời gian, đồng thời hiểu được những suy nghĩ, những triết lí của nhân vật về cuộc đời, về con người… Đây cũng được xem là thủ pháp văn học “ưa thích” của một số nhà văn lớn trên thế giới. Crixta Vuôlf – một trong những tên tuổi làm nên niềm tự hào của văn học Đức – cũng thường “dịch chuyển các tầng vỉa thời gian, đem những ấn tượng thơ ấu đặt song song với cách cảm nhận hôm nay” [6, tr. 273].

     Tiểu thuyết Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết viết về chiến tranh đã có sự thành công khi xử lý thời gian theo hướng xen kẽ thời gian hoặc song tuyến thời gian. Bởi đối tượng mà tiểu thuyết hướng đến là hiện thực chiến tranh đã lùi vào quá khứ nhưng nhân vật tri nhận lại đang sống trong hiện tại. Đi đến tận cùng hiện thực (cả quá khứ lẫn hiện tại) bằng cách để cho các tuyến thời gian vận động song song hoặc đan cài vào nhau, các tọa độ thời gian luôn luôn thay đổi không theo một trật tự nào cả, nhà văn muốn khắc sâu bi kịch nội tâm của nhân vật cũng như tìm lời giải cho thân phận người lính trở về sau chiến tranh. Chẳng hạn, để thể hiện cuộc sống tinh thần bị cày xới, bị quấy đảo dữ dội của nhân vật – người lính trở về sau chiến tranh, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã nối liền hiện tại và quá khứ, kí ức gần và kí ức xa, ý thức và tiềm thức… qua tâm tưởng của nhân vật. Như những đợt sóng xô bờ, mê say, dữ dằn, điên loạn, Kiên lao mình về quá khứ, chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Thời gian hiện tại và quá khứ đan vào nhau, chồng lên nhau trong rừng kí ức bùng nhùng của nhân vật. Và truyện được kể ở nhiều thời điểm, nhờ hoạt động của kí ức, các sự kiện “bị làm rối” và lồng vào nhau… Như vậy, để cho thời gian quá khứ và hiện tại đan xen vào nhau qua kí ức hỗn độn của nhân vật là một nét mới trong nghệ thuật xử lí thời gian của tác giả.

     Hay trong Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai đã để cho các tuyến thời gian cùng song song tồn tại (thời gian quá khứ – thời gian hiện tại, thời gian hiện thực – thời gian tâm tưởng…). Cứ thế, một quá khứ oanh liệt hào hùng được tái hiện song song với một hiện tại đầy rẫy những phức tạp, xảo trá và xuống dốc về đạo đức. Cách xử lí thời gian của tác giả đã khắc sâu bi kịch nội tâm cũng như bộc lộ rõ tính cách của các nhân vật. Trong sự vận động song song của hai tuyến thời gian, nhân vật Hai Hùng hiện lên rất sống động khiến người đọc vừa xót xa vừa cảm phục. Hành trình “đi tìm dĩ vãng” của anh là một hành trình đầy cay đắng. Anh phải chứng kiến, phải đối mặt với bao nhiêu sự trái khoáy, bất ngờ. Cái quá khứ hào hùng mà anh dành trọn cả thời trai trẻ của mình vào đó đã bị người ta lãng quên, xua đuổi. Và chính bản thân anh – hiện thân của quá khứ ấy – cũng bị chối bỏ một cách tội tình…

     Nhìn chung, “phức tạp hoá”, “đa phương hoá” thời gian cốt truyện cũng là biểu hiện của sự “lắng nghe tiếng gọi của thời gian” để đổi mới chính mình của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Cách làm này rất phù hợp với những tiểu thuyết viết về hiện thực đã xảy ra trong quá khứ, đặc biệt là hiện thực khốc liệt, từng để lại những ám ảnh, những thương tổn trong tâm hồn con người. Nói theo cách của một nhà phê bình Nga thì đó cũng là cách để nhà văn “nắm bắt cái nhấp nháy” của tâm hồn, nắm bắt “những vận động thầm kín nhất của đời sống tâm lí” nhân vật. Nhờ vậy, các tác giả đã làm cho câu chuyện cũng như số phận của nhân vật trở nên “hiện tại hoá”, dù quá khứ hay tương lai đang xuất hiện. Điều này cũng tạo nên hiệu ứng tâm lí từ phía người đọc. Họ bị cuốn hút, hoà nhập vào những hiện tượng đang diễn ra liên tục trong dòng chảy của thời gian, để dõi theo số phận của nhân vật, đồng thời cũng hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu tượng, ý nghĩa nhân văn mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm. Tuy nhiên, theo cách diễn giải của Kundera,“thời kỳ của những nghịch lý cuối kết giục nhà tiểu thuyết không chỉ giới hạn vấn đề thời gian trong bài toán của Proust về ký ức cá nhân mà mở rộng nó đến cái bí ẩn của thời gian tập thể” [1, tr. 22] thì tiểu thuyết Việt Nam còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể “vượt qua những cái giới hạn nhất thời của một cuộc đời cá nhân” và đi vào “không gian tiểu thuyết nhiều thời đại lịch sử” [1, tr. 23]. Vì vậy, “tiếng gọi của thời gian” vẫn luôn còn vẫy gọi từ phía trước, cũng là một thử thách đối với các nhà tiểu thuyết Việt Nam.

3 KẾT LUẬN

     Dù chưa có những tác phẩm kết tinh ở qui mô lớn như tiểu thuyết của các nền văn học khác nhưng tiểu thuyết Việt Nam cũng đã làm nên những mùa tiểu thuyết đáng tự hào. Đặc biệt, mùa tiểu thuyết thế sự, đời tư (cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX) đã có những bước đột phá, góp phần quan trong vào công cuộc đổi mới văn học nước nhà. Ở đó, nhiều vấn đề thuộc về đời tư tâm hồn con người được khám phá; nhiều vùng hiện thực được đào xới; nhiều phương thức nghệ thuật được tìm tòi, sáng tạo để đưa văn học Việt Nam đến gần hơn với đời sống và với thế giới. Có lẽ, điều quan trọng làm nên dấu ấn cho tiểu thuyết thời kỳ này là các nhà văn đã không “bỏ lỡ những cơ hội” như M. Kundera đã nhận định khi bàn về nghệ thuật tiểu thuyết. Đó là việc lắng nghe và cảm nhận những tiếng gọi nghệ thuật: tiếng gọi của trò chơi, tiếng gọi của giấc mơ, tiếng gọi của tư duy và tiếng gọi của thời gian.

     Tuy nhiên, dù bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định, dù có nhiều tiềm năng và những dấu hiệu lạc quan nhưng thực sự, với “những tiếng gọi nhạy cảm” ấy, tiểu thuyết Việt Nam vẫn còn giữ một “khoảng cách sử thi”. Điều này đòi hỏi các nhà văn phải có một quá trình nỗ lực không ngừng, phải có một trường lực, một tầm văn hóa và triết học nhất định mới có thể “nghe thấy” và cảm nhận sâu sắc hơn những tiếng gọi từ phía xa kia. Có như vậy, trong tương lai, Việt Nam mới có những tiểu thuyết đỉnh cao, đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc sống đúng với tinh thần và “lẽ sống của tiểu thuyết”, đó là “thường xuyên soi sáng cái “thế giới sự sống” và bảo vệ chúng ta chống lại sự “lãng quên con người” [1, tr. 24].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] M. Kundera, “Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch),”NXB Đà Nẵng, 1998, tr. 21-24, 34, 84.

[2] Nhiều tác giả, “Số phận của tiểu thuyết (Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh, Phong Vũ dịch),” Hà Nội, NXB Tác phẩm mới, 1983, tr. 317.

[3] Phạm Thị Hoài, “Thiên sứ,” Hà Nội, NXB Hội Nhà văn, 1988, tr. 164.

[4] Phương Lựu và các tác giả, “Lí luận Văn học,” Hà Nội, Nxb. Giáo dục, 1997, tr. 134.

[5] I. M. Lotman, “Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch),” NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 127, 136.

[6] Nhiều tác giả, “Nhà văn bàn về nghề văn,” Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng, 1983, tr. 9, 273.

[7] Bảo Ninh, “Nỗi buồn chiến tranh,” Hà Nội: NXB Hội Nhà văn, 1991, tr. 27.

[8] Thụy Khuê, “Phê bình văn học thế kỉ XX – Gaston Bachelard, truy cập tại http://thuykhue.free.fr, 2008.

[9] Chu Lai, “Ăn mày dĩ vãng,” Hà Nội: NXB Hội Nhà văn, 1994, tr. 140.

[10] Nguyễn Khắc Trường, “Mảnh đất lắm người nhiều ma,”Hà Nội, NXB Hội Nhà văn, 1991, tr. 303.

[11] G. W. F. Hegel, “Mĩ học,” (tập 1)Hà Nội: NXB Văn học, 1998, tr. 97.

[12] Nhiều tác giả, “Từ điển văn học (Bộ mới),” Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2004, tr. 1888.

[13] Lê Bá Hán (Chủ biên), “Từ điển thuật ngữ văn học,” Hà Nội: NXB Giáo dục, 1992, tr. 216, 261.

[14] Nguyên Ngọc, “Vật lí và tiểu thuyết,” trong Lắng nghe cuộc sống: NXB Văn nghệ TP.HCM, 2006, tr. 37.

[15] N. A. Gulaiev, “Lí luận văn học (Lê Ngọc Tân dịch),” Hà Nội, NXB Đại học & THCN, 1982, tr. 246.

Trần Thị Mai Nhân đạt học vị Tiến sĩ Văn học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia TP.HCM) năm 2008, Thạc sĩ Ngữ văn (Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh), năm 1997, Cử nhân Ngữ văn (Đai học Sư phạm Huế) năm 1992. Bà là giảng viên tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM từ năm 2009, giảng viên thỉnh giảng tại khoa Việt Nam học, trường Đại học Chungwoon, Hàn Quốc từ năm 2016 đến năm 2008. Hướng nghiên cứu của bà là văn hóa, văn học Việt Nam, Việt Nam học và tiếng Việt cho người nước ngoài.

Nguồn: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ: 59
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, TẬP 1, SỐ 4, 2017

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)