Tín ngưỡng thiên hậu ở Đà Nẵng
THIEN HAU RELIGION IN DA NANG
Tác giả bài viết: Tiến sĩ NGUYỄN XUÂN HƯƠNG
(Bài đăng trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Đại học Duy Tân)
TÓM TẮT
Là thành viên trong đại gia đình 54 dân tộc Việt Nam, người Hoa trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Đó cũng là quá trình bảo lưu và phát huy vốn văn hóa Hoa trong bức tranh văn hóa đa sắc của nước ta.
Một biểu hiện của việc bảo lưu và phát huy giá trị văn hóa Hoa trong tổng thể nền văn hóa tộc người Việt Nam là sự hiện hữu lâu bền của tục thờ Thiên Hậu – một tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ Trung Quốc. Trên nền tảng chung là sùng bái Bà Mẹ tộc người, tục thờ Thiên Hậu của người Hoa ở Việt Nam có dấu ấn của tiếp xúc và giao lưu văn hóa, trên một không gian mà ở đó văn hóa Việt đóng vai trò là chủ thể.
Từ góc nhìn nhân học văn hóa, bài viết này giới thiệu tín ngưỡng Thiên Hậu ở Đà Nẵng, như đi tìm một nét văn hóa Hoa – Việt trong đời sống xã hội hiện đại. Thông qua những miêu thuật tại chỗ, bài viết bước đầu diễn giải sự thừa tiếp và hòa nhập của tín ngưỡng Thiên Hậu trong đời sống văn hóa cộng đồng Hoa – Việt.
ABSTRACT
Being one of family members of 54 ethnic groups in Vietnam, the Chinese Group experienced a process of formation and long-term development. It is also the process of reserved and intensified culture in the multicultural identity picture of our country.
One manifestation of this reserving and promoting cultural values in the overall ethnic culture of Vietnam is a long-lasting existence of continuous worship Thien Hau-a folk religion originated from China. On the basis of common ethnic Mother cult, the worship Thien Hau of in Vietnam with markers of cultural contact and exchange, over a space in which the Vietnamese culture roled as the subject .
From the perspective of cultural anthropology, this article introduces Thien Hau faith in Da Nang, as to find a Sino – Vietnamese cultural marker in modern social life.Through the accounts on the spot, the article initially interpreted and integrated to the Thien Hau belief in Sino – Vietnamese cultural community.
x
x x
1. Kính tín và thờ phụng
Trong tâm thức cộng đồng Hoa tộc Việt Nam, Thánh Mẫu Thiên Hậu được ngưỡng vọng, thờ phụng bởi niềm tin: Bà Thiên Hậu có công bảo trợ cuộc sống người Hoa trên bước đường di tản và định cư ở vùng đất mới.
Thần tích Thiên Hậu được sách vở ghi chép, lưu truyền và trôi chảy theo những con thuyền vượt biển của người Hoa rời xa cố quốc cách nay vài trăm năm, nên có khá nhiều và cũng khác nhau, như: Thiên Hậu là một nữ thần biển, trước khi hóa thần là thiếu nữ con gái thứ 6 của gia đình họ Lâm, tỉnh Phúc Kiến, tên là Lâm Tức Mặc. Từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành, Bà có những đặc tính khác người trần: khi chào đời có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ. Thủa nhỏ, Bà đã có nhiều phép thuật. Bà thường cưỡi chiếu bay trên biển. Sau khi hóa thánh, Bà hiển linh, thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển, được nhà Tống phong thần. Trải các triều Nguyên, Minh, đến nhà Thanh, Bà có danh thần Thiên Phi, sau đến đời Khang Hy được gia phong là Thiên Hậu [4, tr.318]; hay: Thiên Hậu là người Quảng Đông, từ nhỏ đã có nhiều phép thuật, càng lớn lên phép thuật của Bà càng cao. Cha và anh Bà thường đi thuyền đến Nam Hải buôn bán. Một lần, trong lúc ngủ gật khi dệt vải, Bà mộng thấy cha và anh bị chết vì bão biển. Bà nói điều đó cho mẹ biết. Sau, gia đình nhận tin đúng như vậy. Đến tuổi trưởng thành, Bà cưỡi gió bay đi hóa thành thần biển thường xuyên cứu giúp ngư dân, thương nhân đi lại trên biển; hay: Thiên Hậu là con gái nhà họ Ôn, người Phúc Kiến, học phép tiên lúc mới 8 tuổi, đến 12 tuổi luyện được đan, lại có tài gọi gió gọi mưa. Bà thường bay ra biển cứu giúp những người bị nạn. Do linh hiển nên được các triều Tống, Minh phong Thần, triều Thanh phong là Thiên Hậu Thánh Mẫu [6, tr.627-628].
Sự tích Bà Thiên Hậu còn nhiều, tuy nhiên phổ biến là những câu chuyện trên. Điểm thống nhất của các truyện này ở chỗ khẳng định nguồn gốc và quyền năng Thiên Hậu: Mẫu thần người Trung Quốc, có tài xuất chúng, hiển hóa thành thần biển, chuyên bảo trợ, cứu nạn cho người đi biển Trung Hoa. Điều này xác tín xuất xứ tục thờ Thiên Hậu của người Hoa ở nước ta.
Do hoàn cảnh lịch sử, một bộ phận người Hoa di cư sang Việt Nam bằng đường biển vào những thời điểm khác nhau, ồ ạt nhất vào thời nhà Thanh lên thay thế nhà Minh. Cho nên, việc người Hoa ở Việt Nam tôn thờ Bà Thiên Hậu cũng là điều dễ hiểu. Thoạt kỳ thủy, có lẽ người Hoa thờ Thiên Hậu với tư cách thần biển, nhưng chắc còn lý do nữa, đó là tín ngưỡng này là một phần tài sản văn hóa nơi cội nguồn, được lưu dân Hoa mang theo trong ký ức. Trên không gian văn hóa mới, nó được tái hiện để làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của cá nhân và cộng đồng. Hai yếu tố này đã tạo nên một nét văn hóa đặc trưng của Hoa tộc: Ở đâu có người Hoa tụ cư, ở đó thường có đền miếu thờ Thiên Hậu. Sự thờ phụng mang tính thống nhất xuất phát từ niềm tin Thiên Hậu là Mẫu thần của dân tộc Hoa.
Từ bao đời nay, người Hoa Đà Nẵng cũng thờ Thiên Hậu theo truyền thống văn hóa của tộc người. Đó là sự phụng thờ Mẫu – Mẹ bảo trợ, phù trì cho cuộc sống được bình an, phồn thịnh. Trong ngôn ngữ thường ngày, Thánh Mẫu Thiên Hậu được kính cẩn gọi là Bà Thiên Hậu; nơi thờ phụng gọi là chùa Bà.
Tên chữ của chùa Bà là Thiên Hậu Cung. Xét về quy mô và tính chất tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng này thực chất là miếu thờ. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ thường ngày, người Hoa (và cả người Việt) vẫn quen gọi là chùa. Chùa Bà còn có tên chùa Ngũ Bang với nghĩa chỉ đây là nơi sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng của người Hoa 5 bang: Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam và Hẹ.
Vốn trước đây thuộc Trung Hoa hội quán – một thiết chế văn hóa của người Hoa Đà Nẵng, chùa Bà/ Thiên Hậu cung được xây dựng vào những năm 60 của thế kỷ trước, hiện tọa lạc tại số 407 đường Phan Châu Trinh, quận Hải Châu. Không gian chùa chia làm hai phần tiền điện và chính điện. Nối giữa tiền điện và chính điện là một sân nhỏ, gọi là Thiên tĩnh; giữa sân có hồ nước nhân tạo nhỏ trang trí hòn non bộ, cá hóa long, tạo cho mặt trước chùa yếu tố “minh đường tụ thủy”; phía trước hồ, đặt tượng Bà Thiên Hậu. Bao hai bên chùa là dãy nhà Đông và nhà Tây – nơi tụ họp cộng đồng, đồng thời là trung tâm truyền dạy tiếng Hoa cho con em người Hoa trong thành phố. Tổng thể các cơ sở chùa Bà có dạng cấu trúc hình chữ khẩu, một kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa.
Tiền điện có bàn thờ Hội đồng đặt giữa hai cánh cửa vẽ chân dung hai vị Môn thần. Bên phải bàn Hội đồng là khám thờ Phúc Đức Chính thần (người Việt gọi là quan Hoàng Phúc) và bàn thờ Cậu lớn ngoại cảnh (theo cách gọi của người Việt), tức Mã Đầu tướng quân, mà theo quan niệm tín ngưỡng Hoa thì đây là người chăn giữ ngựa cho Quan Công (Quan Thánh Đế Quân).
Phần chính điện trang trí tương tự như nhiều đền miếu thờ Thiên Hậu ở những nơi khác của nước ta. Cửa chính điện đặt cặp nghê đá, hai cánh cửa màu đỏ với nhiều đèn lồng đỏ treo trên cao. Chính điện chia làm ba gian: gian giữa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, tả gian thờ Quan Công, hữu gian thờ Thần Tài. Các gian thờ đều có tượng đặt trong khám cùng bàn hương án và hai hàng lỗ bộ.
Đóng vai trò là thần chủ, Thiên Hậu Thánh Mẫu ngự ở vị trí trung tâm chính điện. Trước khám thờ Bà, đặt hai chiếc lọng màu đỏ. Bàn hương án, ngoài lỗ bộ còn có chuông, mõ và đồ tam sự. Bên phải hương án đặt chiếc thuyền gỗ nhỏ, gọi là thuyền Thuận Phong – biểu tượng phương tiện đường biển của người Hoa di cư và cũng tượng trưng cho công lao của thần biển Thiên Hậu đã phò trì người Hoa thiên di sang Việt Nam. Phía trước thuyền và hương án đặt tượng thờ hai vị nam thần có công phò tá, hỗ trợ Bà Thiên Hậu trên biển: thần Thiên ý Nhãn (thần nhìn xa vạn dặm) và thần Thuận Phong Nhĩ (thần nghe xa ngàn dặm).
Hai bên tường gian chính điện vẽ những bức tranh bằng bột màu, như: tranh Thánh Mẫu giáng trần, tranh Hội kết nghĩa vườn đào (miêu tả cảnh kết nghĩa huynh đệ của Trương Phi, Quan Vũ và Lưu Bị trong Tam Quốc Chí).
Chùa Bà/ Thiên Hậu cung là nơi “thông linh” giữa người với Mẫu thần nhằm đạt ước nguyện được phù trì trong cuộc sống. Người Hoa thường cầu Thánh Mẫu Thiên Hậu ban cho sức khỏe, tài lộc, gia đình yên ổn. Khi đạt sở nguyện, họ sắm lễ đến tạ Bà. Lễ vật cúng tạ cốt ở lòng thành và điều kiện mỗi người. Có người tạ xiêm áo, có người tạ con heo quay, có người tạ một giỏ trái cây…, lại có người tạ tiền. Tại chùa Bà Thiên Hậu, lễ cúng tạ diễn ra quanh năm là vì thế.
Chùa Bà/Thiên Hậu Cung còn là nơi khấn lễ cầu an, cầu lộc của rất nhiều người Việt Đà Nẵng, đông nhất là nữ giới. Người Việt gọi Bà Thiên Hậu là Mẹ, trong khấn lễ cũng kính cẩn hô là Thánh Mẫu. Để thông linh với Thánh Mẫu, người Việt cũng thể theo cách thức của người Hoa. Ví như, khi có nhu cầu được hộ trì, họ cũng dâng Bà một vòng hương (hình nón chóp, cao khoảng 1m) và gắn trong đó lời thỉnh cầu xin Bà chứng độ. Vòng hương này khoảng ba tháng sau mới tắt. Nếu đạt nguyện vọng, họ đến cúng tạ Bà, còn chưa thì lại dâng hương cầu tiếp. Chùa Bà hiện có rất nhiều dãy hương vòng của người Việt lẫn người Hoa, dâng thắp từ cửa gian tiền điện đến gian chánh điện.
Khảo cứu những lời khấn cầu của người dân Hoa, Việt thể hiện trong các vòng hương sẽ thấy muôn mặt đời thường của con người trong xã hội hiện đại cùng những ước vọng nhân sinh cụ thể, bình dị. Người thì: “…xin mẹ Thánh Mẫu và Ban hội đồng chư vị cho gia đình con bình an, sức khỏe, cho công ty TNHH…làm ăn phát đạt, vạn sự như ý”; người lại: “… cầu xin Mẫu ban phúc, che chở cho con được đầu xuôi đuôi lọt thuận buồm xuôi gió cửa quan pháp lý”; có người cầu nơi ở được yên, người trong nhà hết bệnh tật; người có xe chở khách thì “ cầu cho xe chạy thượng lộ bình an”; người chưa có con trai “cầu xin mẹ cho con có đứa con trai để nối dõi tông đường”; người muốn đạt chuẩn ngoại ngữ để đi du học “…cầu xin mẹ cho con ước nguyện đạt được điểm Anh văn như ước nguyện để con có thể sang Úc du học…”; kẻ học trò cầu: “… cho con học hành chăm chỉ, xin cho đi đầu trên bước đường công danh…”; người sắp khai trương cửa hàng cầu: “… xin mẹ Thánh Mẫu cho con khai trương của hàng áo cưới, làm ăn phát tài phát lộc, mọi công việc đều hanh thông”… (1)
Cũng tại chùa Bà/ Thiên Hậu cung Đà Nẵng đang diễn ra hiện tượng liên quan đến một
bộ phận khá đông nữ giới người Việt, đó là sự suy tôn và đồng nhất Thiên Hậu Thánh Mẫu với Thánh Thiên Yana – vị Mẫu thần Việt gốc Chăm. Bộ phận này, theo cách gọi của người địa phương, thuộc hàng “cửa thánh”, tức những người theo Đạo Mẫu Việt. Với họ, tượng Mẹ Thiên Hậu trong chùa cũng là Mẹ Thiên Yana – Thánh Mẫu của người Việt miền Trung phương Nam, có trú sở ở Nha Trang và điện thờ ở Hòn Chén (Huế). Những người theo cửa thánh này thường đến chùa Bà dâng lễ cầu an cho con nhang đệ tử. Họ gọi Thiên Hậu Thánh Mẫu là Thiên Y Thánh Mẫu Đại Từ Tôn; ngày vía Thiên Hậu là ngày vía Thiên Yana (có lẽ do ngày vía Thiên Hậu trùng ngày vía Thiên Yana chăng?). Quan niệm này được xác tín bằng sự xuất hiện kinh Địa Mẫu – bộ kinh của Đạo Tiên Thiên Thánh giáo/Đạo thờ Thiên Yana trên bàn thờ Bà Thiên Hậu.
Sinh hoạt tín ngưỡng quan trọng nhất của chùa Bà/ Thiên Hậu cung là lễ vía Bà, một lễ trọng được tổ chức thường niên vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng niệm, tri ân công đức của Bà. Lễ diễn ra trong 3 ngày, trong đó ngày 23 là ngày chính vía.
Chiều ngày 21 có lễ mộc dục, xông áo và thay áo cho Bà. Nước tắm nấu từ lá bưởi; áo mũ Bà được xông bằng trầm. Xiêm áo của Bà có ba màu: vàng, hồng, đỏ, được luân phiên
thay theo từng năm. Những xiêm áo này, có bộ do người Hoa dâng thỉnh, có bộ của người
Việt cung tiến.
Sáng ngày 22, chùa Bà làm lễ tiên thường. Ngày 22 cũng là ngày tiếp nhận, sắp bày các vật phẩm cho ngày chính lễ vía Bà. Phần lớn, vật phẩm dâng cúng do dân chúng cung thỉnh bao gồm: cây mỳ vàng trường thọ (mì sợi, gắn vào khung tre cao khoảng 1m, hình tháp, phần đầu thắt vải điều), heo quay, vịt quay, bánh trái, hoa quả và đồ mã.
Theo sự phân công của Ban trị sự, lễ vật cúng trên ban thờ Bà để người Hoa sắp bày, các ban thờ khác do người Việt đảm nhận. Vậy là, ở những ban thờ Thần Tài, Quan Công, Quan Hoàng Phúc, Cậu lớn ngoại cảnh, bàn Hội đồng, các thức cúng được sắp bày theo truyền thống tín ngưỡng Việt phương Nam. Chẳng hạn, trên bàn thờ Hội đồng, tức bàn thờ các quan, thần hoàng bổn xứ, cô bác, ngoài vàng hương, hoa quả, bánh trái còn thêm mâm vàng mã cúng cô hồn/ cô bác – tiền chủ đất đai, được chưng bày theo quan niệm Việt.
Lễ vật vía Bà, bên cạnh các vật phẩm cúng theo tục truyền, còn có nhiều đèn lồng và các thức khác, như: quạt, ấm chén, tiền, do nhiều người Hoa cung tiến, để trước là cúng tri ân công đức của Bà, sau tham gia vào hoạt động phước thiện, thông qua cuộc đấu giá đèn lồngmột sinh hoạt văn hóa trong lễ vía bà.
Ngày 23 là ngày chính lễ. Lễ tiến hành ngắn gọn vào buổi sáng. Trong không gian linh thiêng, toàn thể cộng đồng Hoa tộc Đà Nẵng hướng về nguồn cội, tri ân công đức Thánh Mẫu, cầu xin Mẫu hộ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, gia đình hạnh phúc, tài lộc hanh thông.
Tham dự lễ vía Bà, ngoài người Hoa, còn có rất đông người Việt, nhiều nhất là phụ nữ. Họ đến để xin xăm, cầu tài, cầu lộc và cũng để tham gia vào sinh hoạt lễ Mẫu. Buổi chiều
và tối cùng ngày là những sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa, như: tổ chức tiệc đãi đằng gặp gỡ giữa các cộng đồng người Hoa, giữa người Hoa và người Việt; tổ chức đấu thầu đèn lồng và các vật dụng khác do người dân cúng tiến để lấy quỹ làm từ thiện; tổ chức bốc thăm trúng thưởng; tổ chức sinh hoạt văn nghệ, như: thi hát những bài hát truyền thống Hoa, thi múa lân… Những sinh hoạt văn hóa này thu hút đông đảo công chúng cả người Hoa lẫn người Việt tham gia, tạo không khí náo nhiệt, thoải mái, lành mạnh, cởi mở và đoàn kết trong không gian thiêng thờ Mẫu.
2. Khía cạnh nhân sinh trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu
Truyền thống thờ phụng Bà Mẹ dân tộc/Thiên Hậu Thánh Mẫu góp phần tạo chất keo kết dính giúp người Hoa Đà Nẵng gắn bó, tạo lập và củng cố cộng đồng thêm bền vững. Tại Thiên Hậu cung, vào ngày vía Thánh Mẫu hàng năm, người Hoa các bang hội quy tụ về ngôi nhà chung để cùng tri ân, tưởng nhớ công lao vị nữ thần biển/Mẫu thần của dân tộc. Hình ảnh thuyền Thuận Phong cùng hai pho tượng: Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ trong cung Thiên Hậu, là biểu tượng nhắc nhở mọi người về nguồn cội, về lịch sử thiên di, về truyền thống văn hóa của tổ tiên. Sự hiển diện của Thiên Hậu cùng các nghi lễ, phong tục còn mang ý nghĩa cộng sinh, cộng mệnh, là nhân tố tạo nên môi trường duy trì và phát triển sinh hoạt văn hóa- tín ngưỡng, qua đó góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tinh thần đoàn kết trong cộng đồng Hoa tộc Đà Nẵng. Lễ vía Bà và những sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng, một mặt thỏa mãn nhu cầu tâm linh, mặt nữa, những sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng ấy cũng góp phần duy trì môi trường trao truyền, sáng tạo để người Hoa phát triển và hội nhập văn hóa của mình.
Trong tiến trình phát triển, người Hoa nói chung và người Hoa Đà Nẵng nói riêng đã góp phần tạo nên những sắc màu cho bức tranh văn hóa thống nhất mà đa dạng của nước ta. Nhiều tín ngưỡng truyền thống Hoa, trong đó có tín ngưỡng Thiên Hậu, đã trở thành biểu tượng văn hóa tộc người trong hệ biểu tượng văn hóa Việt Nam, trong nền cảnh văn hóa Việt Nam. Kính tín Bà Mẹ dân tộc, đó không chỉ thể hiện nhận thức và hành vi bảo vệ truyền thống văn hóa Hoa mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Người Hoa tìm thấy ở Bà Thiên Hậu quan niệm về đời người, về cuộc sống con người với những ước vọng bình dị trong cõi nhân gian. Thông qua việc phụng thờ Thánh Mẫu, người Hoa hướng về cội nguồn, tri ân tổ tiên, nêu cao tinh thần coi trọng vai trò người phụ nữ trong gia đình; đồng thời muốn ký thác vào Bà những ước vọng thiêng liêng của cuộc sống.
Tìm hiểu tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa Đà Nẵng, với tư cách nghiên cứu trường hợp, sẽ thấy hiển lộ tâm lý văn hóa cộng đồng Hoa tộc. Họ vừa cố kết, bảo lưu bền
chặt, vừa hướng tới sự hòa nhập vào văn hóa Việt. Hiện chùa Bà/ Thiên Hậu cung Đà Nẵng có thủ tự là một phụ nữ Việt, và một số danh thần Hoa được Việt hóa theo cách gọi của Đạo Mẫu Việt, như: Phước Đức Chính Thần (Hoa) -> Quan Hoàng Phúc (Việt); Mã Đầu Tướng Quân (Hoa) -> Cậu lớn ngoại cảnh (Việt), Thần Tài (Hoa) -> Quan Hoàng Mười (Việt). Điều đó nói lên xu hướng tự nguyện biến đổi, ý thức giao lưu hoà nhập vào văn hóa Việt của người Hoa hiện nay.
Và, chùa Bà/ Thiên Hậu Cung Đà Nẵng cũng là nơi đang diễn ra sự tương tác, dung chấp, cộng mệnh sinh động văn hóa giữa người Việt và người Hoa. Cơ sở của hiện tượng này là sự tương đồng tâm thức trong thụ hưởng hằng số giá trị truyền thống phổ quát mà, có thể nói, văn hóa dân tộc nào của nước ta cũng có. Đó là nguyên lý Mẹ, là yếu tính nữ trong truyền thống văn hóa dân tộc và tộc người. Với tư duy dân gian truyền thống, người Việt nhìn vũ trụ theo quan niệm “Tam vị nhất thể”: Trời, đất từ một khối thống nhất phân chia thành ba tầng, mỗi tầng có một Mẫu bảo trợ, tầng trên cùng là Mẫu Thượng Thiên – Mẹ cai quản vùng trời bao trùm toàn cõi nhân gian. Theo đó, trường hợp danh xưng Thánh Mẫu Thiên Hậu chuyển sang thành Thánh Mẫu Thiên Yana, rất có thể xuất phát từ căn cỗi tâm thức kết hợp với hình thức biểu hiện – yếu tố ngữ âm.
Đồng nhất đối tượng tín ngưỡng để từ đó tham gia gìn giữ, dung chấp, người Việt cũng gửi gắm vào Mẹ Thiên Hậu/ Thiên Y Thánh Mẫu những ước vọng thiêng liêng, bình dị, rất thực tế của cuộc sống đương đại. Việc chuyển đổi biểu tượng một cách tự nhiên, một mặt thể hiện hoạt động “sáng tạo truyền thống”, mặt khác là biểu hiện giữ gìn truyền thống trong tinh thần khoan dung, thích ứng của Đạo Mẫu Việt Nam. Hàm chứa trong việc tiếp nhận và tham dự, tham gia thờ Mẫu Thiên Hậu của người Việt là những giá trị tinh thần truyền thống được bảo lưu, hòa kết và phát triển. Nói khác đi, người Việt kính tín Thiên Hậu trên cơ sở tiếp thu và sáng tạo, để chuyển hóa tự nhiên một nữ thần khác Việt sang một Mẫu thần chung của cộng đồng Hoa-Việt.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Đà Nẵng (có thể nhìn rộng ra là xứ Quảng?) như vậy cũng là một biểu hiện của quan hệ giao lưu văn hóa tự nhiên Việt-Hoa, trên một vùng lãnh thổ do người Việt làm chủ thể. Hiện nay, không chỉ đi chùa, lễ Mẫu, mà tại nhiều điện tư gia thờ Mẫu ở Đà Nẵng, ngày vía Thiên Hậu cũng là một ngày lễ trọng của cộng đồng người Việt theo “cửa thánh”. Chính khát vọng thường trực trong tư tưởng người dân về cuộc sống an lành, hưng thịnh dưới sự chở che của các Bà Mẹ, đã đưa đến việc tiếp nhận Thánh Mẫu Thiên Hậu trong điện Mẫu của người Việt. Khát vọng thiêng liêng đó nói lên tư duy cởi mở, sáng tạo, hòa đồng, xuất phát từ môi trường môi sinh địa- chính trị, địa-lịch sử, địa-văn hóa của vùng đất Quảng. Từ Mẹ Xứ Sở của người Chăm, người Việt đã đón nhận và tôn vinh thành Thiên Yana Diễn Ngọc Phi/ Bà Chúa Ngọc. Bà trở thành Thánh Mẫu của người Việt miền Trung, có quyền năng tổng hợp của cả ba tầng: Thiên- Địa- Nhân. Tại Đà Nẵng, Thánh Mẫu Thiên Yana lại được đồng nhất, chuyển hóa sang Thánh Mẫu Thiên Hậu, và Thánh Mẫu Thiên Hậu cũng được xem như Mẹ Thiên Yana. Điều đó cho thấy: trong đời sống tâm linh người dân, nhất là tầng lớp phụ nữ, nhu cầu được bảo vệ, được chở che để tránh rủi ro về người và của, để có cuộc sống bình an, no đủ, hạnh phúc ở một vùng đất vốn phải đối đầu và đi đầu trong nhiều cuộc chiến tranh xâm lược trực tiếp, luôn thường trực trong tư tưởng.
Sáng tạo truyền thống từ một biểu tượng tương đồng rồi chuyển hóa biểu tượng thông qua tiếp nhận và tham dự vào thờ Mẫu có cội nguồn khác Việt, điều đó còn thể hiện tư tưởng nhân văn truyền thống Việt. Tiếp nhận và kính tín Thiên Hậu Thánh Mẫu chính là tôn vinh một người phụ nữ có lòng hiếu thảo, đức hy sinh vì gia đình và cộng đồng một cách vô tư. Nét nhân cách này nằm trong tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam.
Như thế, tín ngưỡng Thiên Hậu đã mang ý nghĩa xã hội và nhân sinh sâu sắc. Từ là tín ngưỡng của một bộ phận cư dân người Hoa, Thánh Mẫu Thiên Hậu trở thành tín ngưỡng chung của người Hoa và người Việt trên địa bàn thành phố, đáp ứng được nhu cầu tâm linh vốn có của dân chúng trong đời sống đương đại.
3. Kết luận và thảo luận
Bài viết nhìn nhận vấn đề tín ngưỡng Thiên Hậu ở Đà Nẵng trong tư cách nghiên cứu trường hợp. Việc bước đầu giải mã các biểu tượng, hành động, nghi lễ, tín ngưỡng từ giác độ nhân học nhằm lý giải: vì sao hiện tượng văn hóa tín ngưỡng này vừa bền vững song cũng phát triển, lan tỏa, tương tác và có sức sống.
Phác họa những nét cơ bản của tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Đà Nẵng, bài viết muốn đi tìm ý nghĩa văn hóa chung, mang tính phổ quát trong tâm thức cộng đồng các dân tộc Việt
Nam.Ý nghĩa đó phải chăng là tinh thần tôn trọng và đề cao vai trò của người Mẹ trong gia đình và xã hội, là tinh thần bao dung của Đạo Mẫu Việt Nam?
Chú thích:
(1). Tài liệu khảo sát của tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan An (2002), ”Tục thờ cúng Bà Thiên Hậu của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu tôn giáo (3), tr.54-57.
[2]. Phạm Đức Dương, Châu Thị Hải (chủ biên) (1998), Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử, Nxb Thế giới, Hà Nội.
[3]. Trần Hồng Liên (2005), Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ-Tín ngưỡng & tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
[5]. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[6]. Viện Hán Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Công nghệ Đại học Duy Tân
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Tín ngưỡng thiên hậu ở Đà Nẵng (Tác giả: TS. Nguyễn Xuân Hương) |