Tính TRỌNG NGHĨA – Một giá trị đặc trưng của VĂN HOÁ NGƯỜI VIỆT TÂY NAM BỘ (qua Ca Dao, Dân Ca)

NGUYỄN THỊ THUÝ VY
(ThS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP Hồ Chí Minh)

1. Tính trọng nghĩa – một giá trị phổ quát

     1.1. “Nghĩa phản ánh mối quan hệ xã hội, thể hiện sự quan tâm giúp đỡ người khác mà không vụ lợi” và trọng nghĩa là “đề cao tinh thần trách nhiệm và hành vi đạo đức bảo vệ trật tự xã hội, phù hợp đạo lí, nhằm duy trì cuộc sống yên bình cho toàn xã hội, đó là cách ứng xử mà con người sống ở đời nên làm, bất kể có đem lại cho cá nhân mình lợi ích gì hay không” [Trần Ngọc Thêm (chủ biên), 2014: 672 – 673].

     Với tư cách là một trong những giá trị đạo đức nền tảng đề cao tinh thần trách nhiệm và hành vi bảo vệ trật tự xã hội, trọng nghĩa là một giá trị phổ quát mà hầu như dân tộc nào cũng có, nhưng do có sự khác biệt nhau về không gian văn hoá, thời gian văn hoá mà tính trọng nghĩa trên thang bậc giá trị ở mỗi dân tộc, mỗi thời kì, mỗi vùng đất đều có sự điều chỉnh đôi chút cho phù hợp. Trong phạm vi văn hoá Việt Nam, càng đi về phương nam tính trọng nghĩa lại được quan niệm khác đi một chút và đến vùng đất Tây Nam Bộ, trọng nghĩa đã trở thành một trong những giá trị quan trọng nhất, trở thành giá trị đặc trưng trong tính cách của con người nơi đây như nhận xét của Trịnh Hoài Đức: “người đủ tính trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế” [Trịnh Hoài Đức, 2005: 180].

     Ngoài các khái niệm nghĩa, trọng nghĩa, đạo nghĩa, ở Tây Nam Bộ còn có khái niệm điệu nghệ: “Điệu nghệ là đạo nghĩa nói trạnh đi (…). Người biết điệu nghệ biết đón nhận tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, quá khứ tốt hoặc xấu. Biết điệu nghệ thì mọi tranh chấp đều giải quyết trong vòng anh em với nhau, không cần sự can thiệp của nhà cầm quyền” [Phan Quang, 1981: 224].

     1.2. Có thể xem tính trọng tình và tính cộng đồng là nguồn gốc đầu tiên hình thành nên tính trọng nghĩa của người Việt Tây Nam Bộ bởi lẽ “Tính trọng tình hình thành trong môi trường làng xã khép kín của Bắc Bộ với những người sống ổn định, quen biết nhau rất rõ, có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Trong khi đó thì Nam Bộ là đất của dân tứ xứ, con người không quen biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, do vậy cơ sở của quan hệ giữa họ ở đây không phải tình mà là nghĩa” [Trần Ngọc Thêm, 2008]. Từ trọng tình đến trọng nghĩa là một bước phát triển mới phù hợp điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng đất Tây Nam Bộ: Người nông dân di cư vào Tây Nam Bộ là những người liều mình đi tìm đất sống, để có thể trụ lại vùng đất mới lạ lẫm, đầy thử thách này, họ phải tụ họp lại nương tựa, đùm bọc lẫn nhau. Tuy đến từ nhiều vùng đất khác nhau nhưng ở họ có cùng điểm chung đó là sự liều lĩnh, mạnh mẽ, giàu nghị lực, đầy nghĩa khí và đây chính là cơ sở cho sự hình thành tính trọng nghĩa. Cuộc sống cộng cư giữa các tộc người có nguồn gốc, đặc điểm lịch sử, văn hoá khác nhau cũng đã tạo nên một thái độ ứng xử rất riêng nơi người Tây Nam Bộ: tính chất “tứ xứ” đã làm cho các tộc người, lớp người đến đây có một tinh thần phóng khoáng, cởi mở nên dễ dung hoà, dễ tiếp nhận những yếu tố văn hoá khác.

     Không gian văn hoá của Tây Nam Bộ cũng góp phần hình thành nên tính trọng nghĩa. Ngoài ra, về điều kiện tự nhiên, Tây Nam Bộ là vùng đất lành hiếm khi có bão, thêm vào đó thảm động – thực vật ở đây lại vô cùng phong phú, đa dạng, khí hậu dễ chịu, đời sống dễ dàng nên con người sống với nhau chân thành, cởi mở và giản dị, không quá coi trọng tiền tài, của cải vật chất. Tuy nhiên, để có thể nhận được sự giàu có mà thiên nhiên ban tặng cho mình thì con người nơi đây cũng phải nỗ lực rất nhiều bởi lẽ Tây Nam Bộ vốn là vùng đất chưa từng được khai phá trong nhiều thế kỉ nên trong buổi đầu khai hoang mở đất, trong điều kiện đất rộng người thưa, vùng đất mới khai phá còn hoang sơ với đầy rẫy những hiểm nguy bất trắc đang rình rập đòi hỏi con người phải đoàn kết, sống nương tựa vào nhau, hết lòng vì việc nghĩa.

     Do hoàn cảnh sống tương đối đặc biệt của mình, đa phần người dân Tây Nam Bộ sống theo lối phóng khoáng, an nhiên, tự tại. Họ có đi học nhưng không chú trọng lắm đến việc khoa cử. Quyển sách “gối đầu giường” của tầng lớp trí thức Tây Nam Bộ là sách Minh Tâm bửu giám – là tập hợp những trích đoạn của các sách Nho, Lão, Phật, gồm những câu nói đạo đức, triết lí nhân sinh, nhằm rèn luyện tâm hồn, bồi dưỡng đức hạnh, hướng dẫn việc ứng xử hằng ngày. Do đó, vấn đề đạo đức, lễ nghĩa ở Tây Nam Bộ rất được xem trọng.

2. Các biểu hiện của tính trọng nghĩa

     2.1. Tính trọng nghĩa của người Việt Tây Nam Bộ được thể hiện trước hết trong công cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù trong thiên nhiên.

     Tây Nam Bộ trước khi có sự khai phá của dân di cư người Việt chỉ là một vùng rừng rậm hoang vu đầy thú dữ. Các thế hệ dân di cư nối tiếp nhau tìm đến đây khai khẩn rừng hoang để trồng trọt và sinh sống. Để có thể trụ lại vùng đất này, người dân phải liên tục chống chọi với các loài thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết và sơn lam chướng khí, bệnh tật. Thiên nhiên Tây Nam Bộ khắc nghiệt buổi ấy đã được lưu lại qua những ca dao: “Tới đây xứ sở lạ lùng/ Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê”; “Cà Mau khỉ khọt trên bưng/ Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um…”; “Chiều chiều ông Lữ đi câu/ Sấu bắt ông Lữ biết đâu mà tìm”,…

     Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã làm cho con người sợ hãi có khi phải chùn bước: “Cà Mau lúc trước thấy mà ghê!/ Ai muốn làm ăn đến phải về/ Dưới nước đỉa lềnh, sấu lểnh nghểnh/ Trên bờ cọp rống, muỗi vo ve…”

     Sấu và Cọp là mối đe doạ thường trực tính mạng của con người sống nơi đây. Cho đến hiện nay một số địa danh liên quan đến Cọp vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương Tây Nam Bộ đặc biệt là ở Bến Tre như địa danh Đìa Cứt Cọp 1 ở Giồng Trôm, địa danh Sân Ngự 2 ở Bình Đại, địa danh Mỏ Cày 3, cù lao Ông Hổ ở Long Xuyên, đồi Ngũ Hổ ở Hà Tiên,… Chính cái bí ẩn của thiên nhiên còn hoang sơ buổi ban đầu với đầy rẫy những hiểm nguy, bất trắc là sợi dây liên kết những con người xa lạ lại với nhau. Sống trong hoàn cảnh mà mọi tai ương bất trắc đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nếu không trọng nghĩa, không hào hiệp, không nhân ái thương người sa cơ lỡ bước thì không dễ sống còn. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, sống vì nhau, lo cho nhau, dám xả thân cứu bạn bè, dám hi sinh vì nghĩa lớn là đặc trưng nổi bật của những người đi khai hoang mở đất: “Rồng chầu ngoài Huế/ Ngựa tế Đồng Nai/ Nước sông trong chảy lộn sông ngoài/ Thương người xa xứ lạc loài đến đây…”.

     Người Tây Nam Bộ rất thích kết bạn. Để kết chặt mối thâm giao họ thường uống máu ăn thề kết nghĩa huynh đệ và một khi đã kết nghĩa với nhau rồi thì họ sống chết có nhau, thương yêu nhau một cách lạ lùng: “Thùng thùng cắc cắc/ Chim đậu không bắt/ Để bắt chim bay/ Dấn mình vô chốn chông gai/ Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân…”; “Lao xao sóng bủa dưới lùm/ Thò tay vớt bạn chết chùm cũng ưng…”

     Họ vô cùng căm ghét những kẻ phản bội bạn bè: “Đứa nào được Tấn quên Tần/ Xuống sông sấu ních, lên rừng cọp tha…”,…

     Thậm chí tình nghĩa của người Nam Bộ còn được thăng hoa thành “đạo”: “Theo nhau cho trọn đạo Trời/ Dẫu mà không chiếu trải tơi mà nằm”; “Lầu nào cao cho bằng lầu ông Chánh/ Bánh nào trắng cho bằng bánh bò bông/ Đạo nào thương bằng đạo vợ chồng/ Dầu lâm cơn bệnh hoạn cũng bế bồng nuôi nhau”….

     2.2. Trong ứng xử thường ngày giữa con người với nhau, tính trọng nghĩa của người Tây Nam Bộ thể hiện rõ nét nhất ở chỗ họ không tham tiền tài, chức tước, bổng lộc mà Trịnh Hoài Đức gọi là tính “Trọng nghĩa khinh tài”: “Đừng ham hốt bạc ghe chài/ Cột buồm cao bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi…”

     Phải đối mặt với bao hiểm nguy nơi vùng đất mới, người Việt Tây Nam Bộ xưa không phải là người sống nội tâm, hay suy tư mà họ là những con người ưa hành động, trong ứng xử họ luôn bộc trực, thẳng thắn. Đối với họ, người sống có “đạo nghĩa” là người ăn ở có trước có sau, dám hi sinh tính mạng mình để giúp đỡ người khác, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn bởi “tiền tài như phấn thổ/ nghĩa trọng tợ thiên kim”… Tính trọng nghĩa khinh tài đã trở thành một tính cách đặc trưng của người Tây Nam Bộ. Khinh tài không phải coi thường tiền bạc, mà là tiền bạc được đặt sau cái nghĩa cái tình, người dân Tây Nam Bộ khẳng khái: “Tiền tài như phấn thổ/ Nghĩa trọng tợ thiên kim/ Con le le mấy thuở chết chìm/ Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi…”; “Hai đứa mình như thể cây cau/ Anh bẹ, em bẹ nương nhau ở đời/ Anh đừng thấy khó đổi dời/ Tiền tài phấn thổ, nhân nghĩa thời thiên kim”…

    Người Tây Nam Bộ không chỉ hành động theo nghĩa mà còn vì nghĩa. Do Tây Nam Bộ là vùng đất mới hình thành, thiết chế xã hội lỏng lẻo, thành phần cư dân đa dạng nên yêu cầu tạo dựng một nền tảng đạo đức là rất cần thiết. Người dân Tây Nam Bộ thường lấy “đạo nghĩa” làm phương châm sống và hành động, họ không khuất phục trước cường quyền, dám đứng lên dẹp bất công, bênh vực người yếu đuối, thế cô, sẵn sàng bao bọc kẻ thất cơ lỡ vận. Chính đặc tính vì nghĩa xả thân không hối tiếc nên người Việt ở Tây Nam Bộ thường thờ Quan Công. Đối với người Việt Tây Nam Bộ, Quan Công đại diện cho một mẫu người lí tưởng mang đầy đủ các phẩm chất: công minh, chính trực, nghĩa khí, bao dung, quả cảm,… là những phẩm chất đạo đức vô cùng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng dân cư còn non trẻ này. Như vậy, nghĩa của người Tây Nam Bộ còn gắn liền với nhân dũng. Việc kết hợp bộ ba Nhân – Nghĩa – Dũng đã làm bật lên nét đẹp đạo đức của những người dân lao động bình thường Tây Nam Bộ, cùng với nghĩa, nhân dũng là những giá trị bổ sung, làm hoàn thiện hơn nội dung của nghĩa.

     Khi thực dân Pháp xâm lược, tinh thần trọng nghĩa của người Tây Nam Bộ đã biến thành tinh thần đại nghĩa. Trước đây, nghĩa chỉ bó hẹp trong các mối quan hệ gia đình, bạn bè, hay trong ứng xử giữa người và người nói chung thì bây giờ nghĩa đặt trong mối quan hệ với đất nước, với dân tộc: “Làm trai đứng ở trên đời/ Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta/ Ghé vai gánh đỡ sơn hà/ Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu…”. Ngay cả người phụ nữ Tây Nam Bộ cũng không thua kém: “Anh đi đánh giặc Lang Sa/ Để thiếp ở nhà, lo tần lo tảo/ Chén cơm manh áo, nhà cửa ruộng vườn/ Để anh lên ngựa đề thương/ Thiếp về mặc thiếp liệu lường nuôi con…

     Yêu nước vốn là đặc điểm nổi bật của dân tộc ta. Đối với người dân Tây Nam Bộ đặc điểm này lại càng bộc lộ quyết liệt hơn. Bất chấp chủ trương nghị hoà của triều đình, người nông dân Tây Nam Bộ vẫn vùng dậy cầm giáo mác tổ chức cuộc chiến đấu: “Giặc Sài Gòn đánh xuống/ Binh ngoài Huế không vô/ Anh biểu em đừng đợi đừng chờ/ Để anh đi lấy đầu thằng mọi mà tế cờ nghĩa quân… ”. Ý chí chống ngoại xâm cho đến cùng của người dân Tây Nam Bộ đã được dân gian hoá thành câu ca dao bất hủ: “Bao giờ hết cỏ Tháp Mười/ Thì dân ta mới hết người đánh Tây”.

3. Những hệ quả của tính trọng nghĩa

     3.1. Tính trọng nghĩa dẫn đến tính hào hiệp. Đó là cách sống rộng rãi, đối đãi với nhau bằng tấm lòng vị tha, bao dung, không quan tâm chuyện được mất, hơn thua. Sự hào hiệp gắn liền với lòng hiếu khách. Tính hiếu khách ở người Tây Nam Bộ được biểu hiện một cách rất đặc biệt: họ hiếu khách một cách tự nhiên, bình dị, hiếu khách như một bản chất, một nhu cầu của mình. Họ tiếp khách rất thân tình, coi khách như người nhà, không hề có chút khách sáo, toan tính: “Bắt con cá lóc nướng trui, / Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa…”. Trong “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức đã đề cập đến tính hiếu khách của người Tây Nam Bộ: “có khách đến nhà, đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân, sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều khoan nạp, khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem theo lương thực nhưng lại khiến có nhiều người trốn tránh pháp luật hay đến xứ này, bởi đã có chỗ ăn ở vậy.” [Trịnh Hoài Đức, 2005: 184].

    3.2. Một hệ quả khác của tính trọng nghĩa là tính thẳng thắn, bộc trực. Người Tây Nam Bộ nghĩ sao nói vậy, họ ưa “Nói thẳng ruột ngựa”, “Ruột để ngoài da”, không thích che đậy giấu giếm, quanh co, úp mở: “Hồi buổi ban đầu/ Em biểu anh têm ba miếng trầu cùng li rượu lạt/ Anh lắc đầu sợ tốn/ Giờ em đã có chồng, sao anh biểu trốn theo anh!”

    Do đời sống khai hoang vất vả, nguy hiểm, người Tây Nam Bộ chọn lựa lối sống ưa hành động, bộc trực, thẳng thắn. Thái độ sống của họ rất dứt khoát, tròn ra tròn, vuông ra vuông. Lâu dần tính bộc trực và không ăn nói vòng vo trở thành nét tính cách riêng của vùng này. Ngay cả trong biểu lộ tình cảm – là nơi cần phải có những lời nói bóng bẩy, ẩn ý – thì trai gái vùng này đa phần lại cũng thể hiện tình cảm của mình một cách hết sức sôi nổi, mãnh liệt, rõ ràng, dứt khoát: “Anh thương em thì thương cho chắc/ Có bỏ thì bỏ cho luôn/ Đừng làm theo thói ghe buôn/ Nay đi mai ở thêm buồn dạ em”; Tui xa mình không chết cũng đau/ Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền”; Chẳng thà em lấy thằng chồng khờ chồng dại/ Lo kinh thương phản mại/ Tính công nghệ nông trang/ Không ham nhiều bạc lắm vàng/ Mai sau sanh chuyện điếm đàng bỏ em.”…

    3.3. Lối sống ngang tàng, tự do phóng túng là một hệ quả khác của tinh thần nghĩa khí hào hiệp của người Tây Nam Bộ. Ngang tàng ở đây không phải là ngang ngược, lỗ mãng, mà chính là dám sống hết mình, sống đúng với chính mình, dám tin vào lẽ phải, không biết luồn cúi, không sợ uy quyền: “Trời sanh cây cứng lá dai/ Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều”.

    Ngay cả trong tình yêu, người Tây Nam Bộ cũng rất ngang tàng và quyết liệt: “Cầu cao, ván yếu, bước rung/ Anh thương em thì thương đại, ngại ngùng thì đừng thương”;“Dao phay chín ngọn / Em bắt trọn có một mình / Chết em chịu chết, biểu buông mình em hổng buông”; “Rút gươm đâm họng máu trào/ Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh!”…

4. Kết luận

     Tính trọng nghĩa là giá trị đạo đức cơ bản nằm trong hệ thống giá trị “chân – thiện – mĩ” mà mọi dân tộc luôn hướng tới. Có thể thấy tính trọng nghĩa chỉ có thể phát huy được giá trị cao nhất khi được đặt trong môi trường Tây Nam Bộ bởi lẽ, với không gian thoáng mở, lối ứng xử của con người Tây Nam Bộ sẽ không chịu ảnh hưởng bởi những thói xấu vốn được sinh ra từ môi trường cộng đồng làng xã khép kín như thói đố kị, óc tư hữu ích kỉ, óc bè phái địa phương,…; lối ứng xử của người Tây Nam Bộ cũng không phải chịu ảnh hưởng bởi quá nhiều ràng buộc luân lí đạo đức hay dư luận, họ không bị những nguyên tắc đạo đức hay thói sĩ diện quá cao lấn át mất cái “chân tình”, nhờ vậy mà tình cảm con người được bộc lộ một cách tự nhiên, hồn hậu. Ngoài ra, lối ứng xử trọng tình của người miền Bắc do được nảy nở trên môi trường sống tương đối ổn định và tâm lí an bình sau cổng làng khép kín, nên tính trọng nghĩa tình chỉ để giữ hoà khí và thắt chặt hơn tình làng nghĩa xóm. Ngược lại, tính trọng nghĩa của Người Tây Nam Bộ được tôi luyện trong môi trường sống bất ổn, bấp bênh, xa lạ và chông gai. Giá trị cao nhất của việc hiệp nghĩa là để cùng nhau sinh tồn. Như một quy luật của triết lí âm dương, khi cảm giác cô độc, sợ hãi trước môi trường sống mới càng lớn, thì tinh thần hiệp nghĩa càng nổi trội.

     Ngày nay, cho dù có nhiều sự biến động về mặt bằng dân cư, về điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội,… nhưng tính trọng nghĩa khinh tài vẫn còn là một giá trị được người Việt Tây Nam Bộ đề cao trong thời điểm hiện tại và cái nghĩa, cái tình vẫn luôn hiện diện dưới nhiều hình thức, vẫn là giá trị nổi trội trên vùng đất cực Nam này.

__________

1. Đìa Cứt Cọp: trước đây ở nơi này có nhiều cọp, chúng tụ tập săn mồi, phóng uế bừa bãi nên dân chúng gọi đìa này là Đìa Cứt Cọp.

2. Sân Ngự: Tương truyền, hằng năm cứ vào mùa khô là cọp các nơi tụ về đây – gọi là “Cọp hội”, dưới sự chủ toạ của chúa cọp bạch ba giò.

3. Mỏ Cày: Ngày xưa, ở đây có rất nhiều cọp nên khi đi làm người dân phải mang theo chiếc mõ để vừa cày vừa đánh mõ làm cho cọp sợ không dám ra làm hại, vì vậy người ta gọi xứ này là “Mõ cày” do người Tây Nam Bộ phát âm mõ thành mỏ nên lâu dần Mỏ cày đã trở thành tên gọi của một huyện ở Bến Tre.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Nguyễn Tuấn Anh, Ca dao, tục ngữ người Việt miền Tây Nam Bộ dưới góc nhìn văn hoá học, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh, 2009.

2. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2005.

3. Phan Quang, Đồng Bằng sông Cửu Long, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1981.

4. Trần Ngọc Thêm (chủ biên), Văn hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ, NXB Văn hoá Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2014, 887 trang.

5. Trần Ngọc Thêm, Tính cách văn hoá người Việt Nam Bộ như một hệ thống, 2008, http://www. vanhoahoc.edu.vn//index.php?option=com_content&task=view&id=408&Itemid=74