TRI THỨC VỀ BIỂN thể hiện trong VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
LÊ ĐỨC LUẬN
(TS, Trường Đại học Sư phạm – ĐH Đà Nẵng)
1.
Việt Nam có ba yếu tố văn hoá cấu thành: văn hoá đồng bằng, văn hoá núi cao nguyên và văn hoá biển. Trong ba thành phần văn hoá trên thì biển chiếm một vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành dân tộc và địa bàn sinh sống. Về diện tích thì vùng biển Việt Nam là một vùng không gian sinh tồn lớn nhất của dân tộc. Theo cách tính của Viện Tài nguyên thế giới (Word Resources Institute) và Tổ chức Môi trường của Liên Hiệp Quốc, bờ biển Việt Nam dài 1409,1km (bao gồm đường bờ biển trên đất liền và các đảo). Còn đường bờ biển dọc đất liền dài 3.260km (công bố trên website Chính phủ). Ngoài vùng nội thuỷ, Việt Nam có 12 hải lí lãnh hải, thêm 12 hải lí vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lí vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đông. Diện tích đất liền vào khoảng 331.698km². Như vậy, diện tích biển gấp hơn 3 lần diện tích đất liền.
2.
Tri thức về biển thể hiện trong văn học dân gian người Việt bao gồm quan niệm giống nòi, lãnh thổ; giao thương trên biển đảo, nghề nghiệp liên quan đến biển; lối sống, tính cách của người dân sống ven biển.
Về quan niệm về nguồn gốc giống nòi trong truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ thì Lạc Long Quân, con trai Kinh Dương Vương và Long Nữ con gái Long Vương, Lạc Long Quân là thần rồng từ biển cả kết duyên với Âu Cơ, người con gái vùng núi cao đẻ ra bọc Trăm trứng nở trăm con, thuỷ tổ của người Việt phương Nam. Điều này cho chúng ta liên hệ đến quan điểm của tác giả Oppenheimer trong cuốn “Địa đàng ở Phương Đông” [12] đã đưa ra giả thuyết rằng nôi của nền văn minh Đông Nam Á chính là Biển Đông, bao gồm cả Vịnh Bắc Bộ và khu vực Biển Đông Việt Nam. Vua thuỷ tổ dưới danh hiệu Long Vương thường xuất hiện trong vai trò trợ giúp các thế hệ sau xây dựng quốc gia và đánh giặc xâm lược phương Bắc. Rùa Vàng, sứ giả của Long Vương đã giúp An Dương Vương xây thành và cho lẫy nỏ làm chiếc nỏ thần. Long Vương cũng giúp Lê Lợi gươm thần đánh đuổi giặc Minh rồi khi chiến thắng quân thù lại sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm.
Theo tư duy của người Việt thời cổ, lãnh thổ của mình chia hai vùng: vùng đồng bằng núi cao và vùng miền biển. Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên”. Trong truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh – Sơn Tinh là vị thủ lĩnh vùng đồng bằng núi cao và Thuỷ Tinh là vị thủ lĩnh vùng sông biển thuộc địa phận cai quản của Hùng Vương. Hai chàng tranh tài để được lấy công chúa Mị Nương, làm phò mã nối nghiệp vua Hùng. Việc Hùng Vương thiên vị, có ý cho Sơn Tinh thắng mặc dù hai chàng cân sức cân tài thể hiện tư duy về biển của thời Hùng còn chưa được chú trọng. Theo Nguyễn Thị Hải Lê thì “Xét theo trục không gian, chất biển từ nhạt ở miền Bắc, trở nên đậm hơn ở miền Trung và lại ít đi khi vào Nam Bộ; theo trục thời gian, chất biển ngày càng đậm đặc hơn theo tiến trình lịch sử” [7].
Tuy nhiên tâm thế chinh phục biển đã có trong tư duy của người Việt thời tiền sử. Khi nối nghiệp cha, Lạc Long Quân đã chế ngự Ngư Tinh, biểu tượng của thuỷ quái vùng Vịnh Bắc Bộ hay làm hại tàu thuyền. Lạc Long Quân chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thuỷ, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ. Có lẽ, truyền thuyết “Sự tích dưa hấu” là câu chuyện về sự khai phá và sinh sống đầu tiên của người Việt thời cổ ở biển đảo. Đây là truyền thuyết đề cập đến nghề đánh cá: “chiếc thuyền đánh cá đi lạc ra đảo”, sự giao thương buôn bán giữa đất liền với đảo: “thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra đỗ ở hải đảo đưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa, lại có cả các thứ hạt giống khác, để đổi lấy dưa”. Như vậy, sự giao thương, sinh sống trên đảo và các vùng biển đã có từ thời Hùng Vương. Kinh tế hàng hoá vào thời kì này đang dưới dạng sơ khai là hàng hoá đổi hàng hoá. [11]
Tâm thức về lãnh thổ của người Việt bao giờ cũng gắn với biển Đông:
Quảng Nam là đất quê mình,
Núi đồng, sông biển rành rành từ lâu….
Đông thì biển rộng thênh thênh,
Đất đai trăm dặm rành rành như ghi…
Bài ca dao thể hiện niềm tự hào về tài nguyên đất đai, đặc biệt là có vùng biển “rộng thênh thênh” mở ra một không gian đại dương bao la. Không gian biển thể hiện trong các địa danh ven biển. Đi dọc ven biển Đà Nẵng, địa danh các làng biển, các vũng, hòn dọc biển đã đi vào tiềm thức của người đất Quảng, tạo nên bức tranh thật hữu tình và sinh động:
Vũng Thùng còn ở trong xa,
Trước mũi Sơn Trà sau có Hòn Nghê.
Vũng Nồm Bãi Bấc dựa kề,
Mĩ Khê làng mới làm nghề lưới đăng.
Xóm trước hàng quán lăn xăn,
Xóm sau lưới cá bủa giăng tứ bề.
Ngũ Hành Sơn đã dựa kề,
Thấy chùa thờ phật, phật về thượng thiên…
Địa danh ven biển gắn liền với quá trình giao lưu thương mại của cư dân đất Quảng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Những địa danh như Hội An, Cù Lao xuất hiện rất nhiều trong những câu ca của người dân miền biển xứ Quảng với một niềm tự hào về vùng đất đô hội:
– Hội An là chốn hữu tình,
Thuyền buôn, thuyền bán rập rình bến sông.
– Cù Lao đảo nhỏ quê ta,
Dạt dào sóng biển thuyền ra thuyền vào.
Bộ phận vè Nhật trình biển của các ngư dân là một điểm khá mới mẻ về đề tài và cách thể hiện của thể loại vè. Qua các bài vè Nhật trình biển, hình ảnh ngư dân hiện lên đầy phóng khoáng, mạnh mẽ, tự tin, dám đối mặt với mạo hiểm của nghề sông nước. Vè Nhật trình biển tường thuật lại hành trình ven biển từ biển Cảnh Dương huyện Quảng Trạch hướng đến vùng biển Nghệ Tĩnh:
… Ngó ra mù tích là đá hòn Ông
Ngoài sóng ngả một vùng rạng Lố
Dãy Hoành Sơn lồ lộ cao phong
Thuyền đi Yên Ngựa thẳng dong
Núc Ông chỗ mặt, mũi rồng xe ra
Dáng Vụng Chùa thân bà phơi cánh
Bóng Hòn La thấp thoáng kề bên…
Trong Vụng Nàn có ngàn vụng Áng
Nơi trú chân ngày tháng động trời
Thuận buồm, tốt gió êm vời
Vượt qua cửa khẩu là nơi an điềm
Trong đất liền xanh viềm núi Họ
Nơi ba ông núi Đọ chụm bàn
Ven bờ thuyền đậu nghênh ngang
Làng trong mũi nhỏ xinh xoang làm nghề…
Hồng Lam qua đó cũng gần
Nơi đây Nghệ Tĩnh bão dâng phong trào
Qua bãi Đào rú cao hòn Mác
Ngó mù khơi, phơi tích một mình
Hòn Nồm nhỏ nhỏ xinh xinh
Qua cống lạch cho tinh kẻo nhầm
Mé nước vàng phao cầm đỏ tía
Hỡi Song Ngư đáo địa năm nào
Ló nằm, Láp lại chồi cao
Giăng hàng sóng ngã lao xao lạch Lò
Buồm phảng phất lô nhô thuyền lắc
Mũi khe Gà sương tuyết gài then
Anh em trò chuyện đua chen…
Vừa Gành Éch sóng reo rõ tiếng
Nhìn phía trong vụng Biện bắt hò
Lăng buồm vào vụng bỏ neo
Ghe mành thuyền giã hò reo chuyện trò
Kẻ gặp bạn tự do mời mọc
Người rong chơi núi Ngọc bẻ hoa…
VHDG Quảng Bình
Đây thực sự là bài ca nghề nghiệp phản ánh công việc của người làm nghề đánh bắt cá biển khơi. Chúng ta không thấy hiện lên hình ảnh những con người thông minh tài trí. Họ như là những nhà thám hiểm, một hành trình khám phá vẻ đẹp hùng vĩ nên thơ của cảnh biển. Chúng ta không thấy gian nan, vất vả mà chỉ thấy niềm vui hăng say trong lao động của những người dân biển.
Bộ phận vè Nhật trình biển không chỉ thể hiện công việc đánh bắt cá mà còn ghi nhận một nghề mới đó là nghề buôn và hoạt động giao thương bằng đường biển ở xứ Đàng Trong. Vào thời kì từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến ở Đàng Trong dưới sự cai quản của các chúa Nguyễn, việc giao thương buôn bán bằng đường biển đã rất thịnh hành. Bài vè sau đây được sưu tầm tại Quảng Nam – Đà Nẵng, nơi có Hội An là thương cảng sầm uất của xứ Đàng Trong, phản ánh hành trình giao thương của các thương lái từ Huế đến Gia Định và ngược lại:
Kể từ ngày các lái đi buôn
Nhớ khi ngồi buồn tán chuyện ngâm nga
Kể từ Gia Định kể ra
Từ mũi Thuận Hoà ngoài Huế kể vô
Trên thời ngôi lập thành đô
Dưới sông các lái ghe vô dập dìu
Trên thời vua Thuấn vua Nghiêu
Dưới sông tập điều buôn bán nghinh ngang
Trên thời ngói lợp toà vàng
Dưới sông các lái nghênh ngang chật bờ
Trời động các lái trở vô
Thuận An là chốn thuyền đô ra vào
Ngó lên cửa Ải núi cao
Ngước mặt nhìn vào bãi Chuối, hang Dơi
Anh em nước củi thảnh thơi
Hòn Hành nằm đó là nơi cửa Hàn
Vũng Thùng còn ở trong xa
Trước mũi Sơn Trà sau đó hòn Nghê…
Lao Chàm nay đã gần miền
Hòn Lá, hòn Lụi nối liền hòn Tai
Năm hòn nằm đó không sai
Hòn Khô, hòn Dài láo xáo thêm vui…
Châu Lai châu Ổ bao xa
Trước mũi Vũng Quýt thiệt là thống binh
Hòn Châm cổ ngựa trời sinh
Làng Gành, Mĩ Giảng luân kinh ra Vũng Tàu…
Bình Định có hòn Áng ngoài
Các lái chạy hoài kêu hòn Lao xanh
Vũng Tích trong vịnh ngoài gành
Cù Mông nước ngọt ăn quanh bãi Liền…
VHDG Quảng Nam – Đà Nẵng
Bài ca đã nêu lên một phong cảnh thái bình thịnh trị như thời Thuấn, Nghiêu, trên bến dưới thuyền cảnh sinh hoạt buôn bán tấp nập của xứ Đàng Trong từ Huế vào Gia Định.
Dấu ấn đậm nét nhất của cư dân ven biển chính là tâm thức biển. Tâm thức biển thể hiện trong niềm khát khao nghề chài lưới thuận lợi, đánh bắt được nhiều cá tôm. Niềm khát khao ấy biểu hiện rõ trong lễ Cầu Ngư gắn với diễn xướng hát bả trạo của cư dân ven biển miền Trung. Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông của cư dân biển Quảng Bình thể hiện:
Bà vô mười bảy tháng tư, Vạn lo
lập lễ cầu ngư lưới nghề.
Nói đến sản vật vùng biển thì cá là loài được quan tâm nhiều nhất. Tên các loài cá theo cách gọi tên của người dân Quảng mang một sắc thái riêng, rất sinh động:
Cơm thang, cơm đỏ bủa dày,
Cá mùa cá ảu chở rày đầy ghe.
Cá lão, cá quịt, cá bè.
Cá nục, cá trái, cá ve, cá dò,
Cá sông, cá rựa, cá bò,
Cá chù, cá dát, cá nam to thật nhiều.
Cá dưng, cá khế, cá thiều,
Bò kiến, cá viễn lại nhiều cá huê.
Cá chuồn, cá hố ê hề,
Cá đù, cơm lép vô nghề thênh thang.
Cá nhồng, cá nhói, cá chai,
Cục, cờ, cá bớp, cá ngàn, cá cam.
Cá lợ, cá táp, cá thằn,
Cá liệt cơm trong, cá măng, cá mờm.
Cá chim, đối, nhân, mực, tôm,
Lạc cào, bẹ ghé, tốt nồm mới lên.
Ở gành thì có cá thìa,
Chình, mú, cá cẳng, cá dìa sọc nhông.
Cá đỏ, cá nóc, cá hồng,
Cá trăng tai tượng, mó mồng mó xanh.
Ở vời liệt ngẩu, cá hanh,
Cá bai duối ó, lành canh cá chàm.
Mối rô, cá đối đục càm,
Giả trường, cồi món, én làm đầy ghe.
Bả trầu cá tráo xước tre,
Nhờ ngài đưa đẩy chở che bảo toàn.
Đây là một bài ca nghề nghiệp, thể hiện niềm tự hào về sản vật của vùng biển quê hương giàu có về tài nguyên. [9]
Địa danh ven biển gắn liền với làng nghề chài lưới, các hải sản. Cá của vùng biển Việt Nam được xếp theo thứ tự ngon: “Chim, thu, nụ, đé”. Hải sản ở vùng biển Nghệ An rất phong phú:
Ai về Cửa Hội quê tôi
Cá thu, cá mực, cá mòi thiếu chi.
Người dân vùng biển, ngoài nghề đánh bắt cá trên biển, còn có nghề chế biến hải sản. Một trong những nghề thích hợp với người dân biển là nghề làm mắm. Hầu như cư dân vùng biển nào cũng làm nghề chế biến nước mắm, đặc biệt là các tỉnh miền Trung. Rất nhiều nơi ở vùng biển Quảng Nam làm mắm, nhưng có lẽ chỉ có mắm Nam Ô là nổi tiếng hơn cả xưa nay. Nước mắm Nam Ô đã đi vào đời sống và đi vào văn học dân gian xứ Quảng nhiều thế hệ:
Nam Ô nước mắm thơm nồng,
Đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà.
Nghề đi ra đảo lấy tổ yến cũng là nghề phụ quan trọng của cư dân ven biển. Cù Lao Chàm gồm 7 hòn đảo nhỏ: hòn Lao, hòn Tai, hòn Dài, hòn Mồ, hòn Lá, hòn Khô Mẹ và hòn Khô Con. Chim yến chỉ có ở hòn Khô, vì vậy dân gian mới truyền nhau câu:
Rủ nhau khăn gói ra Hòn,
Muốn ăn được yến phải lòn hang khô.
Tri thức về ẩm thực liên quan đến các sản vật biển khá phong phú. Nhum sống ở những gành đá ven bờ biển từ Bình Định đến Quảng Ngãi. Thịt nhum có thể kho để ăn cơm, trộn trứng chưng cách thuỷ nhưng ngon nhất là làm mắm. Mắm nhum sền sệt, mầu đỏ đục, thơm lựng, từng là đặc sản tiến vua xưa của người dân Quảng Ngãi nên ăn được món này quả là khó khăn:
Anh than với em cha mẹ anh nghèo
Đôi đũa tre yếu ớt không dám quèo con mắm nhum.
Những món hải sản mà người dân vùng biển thích theo bộ phận của cá và theo tháng: “Trốôc cá chang, gan cá nghéo”,“Cá hồng thịt, cá đuối lòng”,“Nhất gan cá nghéo, nhì mang cá thiều”, “Chuồn, gúng tháng ba, Thu, da tháng bảy”.
Các món ăn ưa thích của người dân Quảng Bình dịp tết sau bánh chưng là các món hải sản:
– Tết về câu đối, bánh chưng
Chẳng ham giò chả, chỉ ưng ngứa, xèo.
– Nguyên chất nước mắm cá lầm,
Một thìa cũng giá bằng mâm cỗ đầy.
– Cá thiều mà nấu măng chua
Một chút canh thừa cũng chẳng bỏ đi.
Nói về kinh nghiệm chọn thực phẩm, người dân xứ Quảng có câu: “Rau chọn lá, cá chọn vảy”. Những loài cá có vảy thì nếu cá còn nhiều vảy, vảy không bị tróc, không trầy thì đó là cá tươi. Việc ăn uống của người Quảng Nam cẩn thận từ việc chọn thực phẩm tươi đến việc chế biến:
Con tôm kho mặn thì bùi,
Con cá kho mặn mất mùi không ngon.
Ẩm thực xứ Quảng vừa có cái đậm đà chất biển, lại vừa có cái ngọt bùi chất đồng nội, núi rừng. Người dân Quảng Nam, nhất là người miền biển chắc hẳn đã rất quen thuộc với câu ca:
Ai lên nhắn với bạn nguồn,
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.
Chất cay mặn trong khẩu vị của người dân miền Trung, đặc biệt là cư dân Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam ít nhiều có dấu ấn văn hoá biển. Người dân biển thích ăn cay uống mặn để chống chọi các gió rét ngoài khơi xa và các món ăn hải sản cũng đều có vị mặn mòi. Hầu hết trong cách chế biến món ăn của người dân Quảng Bình đều có vị cay, đặc biệt là trong các món cá kho: “Cá bống kho tiêu/Cá thiều kho ớt”. Người Quảng Bình thích các món có vị mặn: “Muối mà rang với ruốc khô/Có chết xuống mồ cũng dậy mà ăn”. [10]
Tâm thức biển thể hiện trong cách nhìn người, xét việc của người dân ven biển. Người dân biển đòi hỏi rất cao phẩm chất của người phụ nữ. Do phải gánh vác công việc gia đình cho chồng đi biển vắng nhà lâu ngày, con gái vùng xóm chài Quảng Nam đều khéo léo, chịu khó, đảm đang:
Khéo khen con gái xóm chài,
Thức khuya dậy sớm chẳng nài lưới hư.
Lưới hư thì mặc lưới hư,
Tôi đi bắt ốc cũng dư nuôi chồng.
Hình ảnh biển được sử dụng trong lối ẩn dụ, so sánh. Lối nói ví von so sánh lòng người đậm màu sắc biển của người dân Quảng Nam:
Lòng người thăm thẳm mù khơi,
Không bờ không bến biết mô mà dò.
Biển đông biểu tượng cho sự bao la rộng lớn. Khi nói đến công lao to lớn của cha mẹ, người Việt nói:”Mẹ nuôi con biển, hồ lai láng”. Hoặc:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông.
Sức mạnh đồng tâm hiệp lực, sự đoàn kết đồng lòng của vợ chồng được ví von qua hình ảnh Biển Đông: “Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn”.
3.
Tri thức về biển trong văn học dân gian đã thể hiện những hiểu biết về biển, khả năng ứng phó với biển của người Việt có từ xa xưa vào thời kì Hùng Vương. Biển không chỉ là vùng sinh sống lập nghiệp của người Việt mà còn là nơi phát tích cội nguồn giống nòi với thuỷ tổ là Long Vương. Những chứng tích còn lưu lại trong truyền thuyết cho thấy người Việt là cư dân quản lí biển, khai thác và có hoạt động giao thương trên các đảo từ thời tiền sử. Tri thức về biển càng được củng cố bồi đắp qua quá trình lịch sử. Điều này thể hiện rõ trong quan niệm về chủ quyền, các ngành nghề đánh bắt chế biến hải sản, đặc điểm về ẩm thực đậm chất biển, phong tục tập quán tín ngưỡng và tính cách của cư dân ven biển thể hiện trong các thể loại ca dao, tục ngữ người Việt.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Bổn, Văn học dân gian Quảng Nam (miền biển), Sở Văn hoá – Thông tin Quảng Nam, 2001.
2. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (3 tập), Viện Văn học, Hà Nội, 1993.
3. Nguyễn Đổng Chi – Ninh Viết Giao, Ca dao Nghệ Tĩnh, Sở Văn hoá Thông tin Nghệ Tĩnh, 1984.
4. Mai Ngọc Chừ, Văn hoá biển miền Trung trong mối quan hệ với văn hoá biển Đông Nam Á, Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2008.
5. Trần Hùng (Chủ biên), Văn học dân gian Quảng Bình, tập 1, NXB Văn hoá Thông tin, Sở Khoa học công nghệ và Môi trường Quảng Bình, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Xuân Kính – Phan Đăng Nhật (chủ biên) – Phan Đăng Tài – Nguyễn Thuý Loan – Đặng Diệu Trang, Kho tàng ca dao người Việt (4 tập), NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995.
7. Nguyễn Thị Hải Lê, Đặc trưng văn hoá biển của người Việt, Văn hoá Nghệ thuật số 315, 2010.
8. Lê Đức Luận, Địa danh sản vật và nghề nghiệp trong ca dao – tục ngữ Đà Nẵng, Nguồn sáng dân gian, số 4(5), Hà Nội, 2002.
9. Lê Đức Luận, Sắc thái văn hoá Quảng Nam qua chèo cầu ngư, Văn hoá Quảng Nam, số 53, 2005.
10. Lê Đức Luận – Dương Thị Kim Phụng, Sắc thái văn hoá Quảng Bình qua ca dao tục ngữ, Những vấn đề khoa học Xã hội và Nhân văn khu vực Bắc miền Trung, NXB Nghệ An, 2009.
11. Lê Đức Luận, Hệ thống biểu tượng trong truyền thuyết Việt Nam, Thông báo Văn hoá dân gian, 2010.
12. Oppenheimer, Stephen, Địa đàng ở phương Đông – Lịch sử huy hoàng của một lục địa bị chìm ngập, bản dịch tiếng Việt của Lê Sĩ Giảng và Hoàng Thị Hà, Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, NXB Lao động xã hội Hà Nội, 2005.
13. Cao Xuân Phổ, Văn hoá biển Đông Nam Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, Hà Nội, 1994.
14. Nguyễn Duy Thiệu, Ðậm đà văn hoá biển miền Trung, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
15. Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4, Truyền thuyết dân gian người Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
16. Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 6, Truyện cổ tích thần kì, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
17. Trần Quốc Vượng, Việt Nam và Biển Đông, Văn hoá dân gian, số 3, Hà Nội, 2000.
18. Viện nghiên cứu văn hoá dân gian, Văn hoá dân gian làng ven biển, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 2000.