Truy tìm những khoảnh chân thực riêng lẻ: Về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ từ góc nhìn Nhân loại học Lịch sử (Phần 2)
Tác giả bài viết: CHU XUÂN GIAO
(Viện Nghiên cứu văn hóa)
3. Quan điểm có được từ sự truy tìm những khoảnh chân thực riêng lẻ trên thực địa của chúng tôi về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ
Qua sơ bộ khảo sát cụm tín ngưỡng PTH ngày nay (xem Hình 1), đặc biệt là qua bài trí tượng thờ và tư liệu Hán Nôm liên quan trong Phủ chính, chúng tôi cho rằng: 1. Định thuyết trước nay cho rằng PTH được xây dựng vào thế kỉ 16 là không có cơ sở tư liệu vững vàng; nói cách khác: không thể có PTH từ thế kỉ 16. 2. Với tình hình tư liệu hiện tại, chỉ có thể nói rằng, PTH như ngày nay được hình thành rất muộn, có lẽ là vào giai đoạn cuối của thời Nguyễn (thời Bảo Đại, thậm chí có thể là trong thập niên 1940). 3. Tiền thân của PTH là ngôi đền của làng Bảo Khánh (Bảo Khánh linh từ 寶慶靈祠), bên cạnh đền có một ngôi chùa nhỏ. Có lẽ chính xác hơn là: cả khuôn viên PTH ngày nay vốn được gọi chung là Bảo Khánh linh từ; trong linh từ đó, có cả phần thờ Thần (bên đền) và phần thờ Phật (bên chùa). Trong thời Bảo Đại (hoặc thậm chí là trong thập niên 1940), bằng những lí do/duyên cớ nào đó hiện chưa rõ, linh từ của một làng này đã phát triển thành một Phủ lớn như ngày nay, thu hút khách thập phương của một vùng rộng lớn.
Dưới đây, xin trình bày ngắn gọn về các căn cứ, cũng là diễn giải cho rõ quan điểm vừa nêu của chúng tôi về lịch sử hay là sự xuất hiện của PTH.
3.1.
Một là, nhìn tổng thể, tư liệu Hán Nôm cũ hiện thấy (hoành phi-câu đối-đại tự, và bia đá) của PTH có niên đại rất muộn. Chỉ có tư liệu thời Nguyễn, và là cuối thời Nguyễn. Tư liệu Hán Nôm cũ hiện thấy của PTH tập trung chủ yếu tại Phủ chính, gồm 3 tấm bia và một số câu đối – hoành phi – đại tự, một số trong đó có mang niên đại cụ thể. Chi tiết về từng tư liệu, chúng tôi đã trình bày riêng trong một báo cáo [Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008], dưới đây chỉ nêu mấy điểm tiêu biểu.
Tư liệu mang niên đại sớm nhất hiện xác định được rõ là chuông đồng đúc năm 1912 (Duy Tân 6) như đã nhắc đến ở trên. Sớm thứ hai là tấm bia đá lập năm 1928 (năm Mậu Thìn niên hiệu Bảo Đại; bia mang kí hiệu Bia 1 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008:52, 70-71) có tiêu đề là Bảo Khánh bản thôn chư tộc tiên công liệt vị 寶慶村諸族先公列位 (Danh sách sắp xếp theo thứ tự của các vị tiên công trong các họ thuộc thôn Bảo Khánh).
Ngay bức đại tự quan trọng đề bốn chữ Hán Thiên Tiên Trắc Giáng 天仙陟降 (Tiên trời lên xuống) ở trong hậu cung (tức đại tự mang kí hiệu ĐT1 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008:52, 77), mà Đặng Văn Lung cho là dấu hiệu chỉ “nơi giáng sinh lần thứ hai” của Mẫu Liễu (xem Đặng Văn Lung 1995:20), cũng chỉ có niên đại rất muộn là năm 1953, cho dù nó mang một dòng lạc khoản là Long Phi Quí Tị niên mạnh thu龍飛癸己年孟秋 (Tháng mạnh thu năm Quí Tị Long Phi).
Bức đại tự ghi bốn chữ Tây Hồ phong nguyệt 西湖風月(được Đặng Văn Lung xem là một căn cứ quan trong trong suy luận) dù không ghi niên đại, nhưng sớm lắm cũng chỉ là vào thời Bảo Đại (tức đại tự mang kí hiệu ĐT2 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008:52, 83-84)12.
Đôi câu đối có dáng cổ nhất, và trên thực tế có niên đại cổ nhất trong mảng tư liệu hoành phi – câu đối – đại tự ở Phủ chính, được viết bằng thể chữ triện (tức tư liệu mang kí hiệu CĐ4.1-CĐ4.2 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương: 52, 84-86), cũng chỉ được làm và dâng tiến vào năm 1941 (năm Tân Tị niên hiệu Bảo Đại).
3.2.
Hai là, trong số sắc phong được Tiểu ban Quản lí di tích Phủ Tây Hồ (TBQLPTH) lưu giữ hiện nay (tức mảng tư liệu Hán Nôm không tiếp cận được một cách dễ dàng như mảng hoành phi-câu đối-đại tự và bia đá đã đề cập ở trên), không có sắc nào dành cho chính Phủ Tây Hồ, đó chỉ là sắc phong chính thức của các điểm tín ngưỡng khác, mà TBQLPTH trở thành người lưu giữ có khi là do ý thức chủ quan mà có khi chỉ là do cơ duyên có phần ngẫu nhiên.
Về vấn đề đọc hiểu nội dung và ý nghĩa của các sắc phong hiện lưu giữ tại PTH, chúng tôi sẽ đề cập cụ thể trong một dịp khác. Trong bài này, tạm sơ lược giới thiệu như sau.
Số sắc phong mà TBQLDTPTH lưu giữ gồm có 2 phần lớn: sắc chính bản, sắc sao (là bản sao của các đạo sắc chính bản)13.
Phần sắc chính bản chỉ có duy nhất 01 đạo, mà lại là sắc cho đền Kim Ngưu (Kim Ngưu tôn thần) tại phường Tây Hồ huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông (tức đền Kim Ngưu nằm trong quần thể PTH hiện nay), mang niên đại Khải Định 9 (1924).
Phần sắc sao lại có hai dạng: tờ riêng (ở dạng tờ giống như sắc chính bản nhưng chỉ là sao, không có dấu), và, dạng quyển (các bản sao được đóng chung vào một quyển).
Có 2 tờ sao dạng tờ riêng, nhưng là bản sao của 3 đạo sắc (có 1 tờ sao liền 2 đạo), cho các nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh và các vị tùy tùng, nhưng là cho Phủ Giày và Phố Cát mà không phải cho Phủ Tây Hồ:
1 đạo có niên đại Minh Mệnh 20 (1859) cho xã An Thái huyện Thiên Bản 天本縣安泰社, như vậy là cho nơi thờ Mẫu Liễu quần thể di tích Phủ Giày – nơi phát tích và trung tâm của sự phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, để định chính xác là sắc phong cho Phủ Vân Cát hay Phủ Tiên Hương thì hiện chưa rõ, chúng tôi tạm suy đoán là cho Phủ Tiên Hương14. Ba vị được phong trong sắc là: Đế Thích tiên đình Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên công chúa, Đệ tam ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa công chúa.
Một đạo có niên đại Tự Đức 31 (1878), 1 đạo có niên đại Đồng Khánh 2 (1887), được chép chung vào một tờ, đều là cho xã Phố Cát tổng Hòa Luật huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa 青化省石城縣和律総甫葛社, tức cho Phố Cát – một nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh nổi tiếng ở miền trung. Ba vị được phong trong sắc là: Đế Thích tiên đình Liễu Hạnh công chúa, Quỳnh Anh phu nhân, Quảng Cung phu nhân.
Sắc sao ở dạng quyển có 2 quyển, bên trong là các tờ giấy dó, bìa ngoài màu vàng: 1 quyển ghi nhan đề là Nhâm Thìn niên sao bản – thất đạo 壬辰年抄本柒道 gồm 7 đạo cho đền Kim Ngưu (tạm gọi là quyển 1); 1 quyển ghi nhan đề Nhâm Thìn niên sao bản – nhị thập nhất đạo 壬辰年抄本貳拾壹道 gồm 21 đạo cho thành hoàng làng Tây Hồ, tức cho đình Tây Hồ (tạm gọi là quyển 2)15. Tổng cộng là 28 đạo, đạo có niên đại sớm nhất là Cảnh Hưng 1(1740), đạo có niên đại muộn nhất là Gia Long 9 (1810). Về thời điểm ai đó đã sao 28 đạo sắc phong này và đóng thành 2 quyển như hiện nay, cũng như lí do sao, chúng tôi sẽ trình bày ở một dịp khác, nhưng rõ ràng, 2 quyển sắc sao này không quan hệ trực tiếp tới lịch sử PTH16.
Như vậy, qua mô tả sơ lược trên đây, chúng ta cũng có thể thấy rằng, dù là chính bản hay bản sao, không có sắc phong trực tiếp cho Mẫu Liễu Hạnh tại PTH (nói khác đi là không có sắc nào cho chính PTH, hay cho tiền thân của nó là ngôi Bảo Khánh linh từ).
Ba đạo sắc cho Mẫu Liễu và hai vị tùy tùng được lưu giữ ở đây dưới dạng bản sao chỉ là bản sao từ hai nơi thờ Mẫu khác, cả hai đều nổi tiếng, đó là Phủ Giày và Phố Cát. Chúng ta có thể suy đoán rằng, người ở PTH đã đi chép theo chính bản được lưu giữ tại hai nơi đó, rồi mang về PTH với ý nghĩa là thờ vọng17. Quan hệ giữa PTH và hai nơi này là vấn đề thú vị cần tìm hiểu tiếp.Tuy nhiên, tạm thời, chúng ta có thể thấy rằng, PTH xuất hiện muộn, sau Phủ Giày và Phố Cát rất lâu. Có tài liệu cho biết đền thờ Mẫu Liễu tại Phố Cát được xây dựng trong khoảng niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), từng được trùng tu năm 1896 (theo Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Tân, 1998, trang 890 – dẫn lại từ Phạm Quỳnh Phương 2003:32).
Ảnh 1: Hai đạo sắc phong cho xã Phố Cát tỉnh Thanh Hóa,
hiện được lưu giữ tại Phủ Tây Hồ (sắc sao, có niên đại 1878 và 1887; 01.2008)
Bản thân 2 đạo sắc phong được chép từ Phố Cát hiện lưu tại PTH (xem Ảnh 1) cũng có niên đại rất muộn, do vậy, thời gian mà người ở PTH đi về Phố Cát xin chép cũng rất muộn (suy luận từ niên đại của hai đạo sắc gốc, thì phải là sau năm 1887, hoặc nếu sớm hơn thì là sau năm 1878; nhưng từ tổng quan các di vật tại PTH, chúng tôi tạm suy đoán là vào thời Bảo Đại, hoặc muộn hơn nữa là thập niên 1940). Phải chăng, cho đến trước thời điểm đi chép sắc này, chưa có cái gọi là Phủ Tây Hồ như ta quen dùng ngày nay, mà nó mới chỉ là ngôi đền của làng Bảo Khánh (Bảo Khánh linh từ). Phải chăng vào thời Bảo Đại, vì những lí do nào đó hiện chưa rõ, Bảo Khánh linh từ đã chuyển sang dạng như Phủ Tây Hồ ngày nay, và vì thế, người ta đã đến Phủ Giày và Phố Cát để xin sao chép các sắc phong ở đó về thờ vọng. Các tờ sắc sao này, về mặt tâm linh, là một chứng tín quan trọng cho việc thờ phụng Mẫu Liễu Hạnh tại đây.
3.3.
Ba là, ngôi đền của làng/xóm Bảo Khánh (Bảo Khánh linh từ), vốn là tiền thân của PTH ngày nay, có lẽ cũng xuất hiện khá muộn. Có thể xem PTH là kết quả của việc Bảo Khánh linh từ chuyển đổi nội dung/đối tượng thờ cúng theo khuôn mẫu của Phủ Giày và Phố Cát. Như đã trình bày ở trên, một khâu quan trọng đã thực hiện trong quá trình chuyển đổi ấy là việc người từ làng Tây Hồ đã đi chép sắc phong từ Phủ Giày và Phố Cát về thờ vọng.
Qua phỏng vấn hồi cố các vị trong TBQLDTPTH và các vị cao niên địa phương, chúng tôi được biết, linh từ này không chỉ là nơi thờ Thần, mà là thờ cả Thần và Phật, hay gọi theo cách tạm thời của chúng tôi là Thần Phật hợp tự18 (thờ chung Thần và Phật trong cùng một khuôn viên). Và Thần Phật hợp tự ở đây là theo kết cấu tiền Thần hậu Phật (thờ Thần ở trước, thờ Phật ở phía sau). Khu thờ Thần vốn là Phủ chính hiện nay. Khu thờ Phật vốn là Động Sơn trang hiện nay (xem Hình 1). Ông Trương Công Đức cho biết, trong thập niên 1990, khi xây cất Động Sơn trang trên nền khu thờ Phật trước đây, mới đầu ông có đặt tượng Phật, nhưng sau này không thờ nữa và chuyển tượng đó sang chùa Phổ Linh (tức chùa Tây Hồ). Các tấm bia gửi hậu cho linh từ này đều có niên đại muộn, là thời Bảo Đại, sớm nhất là năm 1928.
Linh từ trước đây thờ những vị thần nào và những vị Phật nào thì hiện chúng tôi chưa rõ. Nhưng điểm đặc biệt đáng chú ý là: các tấm bia hậu của Bảo Khánh linh từ không hề nhắc đến Mẫu Liễu Hạnh (bản thân các tấm bia này có niên đại sớm hơn mảng tư liệu hoành phi – câu đối – đại tự trong Phủ chính). Bởi vậy, việc gửi hậu ở đây không phải là gửi Mẫu Liễu Hạnh, mà là chung cho cái tập hợp gọi là Bảo Khánh linh từ. Nội dung liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh chỉ thấy trên mảng tư liệu hoành phi – câu đối – đại tự, mà niên đại sớm nhất của loại tư liệu này là năm 1941 (câu đối mang kí hiệu CĐ4.1-CĐ4.2 đã nhắc ở trên). Bức hoành phi đề bốn chữ Mẫu nghi thiên hạ 母儀天下 (tức hoành phi mang kí hiệu HP4 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008:52,78-79) cũng mới chỉ được dâng tiến năm 1943.
Hãy chú ý đến mốc thời gian “năm 1943” này. Vào chính năm này, đã có một cuộc đại trùng tu tại khuôn viên PTH ngày nay (xem kết quả khảo sát của Ban quản lí dự án quận Tây Hồ19). Bởi vậy, có thể bức hoành phi mang niên đại 1943 nói trên (HP4) đã được dâng tiến trong hay sau cuộc trùng tu đó. Thêm nữa, cùng năm 1943, người trưởng họ Trần ở Tiên Hương20 tỉnh Nam Định là Trần Cung Phức cũng đã dâng tiến Phủ Tây Hồ một đôi câu đối có ghi niên đại rõ ràng (mùa xuân năm Quí Mùi niên hiệu Bảo Đại; tức tư liệu mang kí hiệu CĐ6b.1-CĐ6b.2 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008:52, 81-82). Phải chăng lần trùng tu năm 1943 là lần trùng tu mang tính quyết định, đã tạo ra sự chuyển đổi một cách cơ bản về nội dung tín ngưỡng của ngôi đền Bảo Khánh linh từ, đưa nó sang thành dạng như Phủ Tây Hồ ngày nay.
Vẫn về cái mốc thời gian “năm 1943”, trên đây, chúng tôi đã có đề cập đến giả thiết của tác giả Hà Đình Thành về sự xuất hiện của Phủ Tây Hồ, rằng: “có lẽ năm 1943, Phủ Tây Hồ chỉ là một điện thờ Mẫu Liễu với tòa hậu cung nằm kề bên khuôn viên đất chùa”. Bằng những dẫn giải từ tư liệu thực địa trên đây, chúng tôi tán đồng với tác giả về khoảng thời gian mà Phủ Tây Hồ xuất hiện, tức là, rất có thể là trong thập niên 1940. Tuy nhiên, trong khảo tả của mình, Hà Đình Thành gần như không hề biết đến sự tồn tại của Bảo Khánh linh từ, và cũng không đưa ra những chứng cớ quan trọng cho giả thiết của mình.
Sau “năm 1943”, cũng cần chú ý đến mốc thời gian “năm 1952”. Theo nội dung dòng lạc khoản của một câu đối trong Phủ chính (tư liệu mang kí hiệu CĐ6a.1-CĐ6a.2 trong Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008: 52, 79-81), chúng tôi biết được rằng, cho đến năm 1953, tức là trong thời kì khu vực làng Tây Hồ còn là vùng tạm chiếm của Pháp, ở Bảo Khánh linh từ có một vị tên là Phạm Diệu Hòa 范氏号妙和, bà vừa là trụ trì 住持 vừa đồng thời là thanh đồng 青僮. Vị này cúng tiến một đôi câu đối cho bản từ (đền này, đền của mình) vào năm đó. Bức đại tự quan trọng đề bốn chữ Thiên Tiên Trắc Giáng 仙 天降 陟 ở trong hậu cung (ĐT1, đã nhắc đến ở đoạn trên) cũng được dâng năm 1953, tức là cùng thời gian trụ trì/thanh đồng Phạm Diệu Hòa dâng tiến câu đối. Có lẽ cả hai tư liệu này (CĐ6a.1- CĐ6a.2 và ĐT1) đều được bà Phạm Diệu Hòa dâng tiến sau lần trùng tu năm 1952. Sở dĩ được/phải trùng tu vào năm 1952 là vì năm 1947 khu vực PTH ngày nay có bị thiệt hại trong lần Pháp tấn công khu vực Quảng An – Nhật Tân – Tứ Liên… để chiếm ngã ba Nhật Tân. Trong trận đó, chúng đốt cháy 16 nóc nhà ở xóm Bảo Khánh/Quảng Khánh, và có thể đã bắn pháo làm hỏng một phần Bảo Khánh linh từ.
Đến thời điểm 1952-53, bà Phạm Diệu Hòa vừa là sư trụ trì của bên chùa, vừa là thanh đồng của bên đền. Qua nội dung câu đối mà bà dâng tiến, chúng ta có thể thấy rằng, lúc ấy, ngôi đền Bảo Khánh linh từ đã thờ Mẫu Liễu Hạnh, hơn thế, Mẫu Liễu Hạnh đã ở ngôi vị cao nhất trong hệ thống thần linh được phụng thờ trong đền (một vế của câu đối CĐ6a.1-CĐ6a.2: “Là thần tiên trên thượng giới, linh khí trùm liền khắp cả bên ngoài đền Sòng đền Cát”).
Hãy đặc biệt lưu ý đến các chữ “đền Sòng đền Cát” trong câu đối do Phạm Diệu Hòa dâng tiến năm 1953, và đặt nó trong quan hệ với sự hiện diện của đôi câu đối do Trần Cung Phức dâng tiến năm 1943, chúng ta sẽ thấy hai tư liệu này có ý nghĩa như là sự nhấn mạnh đến xuất thân của Mẫu Liễu Hạnh PTH, là từ Phủ Giày và từ đền Sòng – Phố Cát. Kết hợp điều này với tư liệu sắc phong đã trình bày ở trên (đi sao sắc ở Phủ Giày và Phố Cát về PTH thờ vọng), chúng ta có thể phỏng đoán một cách tương đối chắc chắn rằng, Phủ Tây Hồ là một phái sinh (hay nhân bản) của Phủ Giày và Phố Cát, nó xuất hiện rất muộn so với hai trung tâm ấy.
3.4.
Bốn là, không chỉ tư liệu gốc tại chính PTH (chủ yếu là bằng văn tự Hán Nôm) như đã trình bày ở trên, mà tư liệu có liên quan ở diện rộng hơn trước thập niên 1940 cũng hầu như không đề cập đến cái gọi là “Phủ Tây Hồ” như ngày nay hay tiền thân của nó. Phải chăng trong hay sau thập niên 1940, PTH như ngày nay mới xuất hiện, hoặc điểm tín ngưỡng thờ phụng Mẫu Liễu ở vị trí PTH ngày nay mới được bên ngoài biết đến.
Có thể nhắc đến nhiều loại tư liệu khác nhau, kể cả thể loại tùy bút hay kí sự của các nhà văn (như Tô Hoài, Trần Lê Văn, Ngô Văn Phú…), nhưng ở đây, xin tạm nêu một số tư liệu nghiên cứu/biên soạn hay tác phẩm văn học đã được biết đến rộng rãi và có uy tín học thuật cao trong học giới như sau. Mảng tư liệu bằng “văn tự cũ”, tức tư liệu Hán Nôm, là Tây Hồ phú (Nguyễn Huy Lượng), Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú), Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), Thăng Long cổ tích khảo, Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ (Đặng Xuân Khanh); mảng tư liệu bằng “văn tự mới”, tức quốc ngữ và Pháp ngữ, là Việt Nam phong tục (Phan Kế Bính), Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam và Văn minh Việt Nam (Nguyễn Văn Huyên)21.
Bài Tây Hồ phú viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Huy Lượng (người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội) là một tác phẩm văn học nổi tiếng, được biết đến rộng rãi trong giới nghiên cứu văn học. Tác phẩm có niên đại rõ ràng. Đó là, vào ngày hạ chí năm Tân Dậu (1801), vua Bảo Hưng triều Tây Sơn có tổ chức lễ tế trời đất tại đền Phương Trạch tại Hồ Tây, Hà Nội. Trong dịp này, Nguyễn Huy Lượng được lệnh soạn 1 bài thơ và 1 bài phú bằng chữ Nôm nói về cảnh Tây Hồ (xem Vũ Thanh Hằng 1988). Bài phú này có nhắc đến nhiều thắng cảnh và đền miếu xung quanh Hồ Tây (như đền Kim Ngưu, đền Mục Lang, quán Trấn Quốc, quán Thiên Niên, ghềnh Vạn Bảo,…), nhưng không xuất hiện chữ “Phủ Tây Hồ” hay một chữ nào tương ứng với nó. Có hai câu sau đây trong bài thường được xem là có liên quan đến truyền thuyết (hay giai thoại văn học) Liễu Hạnh gặp và xướng họa thơ văn cùng nhóm Trạng Bùng tại Hồ Tây22:
“Trạnh nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm dường thỏa ý giao du,
Tòa đá nọ ghi câu danh họa, dòng nước kia nổi chén tạc thù”
Tuy nhiên, nội dung hai câu này có thực sự nhắc lại truyền thuyết trên hay không thì hiện chúng tôi chưa dám chắc (vì không có nguyên chú của Nguyễn Huy Lượng), cần gác lại để khảo cứu sau. Một điểm thú vị của bài phú này, theo chúng tôi, là nằm ở các nguyên chú của tác giả (một người rất am tường về vùng Hồ Tây)23; qua các nguyên chú ấy, chúng ta sẽ hiểu rõ thêm ẩn ý của chính văn và biết được đôi nét tình hình vùng Hồ Tây đầu thời Tây Sơn. Nguyễn Huy Lượng có chú thích (nguyên chú) tương đối cụ thể với những câu có liên quan đến đền Kim Ngưu ở làng Tây Hồ và vị thần được thờ trong đó. Thế nhưng, đáng chú ý là, ông không có nguyên chú nào dành cho truyền thuyết/giai thoại về Liễu Hạnh, cũng như cho một ngôi đền nào đó thờ Liễu Hạnh ở làng Tây Hồ lúc đó24
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840)25 có nhắc đến “Tây Hồ” và “hồ Kim Ngưu” [Phan Huy Chú 1992: 44], nhưng đó là Tây Hồ ở Thanh Hóa (sau điện Lam Kinh). “Hồ Kim Ngưu” có lẽ là ám chỉ truyền thuyết trâu vàng Hồ Tây ở Hà Nội (theo chú thích của tổ phiên dịch Viện Sử học). Còn về Phủ Tây Hồ (hoặc tiền thân của nó là Bảo Khánh linh từ) thì không thấy bộ sách này nhắc tới.
Đại Nam nhất thống chí, theo Trần Văn Giáp [Trần Văn Giáp chủ biên 1971:481], là bộ sách do Cao Xuân Dục (1842-1923) làm tổng tài biên tập, được in trong triều Duy Tân (1907-1916), có một quyển riêng cho tỉnh Hà Nội (quyển XIII – Tỉnh Hà Nội, xem Quốc sử quán triều Nguyễn 1997:159-235). Về đền miếu và chùa quán ở khu vực Hồ Tây, quyển Tỉnh Hà Nội có đề cập đến chùa Địa Linh26 (tức chùa Phổ Linh, ngôi chùa nằm ngay gần Phủ Tây Hồ ngày nay, tên thường gọi là “chùa Tây Hồ”), nhưng không có một dòng nào có thể xem là ghi về Phủ Tây Hồ (hoặc tiền thân của nó là Bảo Khánh linh từ).
Liên quan đến việc thờ Mẫu Liễu Hạnh, trong quyển Tỉnh Nam Định thuộc bộ sách trên, ta có thể thấy ghi chép về Đền Liễu Hạnh phu nhân27 [Quốc sử quán triều Nguyễn 1997:356-57]. Như vậy, có thể thấy rằng, vào khoảng những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 (trước và sau năm 1900), khi đền Liễu Hạnh phu nhân tại Phủ Giày – Nam Định đã nổi tiếng, thì cái gọi là Phủ Tây Hồ có lẽ chưa xuất hiện. Bảo Khánh linh từ lúc đó chắc hẳn mới chỉ là ngôi đền của một xóm dân cư nhỏ bên cạnh Hồ Tây, hầu như chưa được văn nhân bên ngoài biết đến. Bản thân chữ “Phủ” như trong cách gọi “Phủ Giày/Dày”, “Phủ Tây Hồ”, “Phủ Na”,… cũng không thấy xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí, tuy nhiên, chắc chắn đến trước thế kỉ 18 chữ “Phủ” hay “Phủ thờ” đã rất thông dụng trong tiếng Việt (xem Alexandre de Rhodes 1651: 183, và Pierre Pegneaux de Behaine 1999:380)28.
Sách Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ (mang kí hiệu VHv.2471, do Đặng Xuân Khanh biên soạn năm 1956) và Thăng Long cổ tích khảo (mang kí hiệu A.1820) có nhắc đến đền Kim Ngưu (tức Kim Ngưu từ trong tờ 18b bản VHv.2471 – dẫn theo Ngô Đức Thọ chủ biên 2007 và theo Nguyễn Thúy Nga – Nguyễn Văn Nguyên chủ biên 2007: 420), tức là ngôi đền nằm ngay cạnh PTH và ngày này thì được xem là một bộ phận của cụm tín ngưỡng PTH. Thế nhưng, cả hai lại không có dòng nào nói đến PTH hay Bảo Khánh linh từ.
Thêm nữa, trong những sách Hán Nôm hồi nửa đầu thế kỉ 20 về Hà Nội được biên soạn trước Thăng Long cổ tích khảo, có cuốn Tây Hồ chí29, cuốn này cũng không nhắc gì đến PTH hay Bảo Khánh linh từ, mặc dù có đề cập nhiều đến Hồ Tây và vùng xung quanh.
Cuốn Việt Nam phong tục viết bằng quốc ngữ (in lần đầu năm 1915, nhà in Lê Văn Phúc) của Phan Kế Bính (1875-1921) có mục Thanh đồng nói về việc thờ đức Thánh Trần, và mục Đồng cốt nói về việc thờ các công chúa/nữ thần như Liễu Hạnh công chúa – Thượng ngàn công chúa. Về những điểm tín ngưỡng nổi tiếng của đồng cốt lúc bấy giờ, ông chỉ nhắc đến “đền Lộ”, “phủ Dày”; không thấy nhắc đến PTH. Cụ thể như sau: “Cứ mỗi năm ngày mồng sáu, bảy, tháng hai là ngày hội đền Lộ (đền thờ bà Thiên hậu), ngày mồng tám tháng ba là ngày hội phủ Dầy (đền thờ bà Chúa Liễu), đều gọi là ngày hội Bà cốt, thì các đồng cốt trảy về đền lễ bái đông lắm” [Phan Kế Bính 1995:239].
Người được xem là nhà nghiên cứu mở đầu cho lĩnh vực nghiên cứu hiện đại về sự phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh (và các vị thánh bất tử ở Việt Nam) là Nguyễn Văn Huyên (theo nhận định của nhóm Vũ Ngọc Khánh). Năm 1944, ông cho xuất bản hai tác phẩm quan trọng, đều viết bằng tiếng Pháp, trong đó có những ghi chép về sự phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh, là Văn minh Việt Nam (La Civilisation annamite) và Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam (Le Culte Des Immortels En Annam, còn được dịch là Sự phụng thờ các vị thánh bất tử ở Việt Nam). Trong chương Đời sống tôn giáo của cuốn thứ nhất, ông có đề cập đến việc thờ chư vị, xem đó là một trong những biểu hiện sinh động nhất và dân gian nhất của đạo Lão. Chư vị là những thần linh nữ và nam ở ba thế giới (tam phủ: thiên phủ, địa phủ, thủy phủ). Theo ông, “các nữ thần, Thánh Mẫu chiếm ở đấy vai trò trội hơn hẳn so với các Đức Ông chỉ thấy ở một vài đền. Trong các Thánh Mẫu, vị được nhiều người biết nhất là Liễu Hạnh [Nguyễn Văn Huyên 2005: 350-51]. Về các nơi thờ Liễu Hạnh tiêu biểu lúc đó, ông đề cập đến trong đoạn sau: “Tục thờ Chư vị rất phổ biến. Rất nhiều đàn bà thờ Chư vị. Hầu hết các đền đều có bàn thờ các vị thánh này. Một số đền như đền thờ bà Liễu Hạnh tại Phủ Giầy, tỉnh Nam Định, cuốn hút rất đông người trẩy hội vào những ngày lễ. Một số đền khác ở Hà Nội đông người đến lễ tới mức giá một lễ phong chức bà đồng trở thành quá đắt, không thể nào với tới đối với những ai không dư dật lắm” [Nguyễn Văn Huyên 2005: 352]. Như vậy, ở đây, ta cũng không tìm được một ghi chép nào về Phủ Tây Hồ.
Thêm nữa, trong cuốn thứ hai, Nguyễn Văn Huyên đã dựa vào VCTN của Đoàn Thị Điểm và Thần tích làng Vân Cát của tổng Đồng Đội huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định để tóm tắt về lai lịch – cuộc đời Mẫu Liễu30. Bởi vậy, ông có nhắc đến việc Liễu Hạnh gặp Trạng Bùng tại Hồ Tây, như sau: “Thường thì ngài – chỉ Liễu Hạnh, chú của cxg – dạo chơi các thắng cảnh ở kinh đô. Một lần, bên bờ hồ Tây, người đã hóa làm một cô hàng rượu, xướng họa thơ văn với danh sĩ Phùng Khắc Khoan và hai ông bạn Ngô, Lý” [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty chủ biên 1990: 65; Nguyễn Văn Huyên 1996:153]. Thế nhưng, trong phần nói về các nơi thờ phụng Mẫu Liễu Hạnh chính yếu của thời đó, ở vùng đồng bằng Bắc bộ và Hà Nội, không thấy Nguyễn Văn Huyên đề cập đến PTH (hay Bảo Khánh linh từ). Ông viết: “Thánh mẫu bất tử Liễu Hạnh là vị thần tôn quí của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Để phụng thờ ngài, người ta đã xây ba trung tâm quan trọng, hàng năm mở nhiều cuộc hành hương trọng thể. Đó là Phủ Giầy ở huyện Vụ Bản (Nam Định) nơi giáng sinh đầu tiên; Phố Cát ở huyện Thạch Thành và Đền Sòng ở phủ Hà Trung (đều thuộc Thanh Hóa) là nơi giáng thế các lần sau. Tại Hà Nội, ngoài những ngôi chùa có gian riêng thờ Mẫu, cạnh nơi thờ Phật, phải kể đến hai ngôi đền đặc biệt cung hiến cho bà: đền Văn Tân trên đường Sinh Từ và đền Sùng Sơn vọng từ trên đường đi về nhà dòng xứ Ăngtoan/Saint Antoine ở phía Nam thành phố31”. [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty chủ biên 1990: 65; Nguyễn Văn Huyên 1996: 154]. Ngoài hai ngôi đền được nhắc qua ở trên, Nguyễn Văn Huyên còn khảo tả tương đối chi tiết về đạo quán Bích Câu, chùa Ngọc Hồ, đền Vọng Tiên. Tại đạo quán Bích Câu khi đó, có các pho tượng: Liễu Hạnh (áo đỏ), Hồng Nương (áo xanh), Quế Nương (áo trắng), Thượng Ngàn (áo xanh), Mẫu Thoải (áo trắng) [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty chủ biên 1990: 65-66; Nguyễn Văn Huyên 1996:199-200].
__________
12 Như nhiều người đã biết, bốn chữ Tây Hồ phong nguyệt này đã xuất hiện trong bản kể VCTN của Đoàn Thị Điểm với vai trò là cái biển bán hàng của Mẫu Liễu ở Tây Hồ. VCTN kể rằng: ba văn nhân (Phùng Khắc Khoan, cử nhân họ Ngô, tú tài họ Lý) đeo túi thơ mang bầu rượu đến Tây Hồ tản bộ, “cứ lần theo bờ hồ mà đi, nhìn xem phong cảnh, chợt thấy thấp thoáng dưới bóng rặng cây hòe ở đằng xa, ló ra một tòa tửu lâu, làn hoa khuất khúc, trúc mọc lơ thơ, trước quán có treo cái biển đề bốn chữ Tây Hồ phong nguyệt thật lớn… Trong của màn the lấp loáng, có một vị nữ nhân tươi trẻ mặc áo đỏ, đứng tựa trước cửa sổ” [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty chủ biên, 1990: 33].
13 Xin chân thành cảm tạ ông Trương Công Đức đã cho phép chúng tôi trực tiếp xem, chụp lại toàn bộ số sắc này bằng máy ảnh kĩ thuật số, và cũng đã cho phép công bố phục vụ mục đích học thuật.
Trong khảo tả đầu thập niên 1990 của Hà Đình Thành, và ngay cả trong Bản dịch Hoàng Giáp [Phủ Tây Hồ Hà Nội 2006], mới chỉ có tư liệu hoành phi-câu đối-đại tự, mà chưa có phần sắc phong.
Phần tư liệu sắc phong hiện lưu tại PTH mới chỉ được Lí lịch di tích Phủ Tây Hồ năm 1994 của Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội [Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội 1994] nhắc đến một cách khái quát, và trong đó có nhiều điểm không rõ ràng dễ gây ra những hiểu nhầm. Cụ thể như sau: “Mười đạo sắc phong thần do các triều vua ban, trong đó có ba đạo sắc phong cho Liễu Hạnh công chúa, Quỳnh Hoa và Quế Hoa, bảy đạo sắc phong cho thần Trâu Vàng (Kim Ngưu). Thời Lê có sắc: Cảnh Hưng nguyên niên (1740), Cảnh Hưng thứ 28, Cảnh Hưng thứ 44. Thời Tây Sơn có sắc Quang Trung năm thứ 5. Thời Nguyễn có niên hiệu năm Minh Mệnh năm thứ 20, Đồng Khánh nhị niên, Khải Định cửu niên, Tự Đức tam niên…”[Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội 1994: 15].
14 Theo kết quả khảo sát của nhóm Ngô Đức Thịnh – Phạm Quỳnh Phương (xem Ngô Đức Thịnh chủ biên 2002:134- 210), chúng ta biết rằng: cụm di tích hay quần thể di tích Phủ Giày có 3 điểm chính là: Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Lăng Mẫu. Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương xã Kim Thái huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Phủ Vân Cát cách Phủ Tiên Hương chừng 1 km, thuộc thôn Vân Cát xã Kim Thái. Trước đây, hai thôn Tiên Hương và Vân Cát vốn nằm trong cùng một làng An Thái (xem sđd:180).
Về Phủ Tiên Hương, nhóm tác giả này cho biết: “Năm 1986, theo báo cáo kiểm kê của Bảo tàng Nam Hà,….di tích có 31 đạo sắc phong kể từ năm Chính Hòa thứ tư (1688) đến năm Khải Định thứ chín (1924)…” (xem sđd:170). Về Phủ Vân Cát, không thấy nhóm tác giả nói đến sắc phong. Vậy, phải chăng bảo sao hiện lưu tại PTH là được sao từ 1 trong 31 đạo sắc phong của Phủ Tiên Hương ? Một căn cứ khác mang tính tư liệu tại chỗ cho suy luận này là việc một người trưởng họ Trần ở Tiên Hương dâng câu đối cho PTH vào năm 1943.
Tuy nhiên, vì sao lại sao sắc phong có niên đại năm Minh Mệnh 20 (1859) mà không phải sắc sớm hơn, hoặc muộn hơn, là vấn đề cần tìm hiểu tiếp. Bước đầu, từ quan hệ giữa bản sao sắc phong này với một số câu đối trong Phủ chính, chúng tôi tạm thời suy đoán thời điểm người PTH về Phủ Tiên Hương và vào Phố Cát sao sắc là vào thời Bảo Đại (1926-1945), mà hẹp hơn nữa, có thể là trong thập niên 1940.
Cần chú ý thêm rằng, 3 vị thần chính được thờ tại Phủ Tiên Hương và Phủ Vân Cát hiện nay là Mẫu đệ nhất Thượng Thiên (Liễu Hạnh), Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn, Mẫu đệ tam Thoải phủ (xem sđd: 171, 176), mà không phải là 3 vị ghi trong sắc phong (Đế Thích tiên đình Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị ngọc nữ Quỳnh cung Duy Tiên công chúa, Đệ tam ngọc nữ Quảng cung Quế Hoa công chúa).
15 Theo tư liệu Hồ sơ lý lịch di tích đình Tây Hồ do Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội thực hiện năm 2006, đình Tây Hồ hiện cũng lưu giữ được 25 đạo sắc phong, tiếc rằng mô tả trong đó cũng không rõ ràng. Cụ thể, mô tả trong hồ sơ di tích đình Tây Hồ như sau: “Sắc phong: 25 đạo sắc phong. Trong đó, có 16 đạo sắc thời Lê, 6 đạo sắc thời Tây Sơn, 3 đạo sắc thời Nguyễn. Sắc sớm nhất có ba đạo sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740): Sắc cho thần Kim Ngưu…Sắc muộn nhất là Khải Định thứ 9 (1924) phong cho thần Kim Ngưu” [Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội 2006:9-10]
16 Tờ cuối cùng trong quyển 2, có ghi chép của người sao sắc về thời gian sao và lí do sao. Về thời gian, là “ngày 18 tháng 9 nhuận năm Nhâm Thìn”. Nếu là năm Nhâm Thìn mà có tháng 9 nhuận thì là năm 1832, nên có thể quyển 1 và 2 này được làm vào năm 1832. Nhưng có thể đây lại là một phương pháp làm giả văn bản, mà thực ra là năm Nhâm Thìn 1952 ?
17 Việc chép sắc phong của một điểm tín ngưỡng nổi tiếng về thờ với tính cách thờ vọng là một hiện tượng phổ biến trong tín ngưỡng Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ, tồn tại cho đến mãi những năm 1950-60 (chẳng hạn việc chép sắc phong của đền Kiếp Bạc, hay của đền Hùng,…).
18 Thần Phật hợp tự là khái niệm của Nhật Bản, chúng tôi tạm mượn dùng ở đây.
19 Ban Quản lý dự án quận Tây Hồ, Công ty tư vấn và thiết kế công trình văn hóa – Bộ Văn hóa Thông tin, 1999 (không có số trang, nhưng là mục Lý do đầu tư). Nguyên văn đoạn này như sau: “Như vậy Phủ Tây Hồ là một di tích trong quần thể di tích của Hồ Tây được xây dựng vào thế kỉ 17 thời Lê Anh Tông. Diện mạo Phủ Tây Hồ hiện nay là kết quả của các cuộc đại trùng tu vào những năm 1943, 1952, 1989, 1990, và 1992”.
20 Chi tiết người trưởng họ Trần ở Tiên Hương dâng câu đối năm 1943 này cung cấp thêm căn cứ cho việc suy đoán của chúng tôi về bản gốc của bản sao sắc phong có niên đại Minh Mệnh 20 (1859) hiện lưu tại PTH là 1 trong 31 đạo sắc phong của Phủ Tiên Hương.
21 Ở đây tạm chưa đề cập đến Hà Nội địa dư (Dương Bá Cung soạn năm 1852), Hà Nội sơn xuyên phong vực (hiện chưa rõ tác giả), Hoàn Long huyện chí (Hoàng Đặng Quýnh soạn năm 1899), một số sách của Ngô Vi Liễn (như Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ xuất bản lần đầu năm 1926), Cố tích và thắng cảnh Hà Nội (Doãn Kế Thiện, xuất bản lần đầu năm 1959),…hẹn một dịp khác. Tuy nhiên, tất cả các tư liệu này đều không đề cập đến Phủ Tây Hồ hay ngôi đền Bảo Khánh linh từ.
22 Người đầu tiên cho rằng hai câu này ghi lại giai thoại văn học Liễu Hạnh gặp và xướng họa cùng nhóm Trạng Bùng có lẽ là Bùi Văn Nguyên. Trong bản kể lại truyền thuyết Tiên Quỳnh Hoa in trong cuốn Truyền thuyết ven Hồ Tây (xem Bùi Văn Nguyên – Vũ Tuấn Sán – Chu Hà 1975:57-59), ông có dẫn hai câu này (có đôi chỗ khác với phiên âm của Vũ Thanh Hằng) kèm theo các chú thích như sau:
“Trong Tây hồ phú Nguyễn Huy Lượng đã ghi lại giai thoại văn học này:
Chạnh nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm chừng thỏa ý giao phu.
Tòa đá nọ hãy ghi câu canh họa, dòng nước kia dường nổi chén tạc thù.
Giao phu: Chữ Kinh dịch. Ý nói những người cùng chí hướng, trao đổi tâm sự với nhau, không chút ghi kỵ. Câu canh họa: câu thơ xướng họa”
Sau này, Hà Đình Thành đã chép lại y nguyên (gồm cả chú thích) đoạn văn này vào phần mở đầu trong khảo tả về PTH của mình (xem Hà Đình Thành 2002:211). Nhóm Lễ Trung Vũ lại chép một lần nữa (xem Lê Trung Vũ chủ biên 2001:445), có lẽ là chép từ khảo tả của Hà Đình Thành.
23 Tạm thời chúng tôi cho đây là nguyên chú của chính Nguyễn Huy Lượng. Cũng có thể đặt giả thiết đó là lời chú của người đời sau.
24 Liên quan đến khu vực phường Quảng Bá, Nguyễn Huy Lượng có những nguyên chú đáng chú ý sau (dựa theo bản phiên âm/dịch nghĩa của Vũ Thanh Hằng: Vũ Thanh Hằng 1988)
Nguyên chú 9: “Theo Kim ngưu ký, Cao Biền đuổi con trâu vàng tới Hồ Tây thì trâu mất tích, biết đây là nơi nhiều vượng khí, bèn lập kinh đô và khai mở Hồ Tây để tẩm mạch Bắc quốc”.
Nguyên chú 15: “Trên hồ có một toà thạch tháp (giường đá) tương truyền là nơi tiên để báu vật”.
Nguyên chú 16: “Ở phường Quảng Bá ven hồ có một gò đất (thổ đôi), tương truyền là nơi Cao Vương (Cao Biền) chôn bùa để yểm mạch Kim Ngưu”. “Ở phường Quảng Bá ven hồ có một gò đất (thổ đôi), tương truyền là nơi Cao Vương (Cao Biền) chôn bùa để yểm mạch Kim Ngưu”.
25 Theo Trần Văn Giáp (xem Trần Văn Giáp chủ biên 1971:368-369, 70-72), tác giả Phan Huy Chú (1782-1840, người đã từng có thời gian dài làm biên tu tại Quốc tử giám) đã để ra 10 năm để biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí. Bộ sách này đã được vua Minh Mệnh khen và thưởng vào năm 1821 (Minh Mệnh 2), chính nhờ nó mà nhà vua mời ông ra làm biên tu tại Quốc tử giám. Đây là bộ sử Việt Nam chép theo lối chí, chép lịch sử từ xưa cho đến hết đời Lê. Tuy có học cách chép theo lối chí của sử Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo đúng hẳn một bộ sử của triều đại nào. Nó có sáng tạo riêng theo đúng hoàn cảnh và điều kiện riêng của sử Việt Nam.
26 Đoạn ghi chép về chùa Địa Linh trong Đại Nam nhất thống chí như sau: “Chùa Địa Linh: ở phường Tây Hồ huyện Vĩnh Thuận, dựng năm Lê Vĩnh Thọ thứ 4, bản triều năm Minh Mệnh thứ 4 cho 30 lạng bạc” [Quốc sử quán triều 1997:217].
27 Đoạn ghi chép về đền Liễu Hạnh phu nhân trong Đại Nam nhất thống chí như sau: “Đền Liễu Hạnh phu nhân: ở hai xã An Thái và Vân Cát huyện Vụ Bản. Phu nhân họ Lễ, tương truyền là Vân Cát thần nữ, là thiên tiên giáng thế, thường hiển linh, các triều sắc phong thượng đẳng thần. Hàng năm cứ những ngày 7,8 tháng 3, các xã hội tế đồng cốt các nơi lũ lượt đến dâng lễ, trai gái thôn quê ăn mặc lịch sự đến dâng lễ, là thắng hội trong một vùng. Em gái thứ hai là Quỳnh Cung Duy Tiên phu nhân, em gái thứ ba là Quảng Cung Quế Anh phu nhân, đều được phong Trung đẳng thần”[Quốc sử quán triều 1997:356-57].
28 Năm 2007, nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ đã cho ra mắt một cuốn sách mang tính công cụ rất hữu ích là Từ điển di tích văn hóa Việt Nam. Đây là một tổng hợp công phu từ nguồn tư liệu thư tịch Hán Nôm cho đến đầu thế kỉ 20 liên quan đến di tích lịch sử – văn hóa của Việt Nam. Một lượng tư liệu rất lớn đã được sử dụng, gồm: quốc sử, quốc chí, địa phương chí, phủ chí, huyện chí, truyện kí, thần tích, thần phả, thi văn tập, sách tổng hợp. Riêng về Hà Nội, các tác giả sử dụng những cuốn như Hà Nội địa dư, Hà Nội sơn xuyên phong vực, Thăng Long cổ tích khảo, Hoàn Long huyện chí,… Số di tích của Hà Nội là 140, nhưng không có nơi nào có gắn chữ “Phủ”, chỉ có: đình, miếu, quán, chùa, đền, tháp (xem Ngô Đức Thọ 2007: 644). Tuy nhiên, nếu theo từ điển Việt – La tinh của Pierre Pegneaux de Behaine (soạn năm 1772-1773), chúng ta biết chữ “Phủ” với nghĩa là “đền đài”, và các từ như “Phủ thờ” hay “Địa phủ”/“Thủy phủ”/“Thiên phủ” đã dùng phổ biến trong tiếng Việt ở thời điểm đó, tức thế kỉ 18 (xem Pierre Pegneaux de Behaine 1999:380).Ngược lên nữa, trong từ điển Việt – Bồ – La của Alexandre de Rhodes (in năm 1651), cũng đã có các chữ “Phủ”, “Phủ thờ”, “Thiên phủ”, “Địa phủ”, “Thủy phủ” (xem Alexandre de Rhodes 1651: 183).
29 Về cuốn sách đang gây tranh luận này, chúng tôi sử dụng quan điểm của Đinh Khắc Thuân về thời điểm xuất hiện của nó (xem Đinh Khắc Thuân 2006). Qua khảo sát văn học học, ông cho rằng, Tây Hồ chí có lẽ đã được biên soạn vào đầu thế kỉ 20.
30 Bùi Quang Thanh trong một bài viết gần đây về Nội Đạo Tràng có điểm đến một bài phát biểu vào năm 1940 về Nội Đạo Tràng của Nguyễn Văn Huyên (xem Bùi Quang Thanh 2004). Về tư liệu mà Nguyễn Văn Huyên đã sử dụng trong bài đó (cũng tức là đã sử dụng trong cuốn xuất bản năm 1944 mà chúng tôi đang đề cập), Bùi Quang Thanh cho rằng (xem chú thích 2 của bài đã dẫn): “Thực ra, tác giả Nguyễn Văn Huyên đã gần như sao chép lại chuyện kể về Nội Đạo vốn được ghi chép lại trong cuốn Vân Cát thần nữ truyện của Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) và bổ sung thêm câu chuyện về cuộc đại chiến Sòng Sơn vốn được ghi trong Thần tích làng Vân Cát của tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, ở phần 2 có tựa đề Vân Cát thần nữ -hiện đang được lưu trữ tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội, ký hiệu AFa 15/18 có dấu của Viễn Đông Bác Cổ”.
31 Về đền Văn Tân (tên đúng là Văn Tân, sách đã dẫn của nhóm Vũ Ngọc Khánh – Phạm Văn Ty ghi nhầm thành Văn Tâm), theo nghiên cứu của nhóm Nguyễn Vinh Phúc – Nguyễn Duy Hinh, đền này thờ Liễu Hạnh công chúa, có thần tích bản tiếng Việt, hiện nay nằm ở phố Nguyễn Khuyến [Nguyễn Vinh Phúc – Nguyễn Duy Hinh 2004:19]. Hiện nay (năm 2008), ngôi đền này đã không còn dấu tích trên thực địa, ở địa điểm đó, người ta đang xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân phường Văn Miếu quận Đống Đa (số nhà 82 phố Nguyễn Khuyến). Còn về Sùng Sơn vọng từ, qua tra cứu mạng (chẳng hạn xem Báo điện tử Đặc Trưng), chúng tôi có được thông tin sau: đền này nằm ở
đường Hàng Bột (số nhà 35 phố Tôn Đức Thắng), Sùng Sơn vọng từ có nghĩa là “đền thờ vọng của núi Sùng”. Trần Văn Toàn có nhắc chúng tôi rằng: “người công giáo Việt Nam không dùng cái tên Pháp Ăng-toan (Antoine), nhưng từ thế kỉ 17 đã dùng tên An-tong (tiếng Bồ Đào Nha là Antao) rồi sau đó cho đến ngày nay thì đọc là An-tôn (theo tiếng Latinh là Antonius)”.
Nguồn: VNH3.TB3.5
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Kính mời Quý độc giả xem tiếp: Truy tìm những khoảnh chân thực riêng lẻ: Về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ từ góc nhìn Nhân loại học Lịch sử (Phần 3) – Tác giả: Chu Xuân Giao |