Truyện cổ tích xứ Bắc và dấu ấn địa phương hóa (Phần 2)
Tác giả: Nghiên cứu sinh NGUYỄN HUY BỈNH
(Viện Văn học)
2. Dấu ấn địa phương hóa trong truyện cổ tích xứ Bắc
Trong tâm thức dân gian, khi kể truyện cổ tích, người dân thường cho rằng những câu chuyện đó là có thật, nên khi có dịp, có điều kiện thuận tiện họ lại đem gắn ngay truyện với những danh nhân, danh thắng có thực ở địa phương mình. Qua điều tra điền dã, chúng tôi nhận thấy những câu chuyện cổ tích đã được địa phương hoá ở vùng đất xứ Bắc bằng việc địa danh hóa, tâm linh hóa và nghệ thuật hóa.
Việc địa danh hóa truyện cổ tích xứ Bắc trước hết được thể hiện ở cách gọi tên và kể về những ngọn núi huyền bí luôn chứa đựng những dấu tích kỳ ảo, thơ mộng. Tiêu biểu như truyện cổ tích Tấm Cám với dấu ấn núi Dạm và chùa Bà Tấm (hay còn gọi là chùa Dạm vì nằm trên núi Dạm); tương truyền, ngôi chùa này để thờ bà Tấm, nhân vật đã được đồng nhất với Nguyên Phi Ỷ Lan. Theo khảo sát của chúng tôi, trên ngọn núi Dạm còn có giếng Bống ở cạnh chùa Bà Tấm, người dân địa phương cho rằng, đây là giếng mà cô Tấm đã nuôi cá bống ở đó, phía trước chùa còn có ao Cây Thị (người dân kể rằng, đó là nơi bà cụ bán nước đã mang quả thị về nhà, Tấm chui ra từ trong quả thị ấy, vì thế người ta gọi là ao Cây Thị…). Tác giả Phương Anh, Thanh Hương trong bài viết Trông về kẻ Dạm (14) cũng đã khẳng định, kẻ Dạm có núi Dạm (còn gọi là Đại Lãm Sơn, Cảm Lãm Sơn hoặc Lãm Sơn), trên đính núi Dạm có bàn cờ tiên bị lật ngược, dấu tích trừng phạt của thiên cung đối với các nàng tiên mải mê nơi hạ giới. Như vậy, gắn với ngọn núi này, hiện tượng địa danh hóa truyện kể dân gian diễn ra khá phổ biến.
Dấu tích địa phương hoá trong câu chuyện Tấm Cám còn in dấu ở làng Thuận Quang, Gia Lâm, Hà Nội (xưa thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Ở đây, người dân còn kể về cánh đồng trồng dâu, nơi Tấm gặp vua; dòng sông Đuống, nơi mà hai chị em Tấm – Cám đã đi mò tôm bắt tép; giếng Bống – nơi tấm nuôi cá Bống… Điều đó làm cho các địa điểm, nhân vật vốn phiếm chỉ trong truyện cổ tích Tấm Cám đã được khoác lên mình những danh từ riêng chỉ nhân vật, địa điểm có thực (như ở làng Thổ Lỗi, sông Thiên Đức, Giếng bống, Khiết Nương, Thái Điên, vua Lý Thánh Tông, v.v…). Tất cả khiến cho truyện in rõ dấu ấn của vùng văn hóa xứ Bắc.
Cũng in dấu địa danh hóa truyện cố tích xứ Bắc, trên ngọn núi Phật Tích (hay còn gọi là núi Lạn Kha) ngày nay vẫn còn dấu ấn các truyện như Từ Thức và Vương Chất gặp tiên. Theo sách Hà Bắc ngàn năm văn hiến(15) trên vùng đất Tiên Du, cái tên Phật Tích vừa là tên núi, vừa là tên gọi của một làng. Từ xa xưa, Phật Tích và Tiên Du gần gũi với nhau bởi cùng có chung một sự tích về các nàng tiên từ trên trời đáp xuống dưới ngọn núi này đánh cờ, thưởng ngoạn phong cảnh đẹp. Trên đỉnh núi Phật Tích hiện còn một khối đá vuông, mặt phẳng nhẵn, người già bảo đấy là bàn cờ tiên và được gắn với truyện Vương Chất gặp tiên. Tương truyền, xưa có chàng tiều phu Vương Chất lên núi đốn củi. Đến đỉnh núi, chàng thấy hai cô gái đang mải mê đánh cờ dưới gốc cây thông già, chàng bèn ngả rìu đứng xem. Khi Vương Chất ngoảnh lại nhìn thì thấy chiếc rìu của mình đã mục, gánh củi về nhà thì đã qua bảy đời, chẳng còn ai quen nữa. Tác giả Đinh Gia Khánh trong bài viết Qua việc nghiên cứu các danh từ riêng trong một số truyện cổ tích cho rằng: “Truyện Vương Chất lên núi gặp tiên, mải xem tiên đánh cờ nên quên quay về, khi quay về thì cán của chiếc rìu vác đi đốn củi đã mục nát; vì vậy đời sau gọi núi đó là núi Lạn Kha (cái rìu nát) và huyện đó là huyện Tiên Du (lên cõi tiên chơi). Rõ ràng, truyện đặt ra là để giải thích các địa danh Lạn Kha và Tiên Du”(16). Vì núi có tiên xuống chơi mà Tiên Du thành tên mới. Lại vì núi có rìu mục mà mang tên Lạn Kha. Câu chuyện Vương Chất gặp tiên chỉ là tưởng tượng, nhưng trên thực tế, tại làng Dền và làng Sộp thuộc xã Cảnh Hưng ở bên cạnh xã Phật Tích, nay vẫn còn họ Vương rất lớn, phải chăng, từ xưa, người của dòng họ Vương này đã được huyền thoại hóa qua câu chuyện thần kỳ của làng quê mình.
Khi chúng tôi khảo sát điền dã tại làng Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thì đều được nghe các cụ ở đây kể rằng, Vương Chất là người ở dưới Thôn Phù Lập Thượng, xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Đó là một chàng tiều phu, thường đi lên trên núi Phật Tích kiếm củi. Xưa kia, cũng ở trên núi Lạn Kha này có cả một ngôi nhà đá, tương truyền đó là nhà của ông Vương Chất vẫn thường ở khi lên núi. Nói về các dấu tích trên núi Lạn Kha, sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Núi Lạn Kha ở xã Phật Tích, cách huyện Tiên Du bốn dặm về phía nam, trên núi có muông thú đá, ao rồng và nhà đá; đỉnh núi có bàn cờ bằng đá…”(17). Như vậy, truyện cổ tích Vương Chất gặp tiên đã được gắn với địa danh cụ thể trên núi Phật Tích đó là bàn cờ tiên, ngôi nhà đá và tên ngọn núi Lạn Kha.
Cũng gắn với địa danh núi Phật Tích còn có truyện cổ tích Từ Thức với nội dung kể về cuộc gặp gỡ thần kỳ giữa nàng tiên Giáng Hương và chàng Từ Thức(18). Hàng năm, vào ngày mồng 4 tháng Giêng, tại chùa Phật Tích, trên ngọn núi này dân làng vẫn tổ chức lễ hội với tên gọi là hội khán hoa mẫu đơn. Trong lễ hội, bên cạnh việc người dân đến thắp hương, khấn Phật cầu nguyện những điều tốt đẹp, họ vẫn còn kể về mối tình trong sáng giữa người và tiên. Nhận xét về hiện tượng địa danh hóa truyện cổ tích Từ Thức, tác giả Cao Huy Đỉnh trong sách Tìm hiếu tiến trình văn học dân gian Việt Nam cho rằng: “Truyện Từ Thức bắt nguồn từ đạo Tiên muốn đưa con người sống khổ cực, bất thường và ngắn ngủi ở thế giới hữu hạn này đến cõi trường sinh bất tử của Thiên nhiên. Có lẽ truyện này khởi đầu đã được phổ cập trong dân gian và địa phương hóa ở những miền có thiên nhiên đẹp đẽ làm nơi du ngoại hay hành hương của đông đảo người bấy giờ, như đồi Vạn Phúc ở Tiên Du (Bắc Ninh) và động Thần Phù ở Nga Sơn (Thanh Hóa)”(19).
Nếu các truyện cổ tích thần kỳ xứ Bắc như Tấm Cám, Vương Chất gặp tiên, Từ Thức in dấu ấn địa danh trên các ngọn núi (Dạm, Lạn Kha, Phật Tích), thì truyện cổ tích sinh hoạt xứ Bắc như Anh Trương Chi lại gắn với tên của một dòng sông cụ thể – sông Tiêu Tương. Đây là một trong những dòng sông cổ mà trong tâm thức người dân xứ Bắc nó đã có một đời sống lâu dài, chứa đựng nhiều huyền thoại và những câu chuyện tình ly kỳ, cảm động. Tương truyền, chàng Trương Chi đã đánh cá kiếm sống và buông lời ca câu hát trên dòng Tiêu Tương. Tiếng hát của chàng làm thức tỉnh và lay động tâm hồn con người, khiến nàng Mỵ Nương con quan thừa tướng say mê, tương tư. Nhưng cuộc tình duyên bắt đầu từ tiếng hát ấy đã không vượt qua được nhũng cách trở về mặt thân phận con người, để rồi dẫn đến kết thúc bi kịch của các nhân vật.
Vấn đề địa danh hóa các truyện cổ tích xứ Bắc gắn với ngọn núi và dòng sông diễn ra theo quy luật hình thành các truyện kể dân gian. Các địa danh này chính là môi trường để câu chuyện ra đời, hoặc câu chuyện lưu truyền phù hợp với tâm lý của cư dân cộng đồng được gắn vào đó. Khi được địa danh hóa, các cốt truyện cổ tích trở nên sống động hơn, tăng thêm niềm tin cho người dân vào sự huyễn hoặc. Việc địa danh hóa truyện cổ tích xứ Bắc đã biểu hiện sự khúc xạ mạnh mẽ của cốt truyện trong đời sống tinh thần của người dân.
Trong quá trình lưu truyền, truyện cổ tích xứ Bắc không chỉ gắn với những địa danh, những vùng đất cụ thể của xứ Bắc mà còn gắn với sinh hoạt văn hóa tâm linh trong các tục thờ cúng và lễ hội. Tiêu biểu là truyện cổ tích Tấm Cám gắn liền với tục thờ bà Tấm, bà Cám. Đây là một hiện tượng đặc biệt, bởi lẽ thật khó tìm thấy một nhân vật nào của truyện cổ tích được thờ cúng và tồn tại trong sinh hoạt văn hoá tâm linh, ở nhiều làng xã thuộc xứ Bắc, người dân tin rằng, Tấm là một nhân vật có thực, họ có thể chỉ cho du khách nơi Tấm sinh sống, bắt cá… và còn có nhiều đền thờ nhân vật Tấm. Tác giả Đinh Gia Khánh trong sách Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám(20) đã khảo sát được các điểm thờ bà Tấm ở các làng như: Hương Lãng, Thanh Đặng, Cát Lư, Thục Cầu, Nghĩa Lộ, Hoàng Nha, Thanh Miếu (huyện Văn Lâm xưa thuộc Kinh Bắc, nay thuộc Hưng Yên), Dương Quang, Thuận Quang (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), Sơn Trung, Sơn Nam (huyện Võ Giàng, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), Phú Thị (Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội). Ngoài ra, trong quá trình điền dã tại vùng Phật Tích, chúng tôi nhận thấy tại chùa Linh Quang (tục gọi là chùa Bà Tấm ở thôn Vĩnh Phú, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) cũng thờ Ỷ Lan Thái Phi và có thần tích tương tự như ở các nơi thờ khác.
Gắn với sự tích Ỷ Lan, nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám ở xứ Bắc được thờ ở hơn mười làng thuộc các huyện Gia Lâm, huyện Văn Lâm, huyện Thuận Thành, huyện Tiên Du, và huyện Võ Giàng (xưa đều thuộc tỉnh Bắc Ninh). Trong số các làng xã thờ bà Tấm ở xứ Bắc, hàng năm có những làng tổ chức lễ hội rất long trọng, như ở làng Sơn Nam và Sơn Trung huyện Võ Giàng (ở phía núi Lãm Sơn, tức núi Dạm). Xưa kia, mỗi năm người dân lại mở hội lớn, có 18 xã hàng huyện cùng rước đến đền “bà Tấm, bà Cám”. Hay trong lễ hội đền Bà Tấm ở làng Thuận Quang, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thuộc ngoại thành Hà Nội, các lễ tục liên quan đến việc thờ Bà Tấm vẫn còn duy trì. Hàng năm, người dân tổ chức ngày tiệc, lệ chính vào ngày 19 tháng 2 Âm lịch là ngày sinh của bà, ngày hội lớn là ngày 25 tháng 7, cũng là ngày giỗ bà. Dân làng kiêng kỵ tên thật, gọi Tấm là “đớn”, gọi Cám là “bổi”.
Trong đời sống dân gian xứ Bắc, đã từng xuất hiện sự hỗn dung về tên gọi nhân vật Tấm và Cám qua sự đồng nhất với nhân vật Ỷ Lan, có thể do ban đầu nhân vật lịch sử Ỷ Lan là người nhân hậu đã làm nhiều việc tốt giúp dân nên được móc nối với nhân vật cô Tấm. về sau, Ỷ Lan tham gia vào công việc triều chính, đã có nhiều hành động mạnh mẽ (việc xử Dương Thái Hậu và 72 cung nữ…) nên có thể bà bị người dân gắn với nhân vật cô Cám.
In dấu trong đời sống người dân xứ Bắc, các câu chuyện cổ tích còn được nghệ thuật hóa một cách mạnh mẽ. Trong dân ca Quan họ xứ Bắc, từ xưa đã có điển tích “bát đàn” gắn với truyện cổ tích Anh Trương Chi. Tương truyền, người Quan họ trong những lần mời cơm nhau thường dùng “mâm đan, bát đàn” để đãi khách. Nếu mâm đan (mâm gỗ màu đỏ) gắn với sự tích Ngô Cương chặt cây đan quế ở cung trăng, cứ chặt xong, cây lại liền, thì điển tích bát đàn (bát làm bằng gỗ cây bạch đàn) lại gắn với sự tích Trương Chi – Mị Nương(21). Từ câu chuyện này mà hình tượng chén đàn, bát đàn được coi là tượng trưng cho tình cảm sâu sắc trong tình yêu nam nữ của người Quan họ xứ Bắc.
Ngoài việc trở thành điển tích trong dân ca Quan họ, câu chuyện Trương Chi – Mị Nương cũng đã trở thành một bài diễn ca quen thuộc, nổi tiếng trong dân ca xứ Bắc. Mở đầu bài dân ca là hình ảnh anh Trương Chi xấu người nhưng lại có giọng hát tuyệt hay: Ngày xưa có anh Trương Chi/ Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay… So với văn bản truyện cổ tích, nội dung của bài hát này về cơ bản đã kể lại được toàn bộ câu chuyện về mối tình Trương Chi và Mị Nương. Tuy nhiên, hai văn bản này cũng có những điểm khác nhau, văn bản truyện cổ tích Anh Trương Chi có đầy đủ chi tiết và kể một cách tỉ mỉ về ngoại hình và hoàn cảnh của Trương Chi; còn trong bài diễn ca, hình tượng anh Trương Chi được khắc họa một cách cô đọng, làm nổi bật nét cơ bản trong tính cách và số phận của anh. Một điểm khác biệt nữa, bài hát về sự tích anh Trương Chi lại tồn tại dưới dạng văn vần, ở thế lục bát khác xa về mặt ngôn từ so với truyện cổ tích Anh Trương Chi được kê dưới dạng văn xuôi.
Sức lan tỏa của truyện cổ tích trong đời sống văn hóa dân gian xứ Bắc còn biểu hiện qua việc một số câu chuyện cổ tích xứ Bắc đã trở thành đề tài, chất liệu trong các bài hát dân ca. Đơn cử trong bài dân ca trống quân ở Bắc Ninh có tiêu đề Bốn mươi truyện đã kể một cách vắn tắt về hình ảnh nhân vật Trương Chi và Từ Thức trong truyện cổ tích xứ Bắc: Hát hay xưa có Trương Chi/ Con quan thừa tướng ôm đi tìm vào… Xem truyện Từ Thức tài tình/ Gặp tiên đưa đến thiên đình, nhớ quê… Ở đây, tác giả dân gian đã mượn hình ảnh cúa các nhân vật truyện cổ tích là Trương Chi và Từ Thức làm sinh động nội dung vốn có của bài hát. Từ hình tượng này, bài hát trở nên gần gũi và quen thuộc hơn đối với cá người hát và người nghe. Còn người ứng tác bài hát đã thể hiện được vốn hiểu biết phong phú về các tích truyện cổ dân gian của mình.
Trong môi trường văn nghệ dân gian xứ Bắc, các truyện cổ tích xứ Bắc còn được sân khấu hóa một cách rõ nét. Các nghệ nhân dân gian, các nghệ sĩ dân gian trong khi đi tìm đề tài đã dựa vào nội dung cốt truyện cổ tích để dựng nên các tác phẩm sân khấu của mình, tiêu biểu nhất là trong sân khấu chèo dân gian (chèo sân đình). Hình tượng các nhân vật trong truyện cổ tích xứ Bắc từ xa xưa đã mang đến cho sân khấu chèo dân gian những nhân vật đặc sắc như: cô Tấm, cô Cám, mụ dì ghẻ, ông Bụt, nhà vua, bà hàng nước trong truyện cổ tích Tấm Cám; nhân vật chàng Từ Thức hào hoa, nàng tiên Giáng Hương xinh đẹp trong truyện Từ Thức, hay nhân vật anh Vương Chất lên núi kiếm củi gặp tiên đánh cờ trong truyện Vương Chất gặp tiên… đều đã trở thành những nhân vật nổi tiếng trong các chiếu chèo sân đình xứ Bắc. Từ điều kiện “có tích mới dịch nên trò”, nghệ thuật chèo coi những cốt truyện cổ tích vốn giàu tính kịch, giàu cảm xúc là mảnh đất màu mỡ để khai thác và đưa lên sân khấu của mình những vở diễn khác nhau.
Từ hiện tượng nghệ thuật hoá truyện cổ tích xứ Bắc có thể thấy, truyện cổ tích xứ Bắc một mặt chịu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá dân gian, một mặt nó đã có tác động đến các yếu tố này theo một quy luật riêng, đó chính là quá trình tiếp thu và lan tỏa đã thay đổi những hình thức văn hoá ban đầu. Nghệ thuật hoá làm cho dấu ấn của truyện cổ tích “in hằn” lên các loại hình nghệ thuật dân gian khác. Khi đã tồn tại trong các loại hình nghệ thuật ấy, truyện sẽ được sống trong một môi trường mới, có cách biểu hiện riêng mang đặc trưng của từng loại hình nghệ thuật.
3. Thay lời kết
Tìm hiểu truyện cổ tích xứ Bắc và vấn đề địa phương hoá, chúng tôi muốn khẳng định, truyện cổ tích lưu truyền trong không gian văn hóa xứ Bắc là những truyện phổ biến ở Việt Nam, thậm chí có truyện phổ biến trên thế giới, nhưng riêng những câu chuyện cổ tích được lưu truyền ở xứ Bắc lại mang dáng dấp và đặc trưng văn hoá nơi đây rất rõ rệt. Việc in dấu các địa danh, mang “hơi thở” tín ngưỡng tôn giáo bản địa là một minh chứng cho sức mạnh và sự bồi đắp của văn hoá dân gian xứ Bắc đối với các truyện cổ tích. Bởi cùng tồn tại với truyện cổ tích là một nền văn hoá với hội hè, tín ngưỡng tôn giáo đã ken dày phủ kín đến từng làng xã ở xứ Bắc. Mặt khác, chính sự lưu truyền truyện cổ tích ở xứ Bắc cũng đã góp phần bồi đắp vào nền văn hóa dân gian nơi đây vốn đã phong phú lại càng trở nên phong phú hơn.
Quá trình địa phương hóa các truyện cổ tích xứ Bắc là một quá trình vô cùng phức tạp và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhưng theo chúng tôi, nó có thể được hình thành theo hai hướng sau: Thứ nhất là xu hướng cụ thể hóa, xuất phát từ một địa phương đã có sẵn những yếu tố hiện thực để hình thành nên nội dung cốt truyện. Thứ hai là xu hướng khái quát hóa, đó là việc truyện cổ tích đã được lưu truyền, phổ biến ở nhiều địa phương khác nhau (trong và ngoài nước) nhưng khi được lưu truyền đến vùng đất xứ Bắc đã tồn tại sẵn những địa danh, nhân vật gần gũi và phù hợp với nội dung của truyện thì tại đó nó sẽ được địa phương hóa một cách mạnh mẽ. Trong truyện cổ tích xứ Bắc, đây là một xu hướng diễn ra khá phổ biến.
__________
(1) Trần Quốc Vượng (chủ biên): Cơ sở văn hóa Việt Nam (in lần thứ tám), Nxb. Giáo dục, H, 2006, tr.209-210.
(2) Ngô Đức Thịnh: Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam. Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2004, tr.49.
(3) Nhiều tác giả: Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3 (Đất nước con người). Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, 1974.
(4) Trần Quốc Vượng: “Xứ Bắc – Kinh Bắc một cái nhìn địa – văn hóa”. Tạp chí Văn học, số 3-1994.
(5) Xin xem Nguyễn Văn Huyên: Bức tranh địa lý hành chính của một tỉnh Việt Nam xưa: Tỉnh Bắc Ninh (hay Kinh Bắc) in lại trong Nguyễn Văn Huyên – Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, H, 2003.
(6) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1 (Dư địa chí, nhăn vật chí). Sử học, H, 1960, tr.86.
(7) Tiêu biểu như Hoàng Tiến Tựu: Văn học dân gian Việt Nam, tập 2 (Nxb. Giáo dục, H, 1990); Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vỹ: Văn học dân gian Việt Nam (Nxb. Trung học chuyên nghiệp, H, 1990); Đồ Bình Trị: Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian (Nxb. Giáo dục, H, 1999); Phạm Thu Yến, Nguyễn Bích Hà, Lê Trường Phát: Văn học dân gian Việt Nam (Nxb. Đại học Sư phạm, H, 2002); Nguyễn Thị Huế: Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 6, 7 (Truyện cổ tích) (Nxb. Khoa học xã hội, H, 2004); Nguyễn Bích Hà: Giáo trình văn học dân gian Việt Nam (Nxb. Đại học Sư phạm, H, 2008)…
(8) Theo Đinh Gia Khánh trong cuốn Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tẩm Cám (Nxb. Văn học, H, 1968) thì: Cuối thế kỷ XIX, nữ sĩ Roanphơ Cốcxơ, một nhà sưu tầm truyện dân gian người Anh đã tập hợp và giới thiệu 345 truyện kiểu Tấm Cám trong cuốn sách nhan đề Truyện Cô Tro Bếp, ba trăm bốn mươi lăm dị bản; tác giả Mêlêtinxki trong sách Nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ đã tập hợp được trên 500 truyện kiểu Tấm Cám.
(9) Xin xem Trần Văn Giáp: “Bài diễn ca thần tích đền bà Tấm”. Tạp chí Dân tộc học, số 3-1975.
(10) Đinh Gia Khánh tuyển tập, tập 1. Nxb. Giáo dục, H, 2007, tr.613.
(11) Nguyễn Bích Hà: “Qua truyện Tấm Cám ở vùng Kinh Bắc, tìm hiểu quá trình truyền thuyết hóa truyện cổ tích”. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6-2002, tr.5.
(12) Chu Quang Trứ: Văn hóa dân gian ở Gia Đông (Bắc Ninh). Mỹ thuật, H, 2001, tr.105.
(13) Nguyễn Thị Huế: Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam. Khoa học xã hội, H, 1999, tr. 114.
(14) Phương Anh, Thanh Hương: Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 2. Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, 1976.
(15) Thanh Phương, Phương Anh: Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập I (Các di tích lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật). Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, 1973.
(16) Đinh Gia Khánh tuyển tập, tập 1. Nxb. Giáo dục, H, 2007, tr.602.
(17) Quốc sử quán triều Nguyễn (biên soạn): Đại Nam nhất thống chí, tập V (Phạm Trọng Điềm phiên dịch; Đào Duy Anh hiệu đính). Nxb. Khoa học xã hội, H, 1971, tr.70.
(18) Truyện kể rằng: Xưa kia, quanh ngôi chùa Phật Tích trồng nhiều hoa mẫu đơn, vẻ đẹp của hoa làm rực rỡ cả một vùng. Hàng năm, xuân về hoa nở, người từ muôn nơi về đây ngắm hoa, vãn cảnh. Một lần, nàng tiên Giáng Hương xuống trần gian dự hội, nàng chẳng may làm gãy một cành hoa nên bị nhà chùa giữ lại. Hôm ấy, quan huyện Từ Thức cũng đến dự, thấy người con gái nhan sắc tuyệt trần bị nhà chùa giữ, chàng bèn cởi áo khoác để chuộc nàng. Giáng Hương hết hạn ở dưới trần gian, trước khi trở về tiên giới, nàng đọc một bài thơ cho Từ Thức nghe và dặn, nếu muốn tìm nàng thì đi theo dòng nước đến cửa Thần Phù sẽ gặp lại nhau, về sau, Từ Thức từ quan đi tìm người đẹp, chàng đi theo lời dặn của Giáng Hương, đến cửa Thần Phù quả nhiên thấy có bài thơ Giáng Hương đã từng đọc cho nghe. Chàng đọc lại bài thơ thì cửa động mở ra, chàng gặp lại Giáng Hương, rồi sau đó hai người kết duyên chồng vợ. (Theo lời kể cúa ông Đỗ Năng 81 tuổi và người dân thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh).
(19) Cao Huy Đỉnh tuyển tập tác phẩm. Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, 2004, tr.696.
(20) Đinh Gia Khánh tuyển tập, tập 1. Nxb. Giáo dục, H, 2007, tr.375.
(21) Người xứ Bắc kể rằng: Trương Chi chết, hồn chàng nhập vào cây bạch đàn. ít lâu sau, có người vớt được cây gỗ, vô tình đem bán cho Thừa tướng – cha Mị Nương. Thừa tướng sai người tiện làm một bộ chén trà. Một hôm, Mị Nương cầm chén rót nước, thì hình ảnh người chèo thuyền đánh cá hiện lên trong lòng chén với tiếng hát năm xưa vẫn còn văng vẳng. Mỵ Nương xúc động nhớ lại mối tình đã qua, một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén và chiếc chén tan ra thành nước.
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
– Ban Tu thư Thánh địa Việt Nam học (https://thanhdiavietnamhoc.com) chuyển nội dung bài viết trên từ tệp PDF (bản cứng) lên Webiste Thánh địa Việt Nam học. Quý độc giả sử dụng nội dung bài viết này, vui lòng ghi rõ: Nguồn: Tác giả: Nghiên cứu sinh NGUYỄN HUY BỈNH ; Trích dẫn từ: Thánh địa Việt Nam học (https://thanhdiavietnamhoc.com) – ngày 26/08/2020. – Ban Tu thư Thánh địa Việt Nam học sẽ tiếp tục đăng tải nhiều bài viết đa dạng chủ đề đến Quý độc giả. – Mọi đóng góp ý kiến, gửi bài viết, v.v…, Quý độc giả vui lòng gửi email đến địa chỉ: thanhdiavietnamhoc@gmail.com để liên lạc với chúng tôi. Xin chân thành cám ơn! |
Download file (PDF bản cứng): Truyện cổ tích xứ Bắc và dấu ấn địa phương hóa (Bản đầy đủ) – Tác giả: NCS. Nguyễn Huy Bỉnh |
Mời xem lại: