Văn hóa sông nước Nam bộ nhìn từ Khảo cổ học (Phần 1)
NGUYỄN THỊ HẬU
1. KHÁI QUÁT CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ NAM BỘ TỪ NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC
1.1. Môi trường sinh thái
Nam Bộ có địa hình tự nhiên khá đa dạng, có thể phân biệt ra ba dạng địa hình (hoặc ba vùng địa hình). Đông Nam bộ là vùng đất đỏ badan, vùng phù sa cũ. Miền Tây Nam bộ, cũng được gọi là Châu thổ hoặc đồng bằng sông Cửu Long, Vùng thứ ba nằm trong hải phận Nam bộ Việt Nam, gồm hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ. Có thể coi đây là vùng địa hình biển đảo. Nghiên cứu khảo cổ học Nam bộ phải bắt đầu và dựa vào môi trường sinh thái. Trải qua thời kỷ phát triển địa chất lâu dài, cho đến nay trên đất liền Nam bộ có hai tiểu vùng sinh thái tự nhiên, cũng là hai tiểu vùng văn hóa phát triển liên tục từ thời cổ cho đến nay:
– Đông Nam bộ gồm lưu vực Đồng Nai, Sài Gòn, sông Bé, Vàm Cỏ với các dạng địa hình – hệ sinh thái đồi núi rìa cao nguyên, châu thổ cũ và khu vực rừng ngập mặn ven biển.
– Tây Nam bộ chủ yếu là châu thổ sông Cửu Long mới và đang thành tạo, với tứ giác nước Long Xuyên – Đồng Tháp Mười kéo dài tới vùng ngập mặn bán đảo Cà Mau.
Sự phân chia tiểu vùng này tất nhiên chỉ là tương đối, với “ranh giới” chuyển tiếp Đông – Tây Nam bộ là Long An. Tuy ‘ranh giới” chỉ là tương đối nhưng trên quan niệm sinh thái nhân văn thì hai tiểu vùng sinh thái – văn hóa trên không thể gộp chung mà rõ ràng cần được nhìn nhận như một “phức hệ văn hóa” trên cơ sở sự đa dạng của địa hình – sinh thái.
1.2 Văn hóa Đồng Nai thời tiền sử (khoảng từ 2000 năm trước công nguyên đến Công nguyên)
Phân bố ở tiểu vùng văn hóa Đông Nam bộ. Sau thời đại Đồ Đá mà dấu vết phát hiện được còn khá ít ỏi, từ khoảng 4000 năm cách nay ở lưu vực sông Đồng Nai xuất hiện một lớp cư dân mới thuộc thời đại Kim khí – chủ nhân của văn hóa Đồng Nai. Sự phát triển của văn hóa Đồng Nai đã làm cho miền Đông Nam bộ trở thành một trong 3 trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên: Đông Sơn ở miền Bắc – Sa Huỳnh ở miền Trung – Đồng Nai ở miền Nam.
Hàng trăm di tích văn hóa Đồng Nai từ giai đoạn sớm đến muộn phân bố trên địa bàn rộng rãi khắp miền Đông Nam bộ từ vùng đồi gò cao đến vùng đất thấp ven biển. Trên quan điểm gắn liền việc nghiên cứu di tích khảo cổ với môi trường phân bố có thể nhận thấy các di tích khảo cổ văn hóa Đồng Nai chia thành 3 khu vực gắn liển với lưu vực ba dòng sông Đồng Nai, Sài Gòn và Vàm Cỏ.
Căn cứ vào hệ thống di tích và những chất liệu, loại hình di vật của văn hóa Đồng Nai tìm hiểu về đời sống của cư dân cổ Đông Nam Bộ, các nhà nghiên cứu cho rằng hình thức quan trọng và phổ biến nhất, trong đời sống kinh tế truyền thống ở đây là trồng trọt trên vùng bán sơn địa, nghề thủ công và giao thương trao đổi trong vùng và những vùng xa hơn ở ĐNA lục địa và hải đảo… Yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của văn hóa Đồng Nai là các dòng sông và vùng ven biển. Văn hóa Đồng Nai là bước mở đầu cho truyền thống văn hóa phát triển rực rỡ vào khoảng thời gian trước – sau Công nguyên và sẽ trở thành nguồn gốc bản địa của một văn hóa cổ ở Nam bộ: văn hóa Oc Eo với trung tâm là đồng bằng sông Cửu Long và giai đoạn muộn có mặt ở miền Đông Nam bộ [3].
1.3 Văn hóa Óc Eo thời Vương quốc Phù Nam (thế kỷ 1 -7)
Phân bố ở tiểu vùng văn hóa Tây Nam bộ. Đây là một nền văn hóa cổ với trung tâm là tứ giác Long Xuyên, vùng trũng ngập lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay có nhà nghiên cứu đã nhận diện được ba “tiểu quốc” của Phù Nam phân bố tại vùng Nam bộ – Việt Nam là: tiểu quốc Na Phất Na (khu vực Óc Eo – Ba Thê, An Giang); tiểu quốc “chinh phục đầm lầy” khu vực Gò Tháp, Đồng Tháp và tiểu quốc Cát Tiên (Lâm Đồng) [6].
Địa bàn phân bố văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ
Vương quốc Phù Nam
Môi trường của văn hóa Oc Eo là vùng sông rạch, đầm đìa, bưng biền… một số đồi núi như Núi Sam, Núi Sập, Bảy Núi, Ba Thê, những giồng, gò nổi cao giữa vùng thấp trũng ngập nước hàng năm. Đây là vùng chịu ảnh hưởng rất lớn của các đợt biển tiến thời Holocene[1] từ khoảng 5000 năm trước công nguyên đến khoảng 1200 năm sau công nguyên (thế kỷ 12). Thời kỳ trước công nguyên biển tiến thời Holocene đã ngăn chặn sự lan tỏa của văn hóa Đồng Nai xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long, vì vậy ở miền Tây Nam bộ tìm thấy khá ít ỏi di tích khảo cổ thời Tiền sử. Chỉ đến khoảng đầu công nguyên nước biển rút thì các nhóm cư dân bản địa của văn hóa Đồng Nai bắt đầu mở rộng địa bàn cư trú xuống vùng này cùng với một bộ phận cư dân từ hải đảo vào.
Các cuộc khai quật từ thời L.Malleret (1944) đã tìm thấy dấu tích khoảng 30 “đường nước cổ” là các kênh đào ngang dọc ở vùng thấp trũng tứ giác Long xuyên. Đây vừa là hệ thống đường giao thông lợi dụng thủy triều ra vào cảng thị Oc Eo, vừa là hệ thống thủy lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long. Trên vùng trung tâm khảo cổ học đã phát hiện những cổ vật quý giá, nhiều di vật như tượng thờ ngay trong các di tích đền tháp, mộ táng, vật dụng phục vụ sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần tồn tại khá nhiều tại các di chỉ cư trú và di tích kiến trúc tôn giáo [2].
Trong thời kỳ hình thành và phát triển của văn hóa Oc Eo từ thế kỷ 1 -7 khu vực Oc Eo – Ba Thê được nhìn nhận là một cảng biển – đô thị của vương quốc cổ Phù Nam, trạm dừng chân quan trọng trên tuyến đường biển nối liền Nam Á và Bắc Á với hai trung tâm văn minh lớn của nhân loại là Ấn Độ và Trung Hoa. Để có thể tồn tại và phát triển, cư dân Oc Eo đã tạo ra những điều kiện sống thích hợp, chấp nhận và khai thác những mùa nước nổi theo chu kỳ hàng năm. Đặc điểm nổi bật của lối sống cư dân văn hóa Oc Eo là tiếp tục cuộc sống trên nhà sàn ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, chọn các vùng đất cao như đồi, gò, giồng…để cư trú và canh tác [3].
1.4 Thời kỳ vùng đất Nam bộ hoang hóa và bắt đầu khai phá (từ thế kỷ 8 – 19)
Đợt biển tiến Holocene IV ở đồng bằng sông Cửu Long đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho nền văn hóa Oc Eo rực rỡ “đột ngột biến mất”, vì phần lớn cư dân buộc phải dần dần rời bỏ địa bàn cư trú thấp trũng, tìm các gò giồng cao để ở hay tiến lên vùng cao miền Đông Nam bộ hoặc xa hơn. Vì vậy di tích văn hóa Oc Eo miền Đông Nam bộ thường có niên đại muộn từ thế kỷ 5- 6 đến thế kỷ 12 -13, thời điểm mà theo ghi chép của Châu Đạt Quan trong Chân Lạp phong thổ kí đây vẫn là vùng hoang vu hầu như không có người sinh sống [5]. Giai đoạn “hậu Oc Eo” từ thế kỷ 8 đến khoảng thế kỷ 12 truyền thống văn hoá Óc Eo vẫn được cư dân Nam bộ bảo lưu và có sự phát triển nhất định trong hoàn cảnh lịch sử – xã hội có nhiều biến đổi.
Người Việt ở Nam bộ tạo lập cộng đồng vào khoảng thế kỉ 17, cùng với các tộc người bản địa và cộng đồng người Hoa, chỉ trong vòng từ cuối thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 19 đã biến cả vùng đất Gia Định phủ (1698) trở thành một Gia Định thành, một Nam kì lục tỉnh trù phú, giàu sản vật, có vị thế kinh tế – chính trị hàng đầu khu vực.
Kết quả nghiên cứu khảo cổ học thời kỳ này gồm những phát hiện di vật dưới lòng sông, những vật dụng sinh hoạt trên gò, giồng đất… phản ánh đời sống các cộng đồng dân cư trên vùng đất hầu như không thay đổi về môi trường sinh thái nhưng đã có những thay đổi về sinh hoạt kinh tế – văn hóa. Đặc biệt từ cuối thế kỷ 19 là sự ra đời của các “thị tứ” Nam bộ ven các con sông.
Mời xem:
Văn hóa sông nước Nam bộ nhìn từ Khảo cổ học (Phần 2)
Nguồn: https://www.diendan.org
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)