VĂN HÓA ỨNG XỬ với RỪNG của NGƯỜI STIÊNG (Phần 1)

THE BEHAVIOURAL CULTURE of THE STIENG PEOPLE
to THE FOREST

HOÀNG THỊ LAN
(Học viên Cao học Văn hóa – (Năm 2012) – Trường ĐH KHXH & NV TPHCM)

TÓM TẮT

     Bài viết này đề cập đến văn hóa ứng xử với rừng của người Stiêng. Bài viết cho thấy người Stiêng có cách sống hòa hợp với tự nhiên, tôn trọng tự nhiên thay vì chống lại. Trong đời sống vật chất và tinh thần, người Stiêng luôn tìm cách tốt nhất để thích nghi, khai thác, bảo vệ và nuôi dưỡng rừng.

ASTRACT

     This artical refers to the behavioural culture of the Stieng people to  the forest. It proves that the Stieng people live in harmony with nature, they respect nature instead of being opposed to it. To the forest, the Stieng people always find the most appropriate ways to exploit, response, protect and nurture it.

x
x x

     Theo số liệu Cục thống kê tỉnh Bình Phước năm 2009, số dân tỉnh Bình Phước là 873.598 người. Trong đó người Stiêng có 81.708 người (chiếm 9.35% dân số toàn tỉnh). Stiêng cư trú tập trung về phía thượng nguồn dòng sông Bé, là một dân tộc bản địa ở Bình Phước. Người Stiêng có nhiều tên gọi khác nhau như Xa Điêng, Bù lơ, Bù Đip, Bù Đêh,… và được chia làm bốn nhóm chủ yếu: Bù Lơ, Bù Dek, Bù Biêk, Bù Lập nhưng hiện nay chủ yếu còn tồn tại hai nhánh chính là Bù Lơ và Bù Dek. Người Stiêng Bù Dek (Stiêng vùng thấp tập trung chủ yếu ở Bình Long, Bù Đốp ngày nay) cư trú trong nhà dài, sàn chủ yếu trồng lúa nước. Người Stiêng Bù Lơ (Stiêng vùng cao, chủ yếu ở Bù Đăng, Phước Long) cư trú trong nhà dài nhưng nền đất, canh tác nương rẫy, trồng lúa, bắp, bí, bầu…theo phương thức quảng canh (hiện nay họ chủ yếu trồng điều, cà phê). Bên cạnh hoạt động sản xuất trồng lúa là chính, người Stiêng còn khá nhiều loại hình kinh tế khác như các nghề thủ công, chăn nuôi, săn bắn và hái lượm.

     Trong công trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm viết “Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra hai khả năng: những gì của tự nhiên có lợi cho mình thì con người phải hết sức tranh thủ tận dụng, nhưng những gì có hại thì phải ra sức đối phó” [Trần Ngọc Thêm 2001: 341]. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất cho rằng: văn hóa ứng xử với rừng của người Stiêng là cách mà người Stiêng thích nghi, khai thác những gì có lợi, đối phó với những gì có hại từ rừng đồng thời bảo vệ, nuôi dưỡng những nguồn lợi rừng.

     Văn hóa ứng xử với rừng là một đề tài lớn, trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ bước đầu tìm hiểu văn hóa ứng xử với rừng của người Stiêng qua nguồn tài liệu trong chuyến đi thực tế và nghiên cứu điền dã ở huyện Bù Đăng, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước của chúng tôi vừa qua [1].

x
x x

     Với không gian sinh sống truyền thống chủ yếu là rừng, đối với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên nói chung, người Stiêng nói riêng, rừng chính là môi trường tồn sinh và tiền đề khách quan cho mọi sinh hoạt văn hóa vật chất, tinh thần. Trong đời sống vật chất lẫn tâm thức, họ luôn ý thức được rằng họ là những “con người của rừng” và có một cách khai thác rừng hợp lý nhất “không lãng phí, không tàn phá, đủ để sinh tồn bên cạnh các giống loài khác, động vật và thực vật” [Jacques Dournes 2010: 14].

Họ coi rừng là nguồn sống, người ta không tận thu cạn kiệt, mà luôn giữ được sự tái tạo liên tục của rừng, coi sự đảm bảo sự sống cho rừng cũng là đảm bảo sự sống cho họ. Đối với họ, rừng là người cha đầy trách nhiệm, nuôi sống và bảo vệ họ những lúc hiểm nguy và cũng là người mẹ luôn sẵn sàng cưu mang, che chở, bao dung. Chính vì vậy họ luôn kiêng sợ nhưng cũng luôn dành tình cảm thiết tha đối với rừng. Qua những hoạt động trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần, văn ứng xử với rừng của người Stiêng được bộc lộ.

_________
[1]
Bài viết có sử dụng tư liệu từ khóa luận tốt nghiệp ngành Văn học của Phạm Anh Văn với đề tài “Văn học dân gian dân tộc Stiêng tỉnh Bình Phước” năm 2008.

1. Ứng xử với rừng trong văn hóa vật chất

     1.1. Hoạt động kinh tế

     Rừng là nguồn sống, nơi người Stiêng làm nương rẫy săn bắn, hái lượm để mưu sinh. Đối với nương rẫy, phương thức canh tác của họ là “ăn chậm” chứ không triệt phá. Người Stiêng trong truyền thống làm rẫy theo lối quảng canh ba mảnh, cách làm này giúp họ có được những vụ thu hoạch khá hơn trong hoàn cảnh đất rừng Tây Nguyên vốn không mấy phù hợp với cây lúa. Họ làm rẫy quảng canh, hay luân canh rừng – rẫy (ba mùa rẫy thì lại để hoang, rừng hoang mọc thành rừng rậm) vừa để có thời gian cho rừng kịp phục hồi và đất tốt tươi trở lại. Đó cũng là biện pháp tốt để giữ mạch nước ngầm trong rừng.

     Người Stiêng Bù Lơ trồng lúa khô (khác người Stiêng Bù Dek trồng lúa nước). Họ còn trồng thêm những hoa màu khác như bầu, bí, dưa… Những khi lên rẫy, người Stiêng chỉ mang theo cơm, còn thức ăn thì nấm, đọt mây, măng, lá nhiếp…hái trong rừng. Đồng thời với việc trồng lúa, vào rừng săn bắn và xuống suối bắt tôm cá, người Stiêng cũng nuôi trâu, bò, heo, gà để lấy thịt.

     Thú và rau trong rừng, cá dưới suối, gạo trên rẫy, người Stiêng một thời gian“đã sống rất thịnh vượng, trở thành một trong những tộc người mạnh và hiếu chiến” [Henri Maitre 2008: 144]. Ăn nhờ săn bắn thú, người Stiêng bên cạnh việc có kỹ thuật cao về cung nỏ và các loại bẫy để săn bắt thú. Trong săn bắt, họ luôn có cách bảo vệ độc đáo nguồn thức ăn này. Khi săn bắn họ chỉ giết thú lớn, những con thú nhỏ cùng loài sẽ được cấm cho đến khi nó đủ lớn. Họ cũng không săn bắn những con thú cái đang có mang nhằm để con vật ấy có thể lớn lên hoặc có thể sinh đẻ [1]. Trong đánh bắt cá, sự kiên nhẫn của người Stiêng cũng làm nhiều người kinh ngạc “Đến giữa mùa mưa (…) người Stiêng trang bị những chiếc gáo bằng tre, đắp những con đập để ngăn không cho cá quay xuống, rồi đuổi theo đâm chúng bằng giáo. Một ngày, một đôi bò vất vả lắm mới kéo được hai mươi lăm con cá như vậy (…) nhiều khi không may mắn, bắt được hai, ba con nòng nọc mỗi ngày cũng không làm những kẻ đang đói nản lòng” [Dam Boo 2010: 55]. Nhưng chính việc đánh bắt có vẻ “lãng phí thời gian” này lại đảm bảo cho những mùa sau họ luôn có cá để ăn.

     Để bảo quản thịt thú săn được, người Stiêng thường xâu lại thành từng xâu dài treo trên chái bếp. Trong thời gian vào rẫy cùng gia đình Điểu Thị Ba Rơi, chúng tôi vẫn thấy nóc bếp của nhà trong rẫy bà còn treo lủng lẳng xâu da bò, bà cho biết da bò khô có thể để tháng này qua tháng khác, khi cần có lấy một mẩu để hầm chung với rau, ăn khỏe người và chữa được bệnh tật.

     Người Stiêng rất biết khai thác lợi thế của các loài thảo mộc của rừng trong hoạt động sản xuất. Tiêu biểu cho loài thảo mộc có khắp rừng và là trợ thủ đắc lực trong các gia đình Stiêng là cây lồ ô. Người Stiêng dùng cây lồ ô trong nhiều công việc: dùng lồ ô làm phên nhà, đan gùi, làm ná bắn thú, làm bẫy bắt những con thú nhỏ, làm các dụng cụ đánh bắt và để tạo lửa. Người Stiêng còn dùng lồ ồ làm rào bao quanh sóc để tránh cọp vào bắt heo, gà, vịt,… Trên rẫy cũng được rào, bẫy để tránh khỉ, chim cắt phá phách. Họ còn dùng loài cây này làm chòi để canh lúa, hoa màu, đuổi chim (ban ngày) và heo rừng (ban đêm).

     Tóm lại, trong môi trường rừng, người Stiêng rất biết sử dụng những nguồn lợi từ rừng mang lại. Song song với hoạt động khai thác nguồn lợi rừng, người Stiêng có các cách thích hợp để giữ gìn và đảm bảo nguồn lợi đó tái sinh và phát triển.

     1.2. Văn hóa cư trú

     Qua quan sát của chúng tôi ở khu bảo tồn văn hóa truyền thống sóc Bom Bo và theo lời kể của già làng Điểu Lên, người Stiêng ở đây (thuộc nhánh Bù Lơ) không ở nhà sàn (hay nhà sàn dài như người Bù Dek). Họ làm nhà dài, mái lá được kéo gần sát mặt đất, hai cửa mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà. Làng (poh) của người Stiêng Bù Lơ thường nằm ở phía đông nam quả đồi và gần các dòng sông nhỏ, hoặc bên các suối nước. Làng người Stiêng Bù lơ bao gồm 3 đến 5 ngôi nhà dài; làng người Stiêng Bù Dek thì nhiều hơn. Mỗi gia đình gồm nhiều thế hệ sống chung với nhau nhà được làm dãy dài và được ngăn chia cho mỗi thành viên trong hộ khi lập gia đình.

     Toàn bộ vật liệu làm nhà của người Stiêng là lấy từ rừng: mái được làm bằng cỏ tranh, phên làm bằng những thanh lồ ồ kết lại, khung nhà làm bằng những cây gỗ như lim, sến, gõ… Công việc làm nhà của người Stiêng cần rất nhiều nhân lực. Để tiến hành nhanh chóng và thuận tiện nên giữa các gia đình trong làng (wang hoặc poh) có sự hoán đổi công cho nhau. Đối với những trường hợp gia đình neo đơn, tàn tật,…thì được các thành viên trong làng đến giúp đỡ. Trước khi dựng nhà mới, họ làm thịt con gà lấy máu đổ một ít xuống chân cột, nhất là chân cột đầu tiên để khấn thần linh cầu mong mọi điều tốt lành. Dựng xong nhà, người Stiêng làm heo, gà, ché rượu cần cúng các thần linh, đồng thời đồng bào lấy máu của các con vật hiến sinh bôi lên miệng ché rượu, các cột nhà, mái nhà, sàn nhà cho mọi thứ đều được ăn rồi mới dọn nhà đến ở. Để tránh những thú rừng nguy hiểm và tránh độ ẩm cao của rừng nhiệt đới, nhà của người Stiêng (Bù Dek) làm thường cao hơn mặt đất khoảng 0.5m. Cách này cũng giúp họ đón gió, chống lại thời tiết nóng nực vào mùa khô.

     Việc lập làng của người Stiêng cũng được chọn kỹ lưỡng. Ngoài yếu tố đảm bảo nguồn nước, nơi làng Stiêng được chọn lập phải có khu rừng dự trữ, có khu đất làm nghĩa địa chung cho cả làng, đặc biệt vùng đất đó phải có rừng thật rộng lớn để mọi người có thể tìm kiếm nguồn thức ăn cũng như khai phá để làm rẫy trong một thời gian dài. Người Stiêng có tục cấm làng khi vừa mới dựng làng xong. Trong thời gian bảy ngày kể từ ngày dựng xong làng mới thì những người lạ không được phép vào làng. Dấu hiệu cấm làng là một nhánh lá xanh được cắm hoặc treo đầu làng, cũng có thể là một dây thừng căng ngang lối vào. Trong thời gian này việc đưa vào làng các ché đầy rượu, các cối và chày giã gạo,… đều bị cấm. Người Stiêng quan niệm rằng việc giữ cho làng càng im lặng trong thời gian này càng tốt, có như vậy dân làng mới được ấm no, khoẻ mạnh và hạnh phúc.

     1.3. Văn hóa ẩm thực

     Ẩm thực là một trong các thành tố văn hóa của cộng đồng người Stiêng. Các món ăn của người Stiêng rất đa dạng. Nó vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, vừa thể hiện cách ứng xử linh hoạt của họ đối với môi trường tự nhiên và của họ với các cộng đồng dân tộc khác.

            Rừng núi nuôi sống người Stiêng, rừng núi cho con người ở đây cái ăn, cái ở, cái mặc. rừng núi cũng ghi đậm dấu ấn của mình trong văn hóa ẩm thực Stiêng. Như những tộc người vùng cao khác, “trong một xứ sở thú săn phong phú như rừng núi Stiêng, đương nhiên người dân tận dụng nó cho bếp ăn của mình” [Dam Boo 2010: 52], vốn là những con người của rừng [2], người Stiêng rất biết sử dụng những sản vật do rừng mang lại vào bữa ăn của mình.

     Ngoài thịt rừng, ngũ cốc trồng được, rau rừng: lá nhíp, đọt mây, cà, đọt sắn,… hầu hết đều có mặt trong bữa ăn của người Stiêng. Bên cạnh đó là cá suối. Họ có rất nhiều món ngon làm từ thịt rừng, rau rừng như canh bồi, canh thụt nhiều món chế biến từ cá và rau như gỏi cá suối.

Măng rừng là một thực phẩm không thể thiếu trong mỗi gia đình Stiêng. Đến mùa mưa, họ lên rừng lấy măng [3]. Măng có thể muối chua, muối mặn, phơi khô và bảo quản được trong thời gian dài. Ngoài ra, người Stiêng còn khai thác các đặc sản khác từ rừng như mật ong, dầu,…

Canh bồi là một món ăn khá đặc trưng của người dân Tây Nguyên nói chung và người Stiêng có món canh bồi với cách chế biến thú vị. Nguyên liệu chủ yếu là các loại sàn vật từ rừng: măng tre, khoai môn, gạo, lá nhau [4], có thể thêm các loại cá hay các loại thịt. Gạo được giã nát thành bột, lá nhau đem giã và chắt lấy nước. Khi nấu chín thì cho tất cả vào cối giã. Canh bồi có màu trắng, sền sệt. Vị của món canh bồi bùi, béo và ngọt miệng nhờ rau, thịt, bột gạo nếp quện vào.

     Một món không thể không kể đến là canh thụt. Canh thụt được chế biến chủ yếu từ các loại cà: cà tím, cà xanh, măng tươi một thứ nếu thiếu thì sẽ làm mất ngon là đọt mây. Đọt mây có hai loại: mây đắng và mây ngọt. Người chọn loại nào là do sở thích. Trong truyền thống, người Stiêng chế biến món này bằng cách bỏ tất cả bỏ vào ống tre hoặc lồ ô nấu chín rồi lấy cây thụt cho nhuyễn và mang ra ăn (không cần nấu lại). Tất cả các món truyền thống của người Stiêng đều là kết quả của sự tận dụng triệt để những nguồn lực có từ thiên nhiên, hầu như món nào cũng tổng hợp nhiều loại rau, thịt, cá như việc họ có gì thì dùng nấy, và dùng theo một cách đặc biệt riêng có và theo như họ nói “canh bồi và canh thụt mà có thêm rượu nữa mới đủ”.

     Người Stiêng chế biến rượu cần với những cách thức riêng, chính người phụ nữ trong nhà lên rừng hái lá, không biết tên chỉ biết lá đó và hái về làm rượu lại thành đặc sản. Rượu này uống vào làm con người bay bổng, phiêu diêu, quên mệt nhọc sau những tháng ngày làm việc vất vả [5]. Hiện nay, nhiều người Stiêng vẫn còn biết làm rượu cần nhưng khi hỏi về việc có muốn thương mại hóa hay không thì họ từ chối. Theo họ đó là sản vật quý mà người Stiêng dâng lên thần linh và dùng chung với canh bồi trong dịp lễ hội.

     1.4. Trang phục, chữa bệnh

     Thích nghi với môi trường rừng núi cần sự gọn nhẹ, y phục và trang sức của người Stiêng nhìn chung tương đối giản dị, phổ biến nhất đàn ông là đóng khố, hoặc mặt quần cụt, ở trần còn đàn bà thì mặt xà rông. Vào dịp lễ hội hay đi xa, đàn ông, đàn bà, khoác một cái áo chui đầu ngắn và quàng một tấm khăn bên ngoài. Đàn ông Stiêng để tóc dài tóc thắt búi, đối với người Stiêng Bù Lơ trang điểm bằng cách cài lông chim có màu sắc rực rỡ. Phụ nữ người Stiêng đeo những vòng đồng hay bạc, những người khá giả đeo các vòng bạc, chuỗi hạt cườm, tóc cài lược bằng sừng hay kim loại, tai đeo khúc gỗ tròn ống tre nhỏ hoặc miếng ngà voi.

     Người Stiêng lấy bông gòn kéo sợi dệt vải, lấy vỏ cây, lá la nliêng hái trong rừng để nhuộm vải. Đặc biệt không thấy họ sử dụng da thú rừng để may mặc. Các đồ trang sức thường làm bằng đồng, ngà voi, lông chim. Họ thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân. Đặc biệt trẻ em đeo lục lạc ở hai chân (theo họ thì đeo vậy là để tránh đi lạc).

     Được bao bọc bởi mẹ rừng, người Stiêng không lo có bệnh. Họ có nhiều kiến thức về cây thuốc (k’da) trong rừng chữa nhiều thứ bệnh: thuốc chữa đau bụng, cầm máu thì có lá và rễ cây kan rang (kan rang không chỉ chữa đau bụng mà còn trị kiết lị cho trẻ nhỏ). Khi cà răng bị đau thì họ dùng lá tơmcrây cạo mủ bôi vào chỗ đau sẽ không đau nữa không những thế, lâu ngày mủ cây còn cho răng màu bóng đen rất đẹp. Người lớn đau bụng tiêu chảy thì lấy lá london (tòng quân) để uống. Lá này còn chữa được sốt rét. Để thơm người, phụ nữ Stiêng dùng lá cây laclâl trong rừng vò nát và bôi lên cổ, lên người. Mùi của thứ lá cây có vị nồng nồng, thơm và theo bà Điểu Thị Ba Rơi thì ngày trước họ không chỉ dùng lá cây mà còn dùng vỏ cây laclâl để tắm cho mùi hương lưu lại lâu hơn. Ngoài ra, lá Pêe cũng có tác dụng xức thơm người.

     Hiện nay, trong rẫy một số hộ dân Stiêng vẫn còn trồng các loại cây vị thuốc này bởi với họ đất rẫy vẫn gần hơn bệnh viện và có nhiều thứ bệnh, kinh nghiệm “gia truyền” vẫn kịp thời và hiệu quả.

     Qua văn hóa vật chất, văn hóa rừng của người Stiêng thể hiện sự thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, họ biết khai thác nguồn lợi tự nhiên phục vụ cuộc sống cho mình. Đồng thời, qua những hoạt động sản xuất kinh tế, ăn, mặc, ở,… họ đã có những hoạt động nhằm bảo vệ tự nhiên đồng thời ứng phó với những nguy hiểm do tự nhiên mang lại một cách phù hợp và hiệu quả.

__________
[1] Phan An  (2007), Hệ thống xã hội tộc người Stiêng ở Việt Nam: 94.

[2] Chữ dùng của nhà nhân học Goerge Condominas.

[3]  Mẹo lấy măng của người Stiêng là quan sát quanh bụi tre, nứa những chỗ đất có tán cây ngả xuống (những chỗ đó khi mưa sẽ hứng được nhiều nước), đào những chỗ đất ấy tức sẽ có măng, măng đào từ đất. Khi chưa kịp mọc lên khỏi đất sẽ giòn và ngọt.

[4] Một loại lá người Stiêng có thể dùng như bột ngọt của người Việt.

[5] Lời của già làng Điểu Lên.