VĂN HỌC QUỐC NGỮ NAM BỘ từ cuối thế kỷ 19 đến 1945: Thành tựu và triển vọng nghiên cứu (Phần 1)

ĐOÀN LÊ GIANG
(Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM))

TÓM TẮT

     Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX đến 1945 là một bộ phận máu thịt của văn học dân tộc. Trong khoảng hơn nửa thế kỷ từ khi hình thành cho đến 1945, vùng văn học này đã có một đời sống rất sôi nổi với hàng trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả. Nhưng từ sau 1945 văn học quốc ngữ Nam Bộ có một thời gian khá dài bị giới nghiên cứu phê bình quên lãng, ít được ai nhắc tới. Bài nghiên cứu này trước hết đi vào tìm hiểu nguyên nhân tại sao văn học quốc ngữ Nam Bộ lại ít được các nhà nghiên cứu quan tâm như vậy. Bài viết có có 3 phần chính: 1) Những thành tưụ nghiên cứu và giới thiệu văn học quốc ngữ 20 năm trở lại đây; 2) Giới thiệu công trình nghiên cứu cấp Trọng điểm Đại học Quốc gia TP.HCM: “Khảo sát, Đánh giá, Bảo tồn Văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX – đầu TK.XX”, công trình nền cho bộ Tổng tập văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX – 1945; 3) Triển vọng nghiên cứu về Văn học Quốc ngữ Nam Bộ về các phương diện: văn học sử, ngôn ngữ học, văn hóa học, nghệ thuật học…

x
x x

     Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX đến 1945 là một bộ phận máu thịt của văn học dân tộc. Trong khoảng hơn nửa thế kỷ từ khi hình thành cho đến 1945, vùng văn học này đã có một đời sống rất sôi nổi với hàng trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả, và đã để lại những vết son không phai mờ trong ký ức của nhiều người, nhất là những người lớn tuổi ở Nam Bộ. Nhưng từ sau 1945 văn học quốc ngữ Nam Bộ có một thời khá dài bị giới nghiên cứu phê bình quên lãng, ít được ai nhắc tới, hoặc chỉ được biết tới với vài ba gương mặt nổi bật: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh… Sở dĩ có tình trạng ấy có thể vì những nguyên do sau đây:

     Trước hết là do thiên kiến, nhiều người nghĩ rằng văn học quốc ngữ Nam Bộ không có giá trị. Người ta cho rằng các nhà văn Nam Bộ viết sai chính tả đầy rẫy, tác phẩm của họ chỉ là sản phẩm giải trí bình dân, chứ không có giá trị văn học thực sự. Người ta coi thường nó tới mức độ nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh phải cho rằng nó là “Hòn máu bỏ rơi” như nhan đề một cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng của Phan Huấn Chương.

     Thứ hai là người cầm bút Nam Bộ ít chú trọng đến nghiên cứu phê bình văn học. Đây là ý kiến của GS.Nguyễn Văn Trung, ông viết: “Người miền Nam sống văn chương hơn là làm văn học. Ít có người làm việc điểm sách, phê bình, phỏng vấn và viết văn học sử. Cho đến nay nếu chúng tôi không nhầm thì các bộ văn học sử Việt Nam đều là do các tác giả gốc miền Bắc, miền Trung biên soạn. Không phải là không thể làm mà đúng hơn là không muốn làm, không cần làm”. Vì vậy những thành tựu của văn học Nam Bộ không được sưu tầm, phê bình và đánh giá đúng mức trong các giáo trình, cũng như các sách nghiên cứu khác.

     Thứ ba, có thể cũng do hoàn cảnh lịch sử. Trước 1975, do tình hình chiến tranh, nên các nhà nghiên cứu ở miền Bắc không thể nghiên cứu văn học Nam Bộ một cách khách quan với quan niệm “gạn đục khơi trong” được. Vì vậy suốt mấy chục năm không có ai nghiên cứu về văn học quốc ngữ Nam Bộ, ngoài cuộc tranh luận về Trương Vĩnh Ký trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử năm 1963-1964 với ý hướng chung là kết tội. Nhiều nhà văn Nam Bộ khác cũng từng cộng tác với Pháp, làm công chức cho Pháp hay sống ở miền Nam nhiều chục năm sau đó, giới nghiên cứu rất khó có điều kiện sưu tập, kiểm tra tư liệu nên đã bỏ trắng mảng này. Thế hệ nghiên cứu trước bỏ, thế hệ sau cũng không biết đến, không nói đến luôn.

     Thứ tư, có thể là do phong cách nghiên cứu. Nhiều nhà nghiên cứu rất đề cao lý luận, phương pháp luận mà rất coi nhẹ tư liệu và sự kiện. Người ta đã phát ra một kết luận hùng hồn nào đó, rồi cứ yên trí với nó, mà không cần suy nghĩ lại, xem xét thêm, không cần biết nó còn đúng nữa không. “Học phong” kiểu ấy đã để lại di chứng nặng nề trong nhiều người nghiên cứu trẻ sau này. Đối với văn học Nam Bộ, công việc đầu tiên là phải tìm kiếm tư liệu để đọc và suy nghĩ, nhưng rất nhiều người nghiên cứu đã không làm công việc ấy.
Vì thế việc nghiên cứu văn học quốc ngữ Nam Bộ vẫn còn ngổn ngang. Tuy nhiên khoảng 15 năm trở lại đây, nhờ nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu nặng lòng với văn học quốc ngữ Nam Bộ mà việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Nam Bộ đã tiến được một bước đáng kể.

1. Thành tựu nghiên cứu văn học quốc ngữ Nam Bộ 20 năm gần đây

     1.1. Sưu tầm, giới thiệu tác phẩm

     Trước 1975 giới nghiên cứu miền Nam cũng có để ý đến mảng văn học quốc ngữ Nam Bộ, tuy thành quả nghiên cứu cũng chưa phải thật nhiều. Ở miền Bắc thì dường như ít ai nhắc đến mảng văn học này. Sau khi đất nước thống nhất, suốt 10 năm từ 1975-1985, tình hình nghiên cứu về văn học Nam Bộ cũng chưa tiến thêm được bao nhiêu. Tuy nhiên từ 1987 trở đi, việc nghiên cứu về văn học quốc ngữ Nam Bộ đã tiến triển nhanh hơn hẳn.

     Năm 1987, nhân kỷ niệm 100 năm ngày ra đời cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của văn học Việt Nam – Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, GS. Nguyễn Văn Trung có giới thiệu tác phẩm ấy trong một tài liệu in ronéo dành cho học viên cao học với nhan đề: Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên: Thầy Phiền- Truyện của Nguyễn Trọng Quản, sách do Trường Đại học Sư phạm TP.HCM xuất bản. Trong tập sách ấy ông còn đề cập đến hàng loạt các nhà văn Nam Bộ khác nữa: Nguyễn Khánh Nhương, Trương Duy Toản, Michel Tinh, Biến Ngũ Nhi, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt…

Hình: Chân dung nhà văn Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) sưu tầm hình. Nguồn: https://tuoitre.vn/

Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) sưu tầm hình. Nguồn: http://www.vns.edu.vn/

     Năm 1989 Hội nghị về Hồ Biểu Chánh tổ chức ở Tiền Giang chính thức “chiêu tuyết” cho ông. Hội nghị ấy đã mở đường cho hai nhà xuất bản Tiền Giang và Long An tái bản hàng loạt sách của Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn Nam Bộ khác như: Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức, Tân Dân Tử, Bửu Đình, Nguyễn Ý Bửu…

     Trong thập niên 90 Tổng tập văn học Việt Nam ra đời. Trong các tập 20, 21, 26 có tuyển một số tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Văn Vinh, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình…

Hình: Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký,
sau này đổi tên đệm thành Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tải
(Chân dung chụp năm 1883)
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) sưu tầm hình. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/

     Năm 2000 Cao Xuân Mỹ có giới thiệu nhiều tác phẩm của nhà văn Nam Bộ, nhất là truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp trong Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu TK.XX, 2 tập (Trung tâm Quốc học và NXB. Tổng hợp TP.HCM xb, 1999-2000).

     Năm 2002, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Anh và các cộng sự cho ra đời công trình Thơ văn nữ Nam Bộ TK.XX (NXB.TP.HCM, 2002), trong đó có giới thiệu khá nhiều văn học nữ Nam Bộ, không chỉ văn mà cả thơ.

NGUYỄN KIM ANH
Những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ đầu tiên  của một số cây bút nữ Việt Nam.
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) sưu tầm hình. Nguồn: http://www.gio-o.com/

     Năm 2003 Trung tâm Quốc học xuất bản bộ Văn học Việt Nam TK.XX (NXB.Văn học). Trong các Quyển I (tập 3, 4, 5), Quyển II (tập 1), Quyển V (tập I) có giới thiệu một số truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình của văn học Nam Bộ.

     1.2. Nghiên cứu, phê bình văn học

     Năm 1988 các nhà nghiên cứu Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp đã phác thảo sơ nét về diễn trình văn học Nam Bộ qua cuốn Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa TK.XX (NXB.TP.HCM, 1988). Sau đó Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp vẫn tiếp tuc theo đuổi mảng đề tài này, đến năm 1999 hai ông cho xuất bản cuốn Những danh sĩ miền Nam (NXB.Tổng hợp Tiền Giang, 1999) trong đó có giới thiệu vắn tắt về Trần Chánh Chiếu, Thượng Tân Thị, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Quang Diêu. Liên tục trên tạp chí Văn, nhà văn Hoài Anh có viết bài giới thiệu về nhiều nhà văn Nam Bộ, sau đó ông đã tập hợp các bài viết này thành cuốn Chân dung văn học (NXB.Hội nhà văn, 2001), trong đó có giới thiệu 28 nhà văn quốc ngữ Nam Bộ từ Trương Vĩnh ký đến Huỳnh Văn Nghệ. Đây có thể coi là một tập hợp nhiều nhất chân dung của các nhà văn Nam Bộ từ trước đến bấy giờ.

     Năm 1990 trong Tiến trình văn nghệ miền Nam (NXB.An Giang), Nguyễn Q.Thắng đã giới thiệu sơ giản khoảng 10 cuốn tiểu thuyết Nam Bộ từ Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887) đến Tam Yên di hận của Nguyễn Văn Vinh. Tiếp tục theo đuổi mảng đề tài này, năm 1999 trong Từ điển tác gia Việt Nam (NXB.Văn hóa thông tin, 1999) ông đã viết hàng mấy chục mục từ về các tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ. Liên quan trực tiếp đến đề tài văn học quốc ngữ Nam Bộ, có 3 luận án tiến sĩ:

     – Tôn Thất Dụng: Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn cuối TK.XIX đến năm 1932, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội, 1993.

     – Cao Xuân Mỹ: Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối TK.XIX đến đầu TK.XX, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP TP.HCM, 2001.

     – Lê Ngọc Thúy: Đóng góp của văn học quốc ngữ ở Nam Bộ cuối TK.XIX – đầu TK.XX vào tiến trình hiện đại hóa văn học VN, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP TP.HCM, 2002.

     Với một cách thức làm việc nghiêm túc, chú trọng khảo sát tư liệu, cùng những kiến giải sắc sảo, ba luận án này đã đóng góp không nhỏ vào việc tìm hiểu văn học quốc ngữ Nam Bộ.

     Các nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Văn Y, Bằng Giang đã có quá trình sưu tập và nghiên cứu lâu dài văn học quốc ngữ Nam Bộ ở miền Nam từ trước 1975, vào thập niên 90 của thế kỷ trước cũng tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng.

     Trong Địa chí văn hóa TP.HCM, (tập 2, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình chủ biên, NXB.TP.HCM, 1998), với một bảng thư mục dài, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Y đã phác họa những nét chính bức tranh toàn cảnh về văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX – 1945.

     Nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh được biết đến từ trước 1975 với công trình Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (Lửa thiêng xb, S.1974; NXB.TP.HCM 1992, tái bản 2002) lại tiếp tục phát huy những thành quả nghiên cứu của mình trong công trình mới xuất bản gần đây: Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối TK.XX
(NXB.Văn nghệ TP.HCM, 2005).

     Nhà nghiên cứu Bằng Giang, tác giả cuốn Mảnh vụn văn học sử (Chân Lưu xb, Sài Gòn, 1974), có hai công trình quan trọng: Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký (NXB.Văn học, 1994) và Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930 (NXB. Trẻ, 1992, tái bản lần thứ nhất 1998). Hai cuốn sách ấy thực sự là cẩm nang cho những người nghiên cứu về vấn đề này.

     Gần đây nhất là công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối TK.XIX đầu TK.XX (NXB.Đại học Quốc gia TP.HCM, 2004) do nhóm tác giả Nguyễn Kim Anh (chủ biên), Nguyễn Thị Trúc Bạch, Hà Thanh Vân, Vũ Văn Ngọc, Hoàng Tùng, Huỳnh Vĩnh Phúc biên soạn, đã giới thiệu khái quát về văn học Nam Bộ cũng như tiểu sử, sự nghiệp của từng tác giả. Đây là công trình công phu, nghiêm túc và dày dặn nhất về văn học Nam Bộ từ trước đến nay. Nhờ cố gắng của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu mà văn học Nam Bộ dần dần đã được biết đến, đã có được vị trí xứng đáng hơn trong lịch sử văn học dân tộc.

     Điều ấy được phản ánh qua Từ điển văn học (Bộ mới), NXB.Thế giới, HN, 2004 do các giáo sư Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên, trong đó đã dành gần 20 mục từ cho các tác giả văn học Nam Bộ, các mục từ này chủ yếu do Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Q.Thắng và Trần Hữu Tá viết. Chúng tôi hy vọng rằng trong những lần tái bản sau, số lượng các mục từ dành cho văn học Nam Bộ sẽ còn tăng lên nhiều hơn nữa.

     Ở trên chúng tôi đã điểm qua những thành tựu chính trong việc nghiên cứu văn học quốc ngữ những năm gần đây, mặc dù đã đạt được nhiều thành quả, nhưng vẫn còn không ít vấn đề đặt ra.

     Trước hết là vấn đề tư liệu. Tư liệu về văn học quốc ngữ Nam Bộ hiện còn rất rải rác, tàn khuyết rất nhiều. Cần phải có một công trình nghiên cứu sưu tập quy mô lớn với công sức của nhiều người để sưu tầm, chỉnh lý tất cả các tư liệu còn có thể tìm được – cả sách cũng như trên báo chí, để từ đó có kế hoạch bảo tồn, nghiên cứu, giới thiệu cho độc giả, cũng như để lại làm tư liệu nghiên cứu cho những ai quan tâm về lĩnh vực này. Tình trạng thiếu tư liệu, khó khai thác tư liệu làm cho việc nghiên cứu về văn học quốc ngữ Nam Bộ luôn luôn phải làm lại từ đầu, ít có tính kế thừa. Tình trạng ấy làm nản lòng rất nhiều người nghiên cứu cũng như các nghiên cứu sinh, học viên cao học.

     Xuất phát từ tình hình đó, từ năm 2005 Đại học Quốc gia TP.HCM đã cấp kinh phí cho Khoa Ngữ văn và Báo chí chúng tôi tiến hành công trình Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ với mục đích khảo sát, sưu tầm, chỉnh lý, nghiên cứu toàn bộ tư liệu về văn học quốc ngữ Nam Bộ cả thơ, văn xuôi nghệ thuật, lý luận phê bình. Công trình có sự tham gia đông đảo của nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên ở TP.HCM, Hà Nội, Tiền Giang, Cần Thơ như: Mai Cao Chương, Trần Hữu Tá, Nguyễn Khuê, Cao Tự Thanh, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Lê Tiến Dũng, Võ Văn Nhơn, Cao Xuân Mỹ, Lê Ngọc Thúy, Nguyễn Đức Mậu, Tào Văn Ân, Trần Ngọc Hồng, Nguyễn Văn Hà, Đào Ngọc Chương, Nguyễn Công Lý, Lê Tâm, Phan Mạnh Hùng, Lưu Hồng Sơn, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Long Hòa, Lê Thụy Tường Vy, La Mai Thi Gia, Đào Diễm Trang, Trương Nữ Diệu Linh…Đoàn Lê Giang được phân công làm chủ nhiệm đề tài.

     Ngoài những nhà nghiên cứu, giảng viên nêu trên, còn có sự góp sức của hàng mấy chục nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên đã và đang học tập ở Khoa Ngữ văn và Báo chí (Trường Đại học KHXH và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM) 5 – 7 năm trở lại đây. Công trình nghiên cứu Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ là cơ sở để thực hiện một bộ Tổng tập văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX đến 1945.

Nguồn: http://www.vjol.info/index.php/JSTD/

     Còn tiếp:

Mời xem: VĂN HỌC QUỐC NGỮ NAM BỘ từ cuối thế kỷ 19 đến 1945: Thành tựu và triển vọng nghiên cứu (Phần 2)