Về quá trình từ khởi đầu tới thời kì vàng son của vương quốc cổ Lan Na
Tác giả bài viết: Thạc sĩ TRẦN XUÂN HIỆP (Đại học Duy Tân)
Thạc sĩ TRẦN ĐÌNH HÙNG (Đại học Sư phạm – Đại học Huế)
TÓM TẮT
Thời kì Lan Na xây dựng và củng cố vương quốc kéo dài khoảng 100 năm (1300 – 1400). Bước sang thế kỉ XV, Lan Na tiến vào giai đoạn phát triển rực rỡ trong khoảng 125 năm (1400 – 1525). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “Thời kì vàng son”. Dựa trên thành quả của một nửa thế kỉ tạo lập vương quốc, Lan Na dần dần phát triển thành một vương quốc lớn mạnh không chỉ ở việc mở rộng lãnh thổ mà còn ở khả năng gây ảnh hưởng chính trị của nó đến các quốc gia láng giềng. Với sức sống mạnh mẽ của một đất nước đang trỗi dậy, Lan Na đã truyền bá nhiều đặc trưng văn hoá và thành tựu của nó ra các nước láng giềng, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung về văn hoá khu vực, nhất là vùng cực Bắc Đông Nam Á – vùng đất tiếp giáp biên giới Myanma – Thái Lan – Trung Quốc – Lào hiện nay. Đến thế kỉ XIX, Lan Na trở thành một bộ phận lãnh thổ của Xiêm, nay là Thái Lan. Tuy vậy, nhiều di sản của nó, nhất là truyền thống văn hoá đặc sắc (truyền thống Phật giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, các ngành nghề thủ công…) của thời đại vàng son vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục phát huy ảnh hưởng ở Thái Lan ngày nay.
Từ khoá: vương quốc Lan Na, vàng son, đặc trưng văn hoá, lãnh thổ, quyền lực.
ABSTRACT
The building and prospering of the kingdom of Lan Na lasted 100 years (1300-1400). In the 15th century, Lan Na entered the stage in which it flourished for about 125 years (1400-1525), which was called “the golden age” by researchers. Based on the results of a half-century founding of the kingdom, Lan Na gradually developed into a powerful kingdom not only geographically but also politically, which greatly influenced its neighboring countries. With the strong vitality of an emerging country, Lan Na’s typical culture and its achievements had a tremendous impact on its neighboring countries, thus making worthy contributions to the development of the regional culture, especially the northernmost region of Southeast Asia – the land currently bordering Myanmar, Thailand, China and Laos. By the nineteenth century, Lan Na became part of the territory of Siam, now Thailand. However, many of its heritage, especially the unique cultural traditions (Buddhism, the language, the architecture, the sculpture and the crafts …) of the golden age, still keeps its value and continues to promote its impact on Thailand today.
Key words: the kingdom of Lan Na, “the golden age, typical culture, territory, power.
x
x x
Quá trình mở rộng thế lực của người Tai Yuan (1) gắn liền với vị vua đầy tài năng Mangrai đã đưa đến sự ra đời một vương quốc mới thống nhất và lớn mạnh vào cuối thế kỉ XIII – vương quốc Lan Na. Tuy vậy, sự tạo lập ấy chỉ là “bước nhảy” có ý nghĩa đầu tiên trên hành trình phát triển của vương quốc. Bài viết này sẽ làm rõ quá trình phát triển của Lan Na ở Đông Nam Á lục địa trong các thế kỉ từ XIV- XVI.
1. Sự củng cố về mặt nhà nước và sự phát triển bước đầu của Lan Na (1300 – 1400)
Sau khi thành lập vương quốc (1296), Mangrai bắt tay vào việc xây dựng bộ máy chính trị và quản lí vương quốc. Nhưng tổ chức chính trị thời Mangrai còn khá sơ khai. Một bộ luật thành văn đã được xây dựng dưới thời Mangrai (còn gọi là Manrayavinicchaya hay Mangraisat). Mangraisat (2) được soạn thảo dựa trên sự tham khảo các điều luật từ bộ luật Mon Dharmasastra của Hariphunchai. Bộ luật, về cơ bản, đã trở thành nền tảng cho việc cai quản bằng luật pháp của vương quốc Lan Na dưới thời vua Mangrai và trong các thế kỉ tiếp theo.
Khi vua Mangrai mất vào năm 1317, ông đã tạo lập được một vương quốc khá rộng lớn bao gồm các mường riêng biệt của người Yuan trên lưu vực sông Kok, sông Ing và lãnh thổ của vương quốc Mon Hariphunchai cũ. Ông đã tạo được ảnh hưởng với người Shan (Müang Nai) ở phía tây vương quốc, cũng như người Khün (Chiang Tung) ở phía Tây Bắc và người Lü (3) (Sipsòng Panna) ở phía Bắc(4) .
Sự thống nhất của Lan Na phụ thuộc nhiều vào uy tín và tài năng lãnh đạo của vua Mangrai. Sau khi Mangrai chết, Lan Na đã bị chia thành hai trung tâm quyền lực trong giai đoạn 1317-1340: Chiang Mai – Lamphun và Chiang Rai – Chiang Saen.
Người kế vị Mangrai là người con trai thứ hai Cai Songkam (1317- 1327), đảm trách công việc ở Chiang Mai trong vòng 4 tháng. Sau đó, ông chuyển đến trị vì tại Chiang Rai và giao ngai vàng ở Chiang Mai lại cho con trai của ông là Thao SaenPu. Người con trai thứ hai là Thao Nam Thuam được cử đến cai quản Fang và người thứ ba là Pho Thao Ngua được giao cai quản Chiang Khong. Sau một vài sự lục đục nội bộ, SaenPu đã trở lại ngai vàng ở Chiang Mai vào năm 1324 và củng cố quyền lực. Sau khi Songkram chết (1327), SaenPu chuyển đến cai quản Chiang Rai thay cha và giao Chiang Mai lại cho Kham Fu quản lí.
Cũng năm 1327, SaenPu đã cho xây dựng một toà thành (wiang) trên một nhánh phía Tây của sông Mekong, cách Chiang Rai khoảng 50 km về phía Đông Bắc, rồi chuyển đến sống và cai trị ở đó. Chiang Saen trở thành nơi định đô mới của nhà vua. Vị trí của thành phố này cách thành cổ Ngoen Yang (đã đổ nát) khoảng 1500 wa (1w = 2m) (5) . Vai trò kinh tế quan trọng của Chiang Saen là trung tâm nối liền các tuyến giao thương trên sông, ngược dòng thì lên Vân Nam, xuôi dòng thì sang Lào, rất thuận tiện. Vì thế, Chiang Saen nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại quan trọng ở cực Bắc Lan Na và Chiang Saen đã tiếp tục giữ vị thế ấy trong các thế kỉ tiếp theo.
Vào giai đoạn cuối thời trị vì của Kham Fu (1325–1336), nhà vua đã yêu cầu nhà cai trị ở Nan giúp ông tấn công tiểu quốc Phayao độc lập, sau đó sáp nhập nó vào lãnh thổ Lan Na. Mặc dù Nan đòi chia sẻ quyền lợi (từ sự hợp tác thành công đó) nhưng đã bị Kham Fu từ chối và còn bị gây áp lực trở lại. Chiến tranh đã nổ ra giữa Lan Na và Nan vào năm 1336, với sự thất bại từ phía Nan. Tuy nhiên, Nan không suy yếu hẳn, mà còn tồn tại trong khoảng một thế kỉ nữa. Một thời gian ngắn sau khi hợp nhất với Phayao, vùng trung lưu lưu vực sông Mae Khong cũng đạt được sự thịnh vượng vào giữa thế kỉ XIV) (6) .
Sau khi Kham Fu chết (1345/46), người nối ngôi là Pha Yu (1337 – 1355) đã rời Chiang Saen, quay về lại Chiang Mai vào năm 1346, chấm dứt tình trạng hai trung tâm quyền lực cùng tồn tại. Điểm nổi bật trong thời cai trị của Pha Yu là ông đã ủng hộ mạnh mẽ Phật giáo và đã cho xây dựng ngôi chùa Li Chiang Phra (Wat Phra Singh). Ông cũng đã xây dựng một ngôi bảo tháp (Cheli) để thờ di hài của vua cha – Kham Fu. Sự thay đổi có ý nghĩa về văn hoá và chính trị này diễn ra trong suốt thời trị vì của vua Pha Yu và con trai ông Kün Na (1355 – 1385).
Thời trị vì của Kün Na diễn ra một cuộc cải cách tôn giáo, đưa đến sự xuất hiện một giáo phái Phật giáo mới ở Lan Na. Kün Na đã cho mời một vị sư tên là Sumanathera từ vương quốc láng giềng Sukhothai đến Lan Na vào năm 1369, để giúp ông trở thành một tín đồ Phật giáo Singhalese (tín ngưỡng của người Singhalese, dân tộc chiếm đa số dân cư ở Sri Lanka, nơi được xem là trung tâm của Phật giáo nguyên thuỷ lúc bấy giờ), thuộc dòng tu Udumburagiri, một dòng tu của các nhà sư tu ở trong rừng(7) . Thoạt đầu, nhà vua đã chọn Lamphun làm nơi xây dựng để xây dựng giáo phái Phật giáo mới.
Theo một bản văn khắc ở Wat Phra Yün (Lamphun), việc chọn Lamphun thay vì Chiang Mai làm nơi xây dựng trung tâm tôn giáo mới đã phản ánh tầm quan trọng về văn hoá – tôn giáo bền vững của Lamphun, một kinh đô của người Mon, từ thời kì tiền Lan Na cho đến lúc đó (8) . Tuy nhiên, sau khi suy xét, có lẽ Sumanathera muốn thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của truyền thống Phật giáo Mon và muốn xây dựng nên một giáo phái mới thuần chất Phật giáo Singhalese. Vào năm 1373, Sumanathera đã chuyển thánh tích mà ông đã mang từ Sukhothai tới chùa Suan Dòk (ngoại ô Chiang Mai). Tại đây, ông đã sáng lập giáo phái Wat Suan Dok theo truyền thống Phật giáo Singhalese.
Grabowsky cho rằng: Trong khi Wat Phra Yün tượng trưng cho sự liên tục của lịch sử tiền Thái xưa (Mon-Lawa), thì Wat Suan Dòk tượng trưng cho sự liên kết giữa Phật giáo Theravada với nền chính trị của người Yuan mà không đưa đến xung đột với truyền thống Mon. Việc liên kết này đã giúp thúc đẩy sự tập trung chính trị ở Lan Na và thúc đẩy sự phát triển của một ý thức khu vực đồng nhất giữa người Yuan với cộng đồng đa dân tộc nơi đây (9) . Với những việc làm đó, Pha Yu và Kün Na là những người đã đặt nền tảng cho sự lan tỏa mạnh mẽ của Phật giáo và đưa tôn giáo vào đời sống chính trị, yếu tố đã dẫn đến thời đại vàng son của vương quốc Lan Na.
Saen Müang Ma (1385-1402) kế vị vua cha vào năm 1385, lúc 23 tuổi. Trong thời trị vì của Müang Ma, chiến tranh đã nổ ra với Ayuthaya (Xiêm) – một thế lực lớn của người Thái ở hạ lưu lưu vực sông Chao Phraya vào năm 1386. Thắng lợi đã thuộc về Lan Na. Chiến thắng của Chiang Mai được viết trong các biên niên sử miền Bắc Thái (10) và đã được nguồn sử liệu Xiêm thừa nhận.
Müang Ma đã cho quân tấn công Sukhothai nhằm mở rộng thế lực và lãnh thổ vương quốc. Nhưng việc làm có ý nghĩa trong thời trị vì của ông có lẽ là việc tập trung phát triển Phật giáo vương quốc. Một trong số đó là cho xây dựng Phra Chedi Luang với quy mô lớn đến 2000 wa.
Người Yuan chưa có chữ viết khi họ đến Lan Na và cũng không có truyền thống Phật giáo. Tổ chức hành chính, tổ chức xã hội và nền tảng kĩ thuật của họ tinh tế hơn và hiệu quả hơn những cư dân địa phương (Mon, Lawa, Khmer). Dù nền văn hoá của họ chưa thể sánh bằng những cư dân ở đây nhưng họ sớm thu hẹp khoảng cách bằng cách kết hợp với người Mon (11) . Khoảng năm1350, phần lớn Lan Na đã được cai trị bởi người Yuan, kiểm soát một cách trực tiếp hay gián tiếp hoặc chịu ảnh hưởng của Chiang Mai. Vậy là trong một thời gian ngắn, người Yuan không chỉ thay thế người Mon và các nhóm người khác trong vai trò là những nhà quản lí của vùng này mà còn mở rộng hơn nữa phạm vi lãnh thổ của người Mon trước đây.
2. Sự phát triển tới thời kì vàng son của vương quốc Lan Na (1400 – 1525)
Thời kì Lan Na xây dựng và củng cố vương quốc kéo dài khoảng 100 năm (1300 – 1400). Bước sang thế kỉ XV, Lan Na tiến vào giai đoạn phát triển rực rỡ trong khoảng 125 năm (1400 – 1525). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “Thời kì vàng son”. Saen Müang Ma chết vào mùa xuân năm 1402, các vị bô lão được triệu tập ở Chiang Mai đã bầu Sam Fang Kaen làm vị vua mới. Dưới thời vua Sam Fang Kaen (1402 – 1441), một cuộc chiến tranh giành ngai vàng đã diễn ra mà địch thủ là Ñi Kum Kam (anh cùng cha khác mẹ với Sam Fang Kaen) kết hợp với quân Sukhothai dưới thời trị vì của Sai Lüthai (1398–1419). Cuộc đấu tranh được miêu tả chi tiết trong các nguồn biên niên sử ở miền Bắc Thái, gây nên sự thiệt hại nặng nề của cả hai bên: “Số lượng lớn quân Chiang Mai và quân miền Nam (Sukhothai) bị giết. Họ giết lẫn nhau gần một cái ao, cái ao do đó mang tên là Nòng Saen Tòn (cái ao của 100000 chân tay bị chặt) ”(12) , cái tên này vẫn được sử dụng cho tới tận ngày nay. Cuối cùng, chiến thắng thuộc về quân đội Chiang Mai. Sau chiến thắng này, sức mạnh và sự thống nhất Lan Na được củng cố.
Ngoài một cuộc chiến tranh nữa với nhà Minh (Trung Quốc) vào năm 1402 (13) , thì hầu hết trong thời trị vì dài của Sam Fang Kaen, người dân được sống trong cảnh hoà bình. Từng bước, ông ấy đã củng cố quyền thống trị lên toàn bộ vương quốc Lan Na. Sam Fang Kaen đã bổ nhiệm người con trai lớn nhất của ông làm phó vương (uparat) ở thành Wiang Cetlin gần Chiang Mai. Những người con khác của ông được cử đến cai trị những vùng đất quan trọng khác của vương quốc như Chiang Saen, Chiang Rai, Phayao, Phrae và Fang.
Cũng dưới thời Sam Fang Kaen, một cuộc cải cách mới của Phật giáo Singhalese được thực hiện. Kết quả của cuộc cải cách này là một giáo phái mới xuất hiện: giáo phái Wat Pa Daeng hay còn gọi là Nikai Langkawong, được truyền bá bên cạnh các giáo phái cũ Wat Suan Dòk, Wat Phrathat Hariphunchai (Wat Phra Yün). Giáo phái Wat Pa Daeng được các vua thời sau ủng hộ nên nhanh chóng phát triển, gây ảnh hưởng hơn cả hai phái Phật giáo cũ. Vào năm 1441, nhà vua truyền ngôi vị lại cho con trai là Tilokaracha (1442 – 1487).
Vua Tilok (tên viết tắt của Tilokaracha) theo chính sách khoan dung tôn giáo, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất mối bất hoà của các giáo phái Phật giáo khác nhau mà không có sự ép buộc nào. Nhưng ông ấy có sự ủng hộ mạnh với giáo phái Nikai Langkawong và đặt nó dưới sự bảo trợ của hoàng gia. Dưới thời trị vì của Tilok, việc liên kết tôn giáo với chính trị được thực hiện mạnh mẽ. Đến thời điểm này, Tilok đã được tôn vinh là quốc vương vũ trụ/vạn vật (universal monarch, tiếng Pali gọi là Cakravartin). Ý tưởng Cakravartin có mối quan hệ gần gũi với khái niệm dharmaraja (đại vương: vua – thần) của người Khmer, điều này được minh họa trong một đoạn của Biên niên sử Jinakalamalipakaranæam ca ngợi đức vua: “Ông ấy được ban cho đức tính dũng cảm, sự tinh thông và huy hoàng; ông là người có khả năng nhận thức rõ cái gì là tốt với chính mình và với người khác; ông là người thận trọng, trung thành, ngoan đạo và sở hữu sự hiểu biết uyên thâm. Kể từ khi nhận được sự phong thánh, ông ấy được biết tiếng vua vũ trụ Siridhamma, hoàng đế Tilok” (14) . Tinh thần Cakravartin cũng được chứng tỏ qua cái tên đầy đủ của nhà vua là Cao Siridhamma Cakraphat Tilokrarachathirat – “Chúa tể của dharma, cakravartin, người cai trị cả 3 thế giới, vị vua của các vua” (15) . Những điều này cũng đã chứng tỏ sự thắng lợi của xu hướng tập quyền nhà nước dưới thời trị vì của Tilok.
Ý niệm của Tilok về vị vua “vừa là người trị vì” và “vua vũ trụ (tôn giáo)” đã được chia sẽ bởi một người cùng thời với ông ấy, vua Bòrommatrailokanat (16) (Trailok) của Ayutthaya (1448–1488). Nhưng hai vị vua là kẻ thù không đội trời chung với nhau. Mấy mươi năm cuối thế kỉ XV, các cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra giữa hai vương quốc mà tiêu điểm là cuộc tranh giành quyền kiểm soát Sukhothai – Phitsanulok. Sukhothai – Phitsanulok có một vị thế quan trọng. Những tuyến đường thương mại nối kết Lan Na với miền thượng Vân Nam và miền biển phải đi qua Sukhothai – Phitsanulok, cũng như từ đây đi xuống vùng hạ Miến hay đến vịnh Xiêm. Việc kiểm soát Sukhothai bởi Lan Na hay Ayuthaya đều đem lại chiến thắng khải hoàng cũng như một sự thuận lợi dài lâu trước kẻ thù của họ. Không bên nào giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này dưới thời trị vì của Tilok và Trailok.
Hai năm sau khi Tilok lên ngôi, Lan Na đã gây chiến tranh với tiểu quốc Nan. Nan, một nơi có vị thế quan trọng về kinh tế vì các mỏ muối, cuối cùng bị sáp nhập vào Lan Na năm 1449. Tiểu quốc Phrae, bạn đồng minh của Nan, cũng trở thành một bộ phận của Lan Na.
Nói chung, trong thời trị vì của Tilok, ông đã thu phục người Lü và Khün ở Ken Tung (tiểu quốc Shan) và Chiang Rung (Vân Nam). Ông ấy chinh phục và sáp nhập Nan, Phrae và 11 tiểu quốc Shan. Lan Na đạt lãnh thổ lớn nhất dưới thời Tilok, trải dài từ sông Salween (Miến Điện) đến sông Mekong, từ Keng Tung và Chiang Rung ở phía Bắc (Vân Nam) đến Lamphun (có khi là Sukhothai) ở phía Nam (trung lưu sông Chao Phraya).
Một trong những dấu ấn đỉnh cao của Phật giáo Lan Na là cuộc Kiết tập Phật giáo quốc tế lần thứ 8 (Sangayana) vào năm 1477 đã diễn ra tại Wat Jet Yot gần Chiang Mai nhằm mục đích thanh chỉnh kinh Phật (phù hợp với kinh điển Phật giáo) khỏi sự sai lạc. Vua Tilok cho xây dựng ngôi tháp mộ (stupa) Phra Maha That tại Lamphun, và cho đúc nhiều chuông và tượng. Cũng vào năm 1477, bộ kinh mới Tipitæaka bằng tiếng Pali được xuất bản. Thập niên cuối trong thời trị vì của mình, Tilok đã cho xây dựng một số lượng lớn đền tháp trên khắp đất nước (17) . Những điều đó đã biến Lan Na thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn và có nhiều ảnh hưởng trên thế giới thời kì đó.
Tilok chết vào năm 1487, cháu nội của ông ấy là Ñòt Chiang Rai (Ñòt Ciang Hai) kế vị ngai vàng. Biên niên sử không cho chúng ta biết nhiều về thời gian trị vì tương đối ngắn ngủi của vị vua này. Từ năm 1495, ông ấy buộc phải nhường ngôi lại cho người con trai 14 tuổi của ông tên là Müang Kaeo. Dưới thời trị vì của Müang Kaeo, văn chương Phật giáo bằng tiếng Pali rất thịnh hành. Những tác phẩm nổi tiếng như Jinakalamalipakaranam, Camadevivama và Mulasasana được viết trong thời gian này. Nhà vua đã ủng hộ việc xây dựng các tự viện với số lượng chưa từng thấy. Có 3 dòng phật giáo chính ở Lan Na: Wat Suan Dòk, Wat Pa Daeng và Wat Phrathat Hariphunchai, đã được hoà giải bởi vua Müang Kaeo. Ba dòng phật giáo này được sự ủng hộ của Müang Kaeo và coi Müang Kaeo là “một nhà cai trị công bằng và đạo đức” (thammikarat)(18) , trong khi đó (như hành động đáp lại), vua đã ban cho các nhà sư nhiều đặc quyền, đặc lợi.
Song song với sự phát triển tâm linh – tinh thần là sự phát triển về vật chất và các lĩnh vực khác. Học giả Hans Penth đã tóm tắt sự phát triển đó như sau: Lan Na có một bộ máy quản lí phong kiến đươc tổ chức tốt; các dự án phát triển các vùng, liên vùng và cơ sở hạ tầng như như hệ thống đường sá, những con đường lữ hành được xây dựng; các con đập, con kênh và bánh xe nước lớn (luk) phục vụ mục đích tưới tiêu được thực hiện; quân đội vững mạnh; thợ thủ công và kiến trúc sư điêu luyện; đông đảo các nhà sư có kiến thức uyên bác – họ đã viết ra những cuốn sách nổi tiếng và quý giá; tỉ lệ những người biết chữ cao, bởi vì hầu hết những người đàn ông trẻ thường vào chùa làm sư và học tập trong một thời gian; nhiều thầy thuốc giỏi; luật pháp và phép tắc được biên soạn rõ ràng, trong đó dành nhiều chỗ cho sự phát triển cá nhân; các loại thuế vừa phải và nhà nước giới hạn việc lao động nghĩa vụ cho các vương công quý tộc. Nhà vua và các hoàng tử có quyền lực tuyệt đối nhưng thường xuyên hỏi ý kiến rộng rãi của các quan lại và nhà sư. Những người bình dân thích thú với cảnh tự do cá nhân (19) . Tất cả những việc làm trên đã tạo nên một Lan Na thịnh vượng vào năm 1500.
Trong suốt thời đại vàng son, Lan Na đã phát triển thành một trung tâm thương mại quan trọng. Trong bài nghiên cứu về sự tương tác lẫn nhau qua đất liền giữa nhà Minh và Đông Nam Á, Sun Laichen đã đưa ra ý kiến rằng, ở Lan Na “một khối lượng lớn đáng kinh ngạc kim loại đã chi cho các mục đích tôn giáo […], không nghi ngờ về một sự phát triển lớn về thương mại, cả nội thương lẫn ngoại thương” (20) . Hầu hết các kim loại quan trọng như vàng, bạc, đồng, sắt có lẽ đến từ Vân Nam. Việc hợp nhất tạm thời miền Sipsòng Panna, một vùng giàu các mỏ bạc và quặng sắt như một chư hầu của Chiang Mai trong suốt thời trị vì của Tilok đã đưa đến sự nổi lên của nền kinh tế Lan Na. Những mối quan hệ thương mại gần gũi giữa Lan Na và Trung Quốc vẫn được tiếp tục trong các thập niên tiếp theo.
Lan Na cũng duy trì trao đổi văn hoá và thương mại với các quốc gia láng giềng khác như Miến Điện, Ayuthaya, Lansang và giữ vai trò là trung tâm xuất khẩu và nhập khẩu quan trọng. Khi Lan Na bước vào thời đại vàng son và trở thành một quyền lực mang tính lãnh đạo, nhiều đặc trưng văn hoá và thành tựu của nó được truyền sang các khu vực láng giềng như chữ viết, phật giáo, kiến trúc điêu khắc… những nơi mà Lan Na từ xưa đã có quan hệ gần gũi. Luang Prabang (Lan Chang), Chiang Tung (vùng đất của người Thái Khün, ở cực đông các tiểu quốc Shan), Chiang Rung (vùng đất của người Thái Lü, Sípsong Panna) cũng tiếp nhận chữ Dhamma (chữ Tham) và Phật giáo từ Lan Na. Từ đó, miền bắc Thái Lan, tây bắc Lào, phần đông bắc Miến Điện và vùng tây bắc Trung Quốc hình thành một khu vực trải rộng với một nền văn hoá tương đồng – “Nền văn hoá của khu vực chữ viết Dhamma” (21) . Sự tương đồng này vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Sau năm 1525, Lan Na dần suy yếu, rồi từ giữa thế kỉ XVI trở đi, Lan Na trở thành đối tượng xâm lược của các nước láng giềng hùng mạnh hơn như Miến Điện, Ayuthaya, Lansang.
3. Một vài kết luận
Dựa trên thành quả của một nửa thế kỉ tạo lập vương quốc, Lan Na dần dần phát triển thành một vương quốc lớn mạnh không chỉ ở việc lãnh thổ được mở rộng mà còn khả năng gây ảnh hưởng chính trị của nó ra các quốc gia láng giềng. Phạm vi lãnh thổ và quyền lực của nó ở thời kì đỉnh cao quyền lực vượt ra ngoài phạm vi 8 tỉnh ở miền Bắc Thái Lan ngày nay (gồm 11 tiểu quốc Shan ở thượng Miến Điện, Sipsong Panna, và Sukhothai ở phía Nam). Có thể đánh giá, vào thế kỉ XV và đầu thế kỉ XVI, vương quốc Lan Na hoàn toàn có thể sánh vai cùng các cường quốc Ayuthaya, Đại Việt, Miến Điện, Lào trên nhiều phương diện. Lan Na là một trong các chủ thể chính ở Đông Nam Á lục địa. Vì vậy, sự hình thành và phát triển của Lan Na không chỉ góp phần to lớn tạo nên một bước tiến dài của Thái nói chung trong việc “chủ hoá” vùng đất phía Bắc bán đảo Trung Ấn, mà còn trở thành một trong 3 chủ thể (còn có Sukhothai, Ayuthaya) để lập nên đất nước Thái Lan hiện đại.
Hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá của Lan Na có mối quan hệ hết sức mật thiết với tôn giáo (Phật giáo), chúng tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Ý thức về việc cần một công cụ tinh thần để cai trị đất nước của các nhà cầm quyền Lan Na đã đưa đến sự phát triển mạnh mẽ tư tưởng Phật giáo – học thuyết được các vua Lan Na lựa chọn. Trở lại, Phật giáo trở thành nền tảng tư tưởng chính thống để các vua chúa Lan Na sử dụng nhằm giáo hoá và cai trị nhân dân trong một chuẩn mực đạo đức và trật tự mà bản thân giáo lí Phật giáo đã hàm chứa và được cổ suý, hợp pháp hoá trên toàn bộ vương quốc bằng quyền lực chính trị của vị vua. Truyền thống văn hoá hồn linh của người Thái kết hợp với nền minh Phật giáo Mon đã đưa đến sự hoà hợp văn hoá – dân tộc tại đây và nền tảng văn hoá mới đó đã tạo nên “lực đẩy” mạnh mẽ, để đến nửa sau thế kỉ XV Lan Na trở thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn của thế giới lúc bấy giờ. Quả thực, Phật giáo trở thành hệ tư tưởng độc tôn đối với thần dân và giai cấp thống trị, tác động đến mọi mặt đời sống của người dân, tạo sự tiến bộ vượt bậc về văn hoá, biến Lan Na thành một quốc gia văn hoá – văn minh Phật giáo.
Với sức sống mạnh mẽ của một đất nước đang trỗi dậy, Lan Na đã truyền bá nhiều đặc trưng văn hoá và thành tựu của nó ra các nước láng giềng nước, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung về văn hoá khu vực, nhất là vùng cực bắc Đông Nam Á – vùng đất tiếp giáp biên giới Myanma – Thái Lan – Trung Quốc – Lào hiện nay. Người Shan ở vùng thượng Miến, người Lü, người Khün ở miền Nam Trung Hoa và cả người Lào là những người tự nguyện tiếp nhận ảnh hưởng này, nhất là chữ viết và Phật giáo.
Vượt qua hơn nửa thiên niên kỉ lịch sử đầy biến động, dấu ấn huy hoàng của nền văn hoá Lan Na vẫn còn in đậm và tiếp tục duy trì ảnh hưởng ở miền Bắc Thái Lan và các khu vực phụ cận.
Chú thích:
(1) Người Yuan là thuật ngữ mà người Miến Điện và người Xiêm dùng để gọi người Thái sống ở Lan Na.
(2) Xem Alexander B. Griswold, and Prasert na Nagara (1977), “The Judgements of King Man Ray’: Epigraphic and Historical Studies No. 17. Journal of the Siam Society, Vol. 65, Part 1, p. 137-160.
(3) Người Khün và người Lü là những cư dân nói tiếng Thái, có mối quan hệ rất gần gũi với người Yuan về ngôn ngữ, chữ viết và tôn giáo. Người Shan thuộc một nhóm khác, khác 3 nhóm người kia về đặc trưng văn hoá và ngôn ngữ.
(4) Xem Đặng Văn Chương, Trần Đình Hùng, Vai trò của Mangrai trong lịch sử Lan Na, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (2009).
(5) Volker Grabowsky (2004), The Northern Tai Polity of Lan Na (Babai-Dadian) Between the Late 13 th to Mid-16th Centuries: Internal Dynamics and Relations with Her Neighbours, Asia Research Institute, No.17, pp. 9.
(6) David K Wyatt, Aroonrut Wichienkeeo (1995), The Chiang Mai Chronicle, CM Silkworm Books, p. 62-63.
(7) Ở Lan Na, chùa được chia làm hai loại tuỳ thuộc vào vị trí đặt chùa ngay trong khu dân cư hay cách xa nó (ít nhất, theo lí thuyết, là 500 chiều dài cây cung). Những vị sư ở các chùa đóng tại khu dân cư được gọi là những người cư trú ở thành phố (city dwellers, nagaravās); những nhà sư ở các chùa xa khu dân cư, nhóm này đông đảo hơn, được gọi là những người cư trú ở rừng (forest dwellers – arannavāsī).
(8) Micheal Vickery cho rằng sau khi trở thành một bộ phận của Lan Na, Lamphun vẫn giữ vai trò là trung văn hoá – tôn giáo của vương quốc mới (không phải Chiang Mai) ít nhất cho đến đầu thế kỉ XVI. (Xem Michael Vickery (2003), Cambodia and its neighbors in the 15th century, Asia Research Institute, Singapore, p.30-31).
(9) Volker Grabowsky (2004), đã dẫn, tr. 11.
(10) David K Wyatt, Aroonrut Wichienkeeo (1995), sđd, tr.65-66.
(11) Hans Penth (1994), A Brief History of Lan Na: Civilizations of North Thailand, CM Silkworm Books, p.39.
(12) David K Wyatt, Aroonrut Wichienkeeo (1995), sđd, tr. 71.
(13) Geoff Wade (translator) (2008), Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, p.379-395.
(14) Ratanapañña (1968), The Sheaf of Garlands of the Epochs of the Conqueror, being a translation of Jinakalamalipakaranam (translated by N. A. Jayawickrama), Pali Text Society, London, pp.133-134.
(15) Volker Grabowsky (2004), sđd, pp.16.
(16) Bòrommatrailokanat có nghĩa là “Trailok – vua vũ trụ, người bảo vệ của ba thế giới”.
(17) Ratanapañña (1968), sđd, p.139.
(18) Ratanapañña (1968), sđd, tr.153.
(19) Hans Penth (1994), sđd, tr.145-146.
(20) Sun Laichen (2003), “Military Technology Transfers from Ming China and the Emergence of Northern Mainland Southeast Asia (c. 1390–1527).” Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 34, No. 3, p. 495-517.
(21) Hans Penth (1994), sđd, tr.59.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Chƣơng, Trần Đình Hùng (2009), Vai trò của Mangrai trong lịch sử Lan Na, Tạp chí Nghiên cứu Đông Á, số 4.
2. Alexander B. Griswold, Prasert na Nagara (1977), “The Judgements of King Man Ray’: Epigraphic and Historical Studies No. 17. Journal of the Siam Society, Vol. 65, Part 1.
3. Volker Grabowsky (2004), The Northern Tai Polity of Lan Na (Babai-Dadian) Between the Late 13th to Mid-16th Centuries: Internal Dynamics and Relations with Her Neighbours, Asia Research Institute, No.17.
4. David K Wyatt, Aroonrut Wichienkeeo (1995), The Chiang Mai Chronicle, CM Silkworm Books.
5. Michael Vickery (2003), Cambodia and its neighbors in the 15th century, Asia Research Institute, Singapore.
6. Hans Penth (1994), A Brief History of Lan Na: Civilizations of North Thailand, CM
Silkworm Books.
7. Geoff Wade (translator) (2008), Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore.
8. Ratanapañña (1968), The Sheaf of Garlands of the Epochs of the Conqueror, being a translation of Jinakalamalipakaranam (translated by N. A. Jayawickrama), Pali Text Society, London.
9. Sun Laichen (2003),“Military Technology Transfers from Ming China and the Emergence of Northern Mainland Southeast Asia (c. 1390–1527)” Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 34, No. 3.
Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Số 9 – Tháng 4/2012
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Về quá trình từ khởi đầu tới thời kì vàng son của vương quốc cổ Lan Na (Tác giả: ThS. Trần Xuân Hiệp, ThS. Trần Đình Hùng) |