Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang

EFFECT OF TREATMENT CONDITIONS ON THE PRESERVATION
OF TRICOLOR MANGO (MANGIFERA INDICA) PIECES

Tác giả bài viết: VÕ VĂN THẮNG1, DƯƠNG PHƯƠNG ĐÔNG1
(1Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM)

TÓM TẮT

     Trên cơ sở khái quát sự hình thành với những nét đặc trưng về văn hóa của người Chăm ở An Giang, bài viết tập trung làm rõ âm nhạc truyền thống và đương đại của cộng đồng này ở An Giang, đồng thời, tác giả làm rõ các đặc điểm về nét đặc trưng âm nhạc người Chăm An Giang. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm dị biệt và tương đồng trong âm nhạc người Chăm An Giang với người Chăm miền Trung Việt Nam. Từ thực trạng đời sống âm nhạc của người Chăm An Giang, tác giả đề xuất những giá trị cần bảo tồn và phát huy cùng với những yếu tố nhằm tạo điều kiện cho nền âm nhạc này phát triển phong phú hơn trong hiện tại và tương lai.

Từ khóa: An Giang, âm nhạc, Chăm.

ABSTRACT

     Based on the overview of the formation with the cultural characteristics of the Cham people in An Giang, the article focuses on clarifying the traditional and contemporary music as well as typical musical characteristics of this community. Thereby, the author also points out the differences and similarities in music between the Chams in An Giang music and the Cham people in Central Vietnam. From the current state of the musical life of the Cham people in An Giang, the author proposes values with unique elements that need to be preserved and promoted to help this kind of music be more diverse in the present and future.

Keywords: An Giang, music, the Cham people.

x
x x

1. Giới thiệu

     An Giang là tỉnh nằm ở đầu nguồn lưu vực sông Mekông với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp, vừa có đồng bằng, vừa có đồi núi, có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia dài gần 100km. An Giang có dân số đông nhất ở miền Tây Nam Bộ, đứng hạng thứ 6 ở Việt Nam. An Giang cũng là tỉnh có số người Chăm Islam sinh sống nhiều nhất ở Nam Bộ. Theo thống kê về công tác tôn giáo ở An Giang, toàn tỉnh hiện có 15.327 người Chăm theo Islam giáo (Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang, 2019), chiếm tỷ lệ 0,67% trong tổng số 2,164 triệu người dân An Giang (Tỉnh ủy An Giang, 2018), với tám làng Chăm cùng 12 Thánh đường và 13 tiểu Thánh đường. Mặc dù dân số ít hơn dân tộc Khmer, Kinh trong tỉnh nhưng cộng đồng Chăm ở An Giang với sự gắn kết của tôn giáo và văn hóa, luôn thể hiện rõ nét tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Người Chăm ở An Giang theo Islam giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành nét văn hóa độc đáo cho tộc người Chăm nơi đây, tạo ra những điểm khác biệt cơ bản trong đời sống văn hóa với bộ phận người Chăm tại Ninh Thuận và Bình Thuận.

2. Khái quát lịch sử hình thành người Chăm An Giang

     Người Chăm An Giang hình thành như thế nào đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng căn cứ vào một số tài liệu dân tộc học và những hiện vật còn lưu giữ, đặc biệt là quyết định xác minh cộng cộng đồng dân tộc của Tổng cục Thống kê Việt Nam ngày 2/3/1979, chúng ta có thể nói rằng: Người Chăm An Giang và người Chăm miền Nam Trung bộ đều chung một nguồn gốc lịch sử từ lâu đời. Kể cả người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Campuchia (Lâm Tâm, 1994). Từ thời cổ, trung đại, trên dải đất miền Trung Việt Nam chính là địa bàn cư trú của người Chăm, họ đã từng xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh – Vương quốc Champa (Chiêm Thành) vẫn còn lưu trong sử sách cho đến ngày hôm nay. Theo các sử liệu cổ của Trung Quốc, Vương quốc Champa được thành lập từ năm 192 sau Công nguyên, lấy tên là Lâm Ấp (có nghĩa là xứ rừng). Sau đó, Lâm Ấp lần lượt đổi tên thành Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Lâm Ấp được thành lập là do Khu Liên, một viên chức bản địa vì không chịu nỗi sự cai trị hà khắc của nhà Hán nên lãnh đạo người dân nổi dậy lật đổ chính quyền khu vực Nam Thừa Thiên Huế ngày nay. Lâm Ấp có địa bàn trải dài từ thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng thuộc Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển đất nước, Vương quốc Champa có những biến động nhất định do ảnh hưởng của chiến tranh. Người Champa từng có xung đột với các quốc gia trong khu vực thời bấy giờ như Chân Lạp (Campuchia), Malaska, Xiêm (Thái Lan)… Đặc biệt là những cuộc xung đột và giao tranh với Đại Việt có ảnh hưởng rất lớn đối với sự biến đổi lãnh thổ và dân cư Lâm Ấp.

     Từ thế kỷ thứ X trở đi, sau nhiều lần chiến bại trong những cuộc giao chiến với Đại Việt khiến vương quốc Champa phải lùi về phía Nam. Năm 1471, sau khi bị quân Lê Thánh Tông bắt quốc vương Bàn La Trà Toàn, lãnh thổ Champa chia làm ba nước nhỏ Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, hàng loạt người Chăm đã bỏ chạy “họ trốn lên miền núi với người Thượng, sang Campuchia, bỏ xứ mà đi sang Sumatra. Chỉ có đàn bà, những kẻ hèn nhất và người già cả cùng con nít ở lại thôi” (Nguyễn Văn Luận (1974). Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi thống nhất giang sơn, với sự cai quản chặt chẽ của nhà Nguyễn, năm 1822, vua Champa cuối cùng là PoChơnChan đóng đô ở Phan Rang phải bỏ ngai vàng cùng các binh tướng, tùy tùng và gia đình vượt Trường Sơn trốn sang Campuchia. Năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi lên khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn, chiếm vùng Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang nhưng đến năm 1835, khởi nghĩa bị quan quân dẹp tan, rất nhiều người Chăm sợ triều đình bắt tội nên trốn chạy vào những vùng hẻo lánh hoặc sang Campuchia, Thái Lan, Mã Lai, Inđônêsia… Trong quá trình sống xa cộng đồng gốc, họ chịu ảnh hưởng của tôn giáo Islam khá sâu đậm, vì thế các phong tục tập quán đều phải tuân thủ theo các điều luật trong giáo lý Islam. Đến giữa thế kỷ XIX, được lệnh chiên an của vua Thiệu Trị (1940) phần lớn họ hồi hương về định cư ở Châu Đốc (Nguyễn Quang Điển, 2006). Năm 1841, Nam Bộ có cuộc khởi nghĩa Lâm Sâm ở Trà Vinh. Lúc bấy giờ, vua Thiệu Trị xuống chiếu cho Trương Minh Giảng đang ở Chân Lạp (Campuchia) rút quân về. Những người Chăm và người Mã Lai được tuyển vào quân đội triều Nguyễn cùng gia quyến của họ đã rút theo đoàn quân của Trương Minh Giảng, khâm sai đại thần Lê Văn Đức, phó khâm sai Doãn Uẩn của triều Nguyễn cũng theo về. Sau đó, họ cư trú cùng gia đình dọc sông Hậu (cù lao Katambong) và Khánh Bình (An Phú, An Giang) cho đến ngày nay. Năm 1858, ở Chân Lạp, Tuôn Sết It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều đình phong kiến. Cuộc khởi nghĩa đã thu hút khá đông người Chăm, người Mã Lai tham gia. Đến khi cuộc khởi nghĩa thất bại, rất nhiều người Chăm, người Mã Lai chạy về Nam Bộ. Tất cả đều được Triều Nguyễn thu nhận và cho định cư ở vùng đất An Giang, cụ thể là phân bố trong 7 làng: Châu Giang, Katambong, Phum Soài, La Ma, Koh Koi, Koh Kia và Sa Bâu. Đây được xem là đợt di dân đông đảo nhất của người Chăm từ Campuchia về An Giang.

     Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người Chăm Islam sống sót sau đợt tàn sát của quân Khmer đã chạy qua Châu Đốc tị nạn, được Trương Minh Giảng cho định cư cùng với những người Chăm đã có mặt từ trước ở vùng biên giới dọc theo sông Hậu gần Châu Đốc và Tây Ninh. Do tác động của điều kiện lịch sử diễn ra từ nửa sau thế kỷ XVIII, tạo nên những đợt di dân của người Chăm sau bao năm phiêu bạt đã trở về vùng đất Nam bộ Việt Nam cư trú. Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói chung và ở An Giang nói riêng được hình thành từ hai nguồn chủ yếu: một là, từ Trung Bộ chuyển cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và hai là, một phần khác không nhỏ từ nước ngoài như Chân Lạp, Mã Lai, Inđônêsia trở về. Buổi đầu họ tập trung cư trú rất đông ở An Giang, Tây Ninh và rải rác ở các địa phương thuộc Nam Bộ. Tuy nhiên, do yêu cầu lập nghiệp và ảnh hưởng của chiến tranh, bom đạn dưới thời kỳ Pháp thuộc và ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, nhiều nông dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có khá đông người Chăm, nhất là người Chăm ở An Giang đã bỏ quê lên Sài Gòn hy vọng tìm nơi có cuộc sống yên ổn hơn hoặc đi phá hoang, sống về nghề ruộng rẫy ở tỉnh Bà Rịa, Đồng Nai, rải rác cũng có một số ít sống trong các thị trấn, thị xã. Do điều kiện lịch sử, người Chăm ở An Giang có mối quan hệ với Hồi giáo Malaysia, Inđônêsia,… từ đó, mở rộng quan hệ với cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á và các nước khác. Chính vì thế, cộng đồng người Chăm ở An Giang chịu ảnh hưởng của người Mã Lai nhiều hơn về tiếng nói, tín ngưỡng so với những người đồng tộc của họ ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Tuy vậy, người Chăm Hồi giáo ở An Giang và người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, Bình Thuận có chung một nguồn gốc, một tiếng nói, một nền văn hóa Chăm cổ truyền và biết rõ về tính cộng đồng nguồn gốc này. Trong số người Chăm về An Giang, có một bộ phận được các tài liệu gọi là Đồ Bà mà người Pháp cho là người Mã Lai. Người Chăm gọi họ là “Java – Kur”. Từ “Java” để chỉ những người nói tiếng Mã Lai ở đảo Java (Inđônêsia) và thường cũng để gọi chung những người nói tiếng Mã Lai ở khu vực Đông Nam Á hải đảo; từ “Kur” để gọi người Khmer. Di duệ của người Java – Kur này hiện cư trú tập trung tại xóm Châu Giang, trên khu vực bến phà Châu Giang thuộc thị xã Tân Châu, một ít sinh sống tại Koh Tambong (Koh Tamboong tiếng Chăm có nghĩa là “Cồn Cây gậy”, còn người Khmer gọi cù lao Khánh Hòa là , có nghĩa là “Cù lao Dùi cui” hay “Cù lao Lớn” hay “Cù lao Xương rồng”) thuộc huyện Châu Phú (Sơn Nam, 1988). Trải qua quá trình định cư lâu dài tại vùng đất An Giang, cộng đồng người Chăm đã tạo nên một bản sắc riêng rất độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam góp phần không nhỏ cho bức tranh tươi đẹp của vùng đất mới này ngày hôm nay.

3. Hoạt động văn hóa văn nghệ của người Chăm An Giang

     Có thể nói, hoạt động văn hóa văn nghệ của người Chăm rất phong phú. Lễ Ramadan – Thành lễ – là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào Chăm ở An Giang, được tổ chức từ ngày 01 đến ngày 30 tháng 9 Hồi lịch. Tháng này còn gọi là “Plănơh” có nghĩa là “tháng nhịn” hay tháng ăn chay liên tục trong 30 ngày. Sau tháng ăn chay, người Chăm tổ chức lễ đại lễ xả chay (Roya Eidil Fitri) vào ngày 01 tháng 10. Trong đêm này, mọi người vui mừng ca hát rất náo nhiệt, sôi động. Sáng hôm sau, đàn ông trong xóm đi đến Thánh đường làm lễ và cầu nguyện, sau đó cùng người thân đi viếng mộ người thân, thăm họ hàng trong làng. Thánh lễ quan trọng đối với người Chăm là lễ hành hương tại thánh địa Mecca (Roya Haji), diễn ra đúng vào ngày 9 tháng 12 Hồi lịch tại thánh địa Mecca. Riêng những người ở tại xóm, ấp lại tiến hành ăn lễ vào ngày 10 tháng 12 Hồi lịch. Trong các ngày hội lớn, các hoạt động diễn ra tạo nên một không khí hết sức vui tươi nơi cộng đồng người Chăm sinh sống. Trước đây, do sự ngăn cấm của giáo luật Hồi giáo nên sinh hoạt văn nghệ dân gian không được phát triển nhưng bù lại, người Chăm An Giang đã xây dựng nên một nền văn học với đủ các loại truyện kể. Qua những truyện kể ta có thể nhận thấy cộng đồng Chăm Islam ở An Giang luôn đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình anh em như truyện Đôrya cô gái nết na, Amách và Sifoah,… Đặc trưng trong hầu hết các câu truyện kể của người Chăm An Giang đều thấp thoáng hình bóng của thần linh hiện ra để giải quyết những khó khăn mà khả năng con người không làm được. Ngoài ra, họ cũng có truyện cười, truyện ngụ ngôn hay truyện thần thoại kể về Mohammad, về thiên thần theo kinh Qur’an. Có thể nói, nền văn học Việt Nam có sự đóng góp không nhỏ kho tàng văn học của cộng đồng Chăm Islam.

     Sinh hoạt âm nhạc người Chăm An Giang không giống như âm nhạc của người Chăm ở Trung bộ. Họ không sử dụng bất kỳ nhạc khí dây, hơi nào ngoài bộ trống Ráp Pà-nà (khác với trống Paranưng, Gineng của Chăm Trung bộ (Người Chăm miền Trung quan niệm: kèn Saranai, trống Paranưng và trống Gineng là biểu tượng của trời, đất, người, thể hiện “thiên, địa, nhân” nhất thể. Do vậy, khi biểu diễn cần chơi ba loại nhạc cụ này để thể hiện sự hòa hợp 3 yếu tố đó. Hiện nay, người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận còn lưu giữ và sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, gồm ba nhóm: một là, bộ gõ gồm có trống Gineng (2 mặt), trống Paranưng 1 mặt, trống Hagăr (2 mặt), Chiêng (cheng) và mõ (akhok); hai là, bộ hơi gồm kèn Saranai, tù và (asăng) và sáo (talăk); ba là, bộ dây gồm đàn Nhị (Kanhi), đàn Bầu “Chapi” và đàn Gáo “Rabăp”). Trống cổ Ráp Pà-nà ở An Giang nếu còn đủ bộ thì có 12 cái và được lưu giữ khoảng 300 năm. Nhưng do chiến tranh, bộ trống bị thất lạc không còn đủ mà chỉ còn 6 cái, trong đó, 01 cái trống đực (trống dẫn), 5 trống cái (Hiện nay, theo khảo sát của chúng tôi, chỉ còn 2 dàn trống cổ ở xóm Chăm Châu Giang (Phú Hiệp, Tân Châu) và đội trống Lama (Vĩnh Trường, An Phú), nhưng chỉ có gần một chục người ở Vĩnh Trường biết chơi, biết hát các giai điệu cổ nhạc Chăm-pa bằng trống Ráp Pà-nà). Người chơi trống Ráp Pà-nà chỉ là nam, ngồi xếp thành hình bán nguyệt, họ vừa đánh cũng có thể vừa hát, trong khi đó, khi chơi trống Paranưng (cả ngày lễ tết và ngày thường) ở miền Trung, người chơi vừa đánh trống vừa múa hát, cả nam lẫn nữ đều hát, múa chung vui. Do nhu cầu giao lưu văn hóa, trống Ráp Pà-nà ở An Giang cũng được biểu diễn trong các lễ hội như trống Paranưng. Từ trống Ráp Pà-nà, người Chăm An Giang phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo trong khi chơi với thể loại dân ca: các điệu hò, vè, hát đố, hát ru, các bài đồng dao, hát giao duyên Ađtơn, Atằm Tànà, ca dao Pa-nược Pa-dát. Trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ, chúng ta không thấy sự xuất hiện của những cô gái Chăm duyên dáng với những điệu múa quạt xòe, mềm mại như ở miền Trung mà chỉ có tiếng trống. Tiếng trống thể hiện sự linh thiêng và được xem là linh hồn của người Chăm, cho nên, nó cũng luôn được xuất hiện trong những buổi cầu nguyện hàng tuần hay các buổi lễ lớn tại các thánh đường.

4. Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang

     4.1 Âm nhạc truyền thống của người Chăm An Giang

     Cũng như người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, đời sống văn hóa của người cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự tác động của tín ngưỡng, nhưng có phần lắng đọng hơn so với người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, bởi lẽ, người Chăm An Giang theo Islam giáo (tôn giáo độc thần – Thánh Allah). Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các bài hát cổ của người Chăm An Giang đều xuất phát từ những câu hát gọi đến thánh đường làm lễ (Adhan/Azan). Đối với người Hồi giáo, trong kinh Qur’an (Koran) không cấm ca hát hay chơi nhạc, mà còn khuyến khích chơi trống tạo tiết tấu đệm cho hát (theo những Giáo cả của các làng Chăm ở An Giang đọc và dịch từ kinh Qur’an). Từ lời kinh Qur’an, người Chăm An Giang đã thành lập một Đội Văn nghệ gọi là Campulanh, hiện nay vẫn còn hoạt động tại ấp La Ma, xã Vĩnh Trường, huyện An Phú. Đội văn nghệ này vừa đánh trống vừa hát trong các buổi lễ cưới của người Chăm, mỗi bài hát thường rất dài khoảng 15 đến 20 phút. Tuy nhiên, chúng ta thấy, người Chăm An Giang không hát trong các lễ cầu nguyện mà họ chỉ hát trong đám cưới, trong lao động hay ru con (khác với người Chăm Ninh Thuận chỉ hát góp vui, không sử dụng nhạc khí trong đám cưới).

     Cho đến nay, các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn chưa tìm ra được một nhạc cụ nào (bộ hơi hay bộ kéo giống người Chăm Ninh Thuận) của người Chăm An Giang, chỉ duy nhất ngoài bộ gõ là: Trống Ráp Pà-nà, trống Tum như đã nói trên đây. Người Chăm An Giang chỉ kết hợp trống và hát để tạo ra tiết tấu nhanh, chậm khác nhau nhằm thể hiện nội dung bài hát ở trạng thái buồn, vui và không có múa.

     Dựa trên các yếu tố đã phân tích, để có cái nhìn rõ hơn, chúng ta xem bảng so sánh sau đây để tìm ra những nguyên nhân hạn chế của người Chăm Ninh Thuận và Chăm An Giang trong sinh hoạt âm nhạc.

Chăm Ninh Thuận Chăm An Giang
Âm nhạc truyền thống:
Đa dạng, phong phú về hình thức thể hiện
Âm nhạc truyền thống:
Số lượng ít, đa số bị thất truyền
Khí nhạc: có đủ 3 bộ:
Bộ gõ;
Bộ dây;
Bộ hơi.
Khí nhạc: có 01 bộ:
Chỉ có bộ gõ.
Các bài hát truyền thống:
Đa dạng, đáp ứng cho từng lễ hội, sinh động
Các bài hát truyền thống:
Ít, mai một, hầu như không còn

     Bộ trống của người Chăm An Giang:

     Trống Ráp Pà-nà: Có hình dáng giống Paranưng nhưng mục đính và cách biểu diễn có phần khác nhau về tư thế ngồi đánh trống. Bộ trống đầy đủ gồm 12 cái (2 trống đực, 10 trống cái). Trống Ráp Pà-nà được làm bằng cách khoét lỗ thân các loại danh mộc như giáng hương, mun… có tuổi từ 100 năm trở lên Trống Ráp Pà-nà chỉ dành cho nam giới chơi vào những ngày lễ tết, lễ cưới. Khi chơi trống, người chơi ngồi thành vòng bán nguyệt. Đội đồng ca cũng là người chơi trống, cất vang những bài hát ca ngợi tình mẹ cha, tình yêu quê hương, đất nước, lời răn dạy con cháu…

     – Trống Tum (trống cái)

    Đây là loại trống tròn, bịt da một mặt, đường kính khoảng 30cm. Mặt trống bịt da dê, thân trống bằng gỗ quý. Trống tum (trống cái) đóng vai trò chủ đạo trong dàn trống, tất cả phải dựa vào nhịp của trống tum (trống cái) mà đánh. Chỉ những người nhạc trưởng và có uy mới được đánh trống này.

     Qua tìm hiểu, khảo sát, sưu tầm của chúng tôi, những bài hát truyền thống của người Chăm An Giang hiện nay được tìm thấy cũng khá ít. Điềunày có lý do là, trong quan niệm người Chăm An Giang, họ theo đạo Islam nên các bài truyền thống là những bài hát của đạo Hồi giáo có nguồn gốc từ Malaysia.

     Như trên đây chúng tôi đã trình bày, âm nhạc người Chăm ở An Giang có đặc điểm là nó dựa vào lời đọc/ mời đến thánh đường làm lễ (Azan), từ đó sáng tạo ra những giai điệu hình thành nên nhiều bài hát truyền thống. Từ những yếu tố, chúng tôi nghiên cứu các thanh âm Azan như sau: 

     Qua thang âm được ghi nhận từ Azan, chúng ta có được thang âm so sánh gần như tương đồng. Đó là thang âm quốc tế Hungarian (Minor).

     Theo chúng tôi tìm hiểu và sưu khảo được, hiện nay có khoảng trên dưới 05 bài được cho là nhạc truyền thống của người Chăm An Giang, gồm:

– 02 bài được hát trong đám cưới;

– 01 bài hát ru con;

– 01 bài hát cầu an;

– 01 bài hát mừng nhà mới.

     Bài hát đầu tiên, là bài hát Iniganhtanh (Đưa rễ).

     Bài hát này được hát suốt thời gian khi chú rể cùng đoàn nhà trai xuất hành sang nhà gái để trao quà cưới và ra mắt chú rể. Sau khi đã thỏa thuận hai bên nhà trai và nhà gái tất cả cùng vui vẻ hát bài Niganhtanh để chúc cho cô dâu và chú rể được bên nhau mãi mãi.

     Hai bài được sử dụng trong đám cưới.

     Ngoài ra, có bài hát được cho là cổ nhất, lâu đời nhất của người Chăm An Giang, đó là bài Hát ru con.

     Bài hát ru được được ra đời từ khi người Chăm Islam sinh sống ở Campuchia (Được chị Mamiri kể lại từ cha mình). Chính sự giao thoa về văn hóa này đã tạo nên nét đặc trưng trong bài Hát ru con cổ của dân tộc Chăm An Giang. Nghiên cứu cho thấy, giai điệu bài hát này được hình thành trên cơ sở các quãng ngũ cung mà nó mang khá đậm nét âm nhạc người Khmer và tương tự điệu Vũ trong ngũ cung trong âm nhạc người Việt Nam.

     Có thể nói, nếu bài Hát ru là bài hát cổ nhất của người Chăm An Giang thì bài Hát cầu an (Pateu Epalih), Hát mừng nhà mới (Salawat) là những bài hát của họ có niên đại khá lâu do những người lớn tuổi, các cả làng truyền lại. Tuy vậy, đa số các bài truyền thống hiện nay đã bị thất truyền, người trẻ không biết đến những bài hát này.

     Nội dung trong bài Hát cầu an: Đây là bài hát dành cho tập thể. Về hình thức biểu diễn, cả làng đi đầu, tay cầm đoạn cây hay một con dao dài, vừa đi vừa hát bài Hát cầu an cùng người trong xóm, tay phát qua trái, phải ngụ ý đuổi ma, đuổi quỷ ra khỏi xóm để người dân trong làng, xóm được bình an sinh sống. Người hát gồm tất cả người trong làng, xóm, đi thành đoàn, hết xóm tạo thành hình vuông 4 góc chung quanh làng, xóm. Đến mỗi góc, đoàn người dừng lại, một người đại diện đọc kinh (Phàn). Khi đọc hết, đoàn người tiếp tục di chuyển đến 3 góc còn lại trong làng và thực hiện cách thức như trên.

     Đây cũng là bài hát dành cho loại hình hát tập thể, nội dung trong Hàt mừng nhà mới (Salawat) thể hiện: Dân làng đến chúc mừng nhà mới của một gia đình trong làng. Họ ngồi quây quần bên nhau, vừa hát, vừa vỗ tay theo nhịp (không sử dụng trống Ráp Pà-nà). Người đứng chỉ chấp tay – không vỗ tay và hát, lắc lư theo giai điệu bài hát.

     4.2 Âm nhạc đương đại của người Chăm An Giang

     Hiện nay, cùng chung sự tác động như giới trẻ người Chăm Ninh Thuận, giới trẻ người Chăm An Giang cũng có hạn chế trong việc phát triển âm nhạc dân tộc, nhất là âm nhạc truyền thống. Với âm nhạc đương đại của người Chăm Ninh Thuận hiện nay, tất cả những loại nhạc cụ, bài hát, điệu múa của họ đang là mối quan tâm của các nhà nghiên cứu văn hóa và âm nhạc, bởi vì, nó đang trên đà mai một dần. Đây cũng là yếu tố khách quan khi âm nhạc hiện đại của thế giới tác động mạnh mẽ đến thế hệ trẻ của người Chăm nói chung. Có thể nói, âm nhạc hiện đại có một sức hút rất mạnh với những đặc điểm là dễ nghe, dễ tiếp cận và hợp với tâm lý tuổi trẻ. Trong khi đó, các bài hát, nhạc cụ… truyền thống của người Chăm thì khó chơi, khó thể hiện đúng với bản chất của nó, đồng thời phải cần thời gian tập luyện lâu dài để thấm dần thì người hát, người chơi nhạc cụ mới có thể chơi tốt và hay được. Hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ là người Chăm không hát được những làn điệu dân ca, điệu ngâm ariya và không biết đánh các loại trống, không thổi được kèn Saranai… của dân tộc mình. Thiết nghĩ, những hạn chế này tất yếu sẽ làm biến đổi dần sắc thái âm nhạc, tính phong phú của truyền thống văn hóa của một dân tộc. Và như vậy, chuyện mai một trong âm nhạc, các điệu múa… truyền thống của người Chăm là điều không tránh khỏi. Đây chính là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm và phải có giải pháp hợp lý.

     Từ thực trạng đó, các nhạc sĩ, những người hoạt động nghệ thuật đã cố gắng khơi dậy tính truyền thống trong các ca khúc mới, dựa trên nền tảng của tiết điệu hiện đại nhằm thu hút giới trẻ người Chăm nhằm hạn chế việc đánh mất bản sắc, sự thiêng liêng trong tín ngưỡng. Trong đó, chúng ta phải kể đến công lao của những nhà hoạt động nghệ thuật như: Biên đạo múa Đăng Hùng, nhạc sĩ người Chăm Amư Nhân, cố nhạc sĩ Đàng Năng Quạ, cố nhạc sĩ TanTu, Phan Quốc Anh, nghệ sĩ Đàng Năng Đức, ca sĩ Bonner Trinh… đã sáng tác và thể hiện thành công những bài ca Chăm như: Bến nước tình yêu (Amư Nhân); Điệu ru đất Tháp (Đàng Năng Đức); Mùa xuân trên tháp cổ (Amư Nhân), Gặp em đêm hội Ramuvan (Amư Nhân),…

     Âm nhạc của người Chăm An Giang cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng và bối cảnh như vậy. Có thể nói, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, có rất nhiều yếu tố bất cập, khó khăn trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống giống với âm nhạc của người Chăm Ninh Thuận, cụ thể ở một số khía cạnh như sau:

     Thứ nhất, như đã phân tích trên đây, các bài hát truyền thống không được định hình rõ nét, số lượng lại không nhiều do yếu tố khách quan về văn hóa, địa lí, lịch sử… Giới trẻ người Chăm ngày nay đa số sử dụng những bái hát có giai điệu vay mượn của người Malaysia, người Việt, kể cả người Khmer. Điều này vô hình trung góp phần tạo nên sự khủng hoảng về giá trị nghệ thuật, không định hướng được sự phát triển âm nhạc trong hiện tại và tương lai của dân tộc mình.

     Thứ hai, những khó khăn của những người hoạt động nghệ thuật và nghiên cứu khoa học lĩnh vực nghệ thuật nói chung hiện nay đối với người Chăm An Giang là chưa có công trình nghiên cứu theo chiều sâu về học thuật chuyên sâu về âm nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung của người Chăm An Giang nhằm tìm ra được thang âm, điệu thức chính xác để từ đó làm căn cứ cho sự phát triển sau này.

     Tuy nhiên, để khắc phục và nâng tầm nghệ thuật mang bản sắc văn hóa dân tộc Chăm An Giang, cũng là để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, những người hoạt động nghệ thuật tỉnh An Giang cũng đã có những đóng góp không nhỏ trong bước phát triển, định hướng âm nhạc hiện tại và trong tương lai cho người Chăm An Giang. Phải kể đến đó là những nhạc sĩ: Lâm Thanh Bình, Võ Thắng, Phan Ngọc, Phương Đông… với nhiều tác phẩm nghệ thuật mang đậm nét dân tộc như Tổ khúc Nurisha – Lâm Thanh Bình, Làng Chăm bên sông Hậu – Võ Thắng, An Giang miền đất đứng – Phan Ngọc,… đã góp phần giữ gìn bản sắc âm nhạc Chăm đương đại. Trong biểu diễn, người Chăm An Giang cũng có những giọng ca trẻ đạt các giải thưởng cao, góp phần làm cho âm nhạc đương đại có sức sống mới, dấy lên phong trào sinh hoạt âm nhạc phong phú hơn, hấp dẫn hơn. Có thể kể đến cô gái Chăm Khotygeh – người đạt Huy chương vàng Liên hoan giọng hát hay lực lượng vũ trang phía Nam năm 1991. Và năm 1993, cô gái Chăm duyên dáng, xinh đẹp Sarigiar cũng đã giành Huy chương vàng giọng hát hay phát thanh – truyền hình toàn quốc…

5. Kết luận

     Truyền thống và đương đại là “sợi dây” không thể tách biệt. Để phát triển nền âm nhạc đương đại, người Chăm cần phải giữ gìn, khai thác, phát triển từ giá trị truyền thống âm nhạc của dân tộc mình. Có như vậy, người Chăm mới có thể sáng tạo ra giá trị nghệ thuật mới nhằm tạo sự cuốn hút, khơi dậy lòng nhiệt quyết, tự tôn dân tộc của giới trẻ người Chăm. Việc đào tạo cơ bản, bồi dưỡng về nghệ thuật, kết hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghệ thuật, những sân chơi mới mẽ, phù hợp và sáng tạo đảm bảo liên tục cho cộng đồng người Chăm là yếu tố không thể thiếu trên con đường bảo tồn và phát huy các giá trị âm nhạc truyền thống, phát triển âm nhạc đương đại là điều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cũng quan trọng. Đến lượt nó, sự phát triển âm nhạc một cách phong phú, hấp dẫn sẽ góp phần quan trọng không chỉ trong việc quảng bá hình ảnh dân tộc Chăm trong cộng đồng quốc tế trên con đường hội nhập mà còn góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang.(2019). Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang lần thứ III năm 2019 (Số 01). An Giang: BC-BCĐ.ĐH.

     Đình Hy – Trương Tốn. (1995). Nhạc cụ truyền thống dân tộc Chăm. Ninh Thuận: Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Thuận.

     Dohammide. (1967). Tục thưởng xuân của đồng bào Chàm Hồi giáo. Tạp san Sử – Địa, số 5.

     Lâm Tâm. (1994). Một số tập tục người Chăm An Giang. An Giang: Chi hội Văn nghệ Dân gian An Giang.

     Nguyễn Thụy Loan. (2001). Thưởng thức về Âm nhạc cổ truyền Việt Nam và lịch sử âm nhạc. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

     Nguyễn Thụy Loan (2007). Giáo trình Lịch sử Âm nhạc thế giới. Cty cổ phần KOV: Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm.

     Nguyễn Văn Luận. (1974). Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam Phần Việt Nam. Sài Gòn: Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên.

     Nguyễn Quang Điển. (2006). Biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Chăm và Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Đại học quốc Gia.

     Sơn Nam. (1988). Lịch sử An Giang. An Giang: Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang.

     Tỉnh ủy An Giang. (2018). Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2017; phương hướng nhiệm vụ năm 2018. (Tài liệu phục vụ Đoàn công tác của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng).

     Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. (2013). Địa chí An Giang. An Giang: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang.

     Võ Văn Thắng., Nguyễn Thị Ngọc Thơ., & Đỗ Thị Thanh Hà. (2018). Người Chăm Islam ở An Giang. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 412, 115-120.

      Ghi chú: Kính mời Quý độc giả xem một số bài hát minh họa trong bài viết ở tệp PDF đính kèm bên dưới.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Quốc tế AGU, năm 2020
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang
(Tác giả: Võ Văn Thắng, Dương Phương Đông)