Ẩn dụ ý niệm về từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  NGUYỄN THỊ LÊ*;
Tiến sĩ  NGUYỄN THU TRÀ**
(*, **Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội)

TÓM TẮT

     Theo lý luận của ngôn ngữ tri nhận thì bản chất của ẩn dụ tri nhận là ẩn dụ ánh xạ qua các miền ý niệm: miền nguồn và miền đích. Sự ánh xạ không phải võ đoán, mà có cơ sở trong con người, trong kinh nghiệm sống hàng ngày và trong tri thức của con người. Cùng nằm trong một không gian văn hóa, Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng trong phương thức sinh hoạt, phương thức tư duy và đặc điểm tâm lý. Vì vậy, các đặc điểm tri nhận với cùng một sự vật hiện tượng của hai dân tộc cũng có nhiều điểm giống nhau. Lý luận này một lần nữa được cùng cố vững chắc hơn thông qua ngữ liệu, miêu tả, phân tích từ chỉ con vật dưới con mắt của người Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng và khác biệt.

Từ khóa: Từ chỉ động vật, ẩn dụ ý niệm, Trung – Việt.

ABSTRACT

     According to the theory of cognitive linguistics, the essence of cognitive metaphor is a metaphor mapping across conceptual domains: source, and target domains. The mapping is not arbitrary but based on human beings, everyday life experiences, and human knowledge. Sharing the same cultural space, China and Vietnam have many similarities in modes of living, thinking, and psychological characteristics. Therefore, the cognitive characteristics with the same thing, and phenomenon of the two countries also have many similarities. The theory is once again supported with the linguistic data, the description, and analysis of words indicating animals in the eyes ofChinese and Vietnamese that have many similarities and differences.

Keywords: Words indicating animals, conteptual metaphor, Chinese-Vietnamese.

x
x x

    Trong lịch sử tri nhận có lẽ người đầu tiên coi ẩn dụ là công cụ tri nhận đó là Black (1998) nghĩa là nó không phải chỉ là một phương cách biểu thị các tư tưởng bằng ngôn ngữ mà còn là một phương cách để tư duy về các sự vật. Ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor): là ẩn dụ dựa trên kinh nghiệm của con người đối với thế giới, trong đó một miền (thông thường là miền cụ thể) được áp dụng để hiểu một miền khác (thông thường là miền trừu tượng hơn), miền thứ nhất được gọi là miền nguồn (source domain) và miền sau gọi là miền đích (target domain).

     Ẩn dụ vừa là một loại hành vi ngôn ngữ, cũng lại là một loại hành vi tri nhận đồng thời cũng lại là một hành vi văn hóa. Nếu chúng ta không suy nghĩ đến ảnh hưởng của nhân tố văn hóa sẽ khó có thể giải thích hai sự việc khác nhau làm thế nào có thể liên hệ trong quan niệm của người, cũng không thể giải thích được con người cảm nhận cơ chế sâu sắc của ẩn dụ.

     Bài viết chủ yếu phân tích ẩn dụ ý niệm về các từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt xuất hiện ở từ vựng và câu, tiến hành nghiên cứu sâu thêm cơ chế tri nhận ẩn dụ, nhấn mạnh sự xuất hiện của ẩn dụ là đến từ trải nghiệm của con người, môi trường sống của con người, phương thức tư duy của con người, truyền thống văn hóa của con người. Sự giải thích của con người đối với các hình tượng trừu tượng, hầu hết là được gắn liền với con vật. Những thứ đó là quan hệ ánh xạ của hai miền ý niệm: miền nguồn và miền đích. Chẳng hạn, các miền nguồn và miền đích được Lakoff và Johnson (1980): “Đời là một chuyến đi, tình yêu là một chuyến đi,… và các ẩn dụ ý niệm này được thể hiện qua các biểu thức ẩn dụ”. Còn các từ chỉ động vật trong bài viết này thì có:

     Ví dụ: miền nguồn: ong bướm

     miền đích: lăng nhăng trong tình yêu, không chung thủy

     Nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong từ vựng chỉ động vật là một lĩnh vực chưa được đào sâu nghiên cứu, song với nhu cầu tìm hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc, nhu cầu giao lưu văn hóa ngôn ngữ và nhu cầu học ngoại ngữ trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong ngôn ngữ trở thành nhiệm vụ quan trọng.

     Hàm nghĩa vãn hóa thường xuất hiện nhiều nhất ở lớp từ vựng chỉ tên gọi động vật, hơn nữa các từ vựng này rất hàm súc về mặt ngữ nghĩa, đồng thời có sự biến đổi ngữ nghĩa rất phong phú trong lời nói. Trong bài viết này, chúng tôi chọn một số từ trong lớp từ vựng chỉ tên gọi động vật thân thuộc gắn bó trong với cuộc sống của người Việt Nam từ lâu đời để phân tích, so sánh hàm nghĩa văn hóa của nhóm từ này trong hai ngôn ngữ Việt và Trung. Thông qua phân tích so sánh thấy được quá trình giao thoa, ảnh hưởng giống nhau và khác nhau trong quan niệm, sự liên tưởng ngôn ngữ giữa Việt Nam và người Trung Quốc.

    Chúng ta đều biết Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có phong tục tập quán, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý, tín ngưỡng tôn giáo và phương thức tư duy tương đối giống nhau. Hơn nữa, người Việt mượn rất nhiều từ gốc Hán của người Trung Quốc, khi vay mượn từ vựng, người Việt đồng thời mượn luôn hàm nghĩa văn hóa có trong từ vựng đó. Tuy nhiên, người Việt, bên cạnh mượn ý nghĩa Hán, lại bổ sung thêm vào những quan niệm, tư tưởng thể hiện bản sắc văn hóa của mình. Những điều này dẫn đến có rất nhiều từ là tên động vật trong tiếng Việt và tiếng Trung có một phần ý nghĩa biểu trưng, liên tưởng giống và khác nhau. Dưới đây tôi xin khảo sát một số tên động vật thường gặp, có ý nghĩa biểu trưng cao nhất. Hình tượng con vật trong lĩnh vực đời sống vãn hóa của người Việt qua so sánh với những biểu tượng và ý nghĩa của các con vật trong truyền thống văn hóa Trung Hoa chúng tôi nhận thấy, người Việt có những cách nhìn rất hiện thực và sinh động về từng con vật, và như một quy luật phổ biến đối với đời sống văn hóa (nhất là những lĩnh vực văn học nghệ thuật), những con vật thân quen đã trở những biểu tượng đa dạng đa nghĩa để người Việt khai thác và sử dụng. Từ đó đúc kết thành những hình ảnh mang tính triết lý, hình tượng cũng rất sinh động, gần gũi để làm đẹp cho kho tàng văn hóa nghệ thuật cũng như cho mối ứng xử của mình.

     Chính với những sáng tạo rất thực tiễn người Việt đã làm phong phú thêm cho một trong những nét văn hóa đặc thù văn hóa phương Đông. Nghiên cứu đối chiếu giữa văn hóa Trung Quốc chúng tôi thấy có một độ khúc xạ làm cho biểu tượng con vật của Trung Hoa bị biến dạng và người Việt đã ký gửi vào đấy những quan niệm của mình, ví dụ như văn hóa của người Trung Nguyên rất coi trọng con ngựa, với tâm lý suy tôn “vó ngựa trường chinh”, nên con ngựa được xem như biểu tưởng của chiến tranh. “Ngựa” có một địa vị rất cao trong văn hóa Trung Quốc “Ngựa” là biểu tượng của những người dân du mục. “Ngựa” là biểu tượng của sự hiếu chiến và dũng cảm trong tiếng Trung Quốc. “Ngựa” còn là biểu tượng của “khả năng, hiền thục, tài năng, công thành danh toại”, người xưa thường ví nhân tài với “thiên lý ngựa”. Vì vậy, “con ngựa” có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và phong tục của Trung Quốc. Khi nhắc đến “ngựa”, người ta thường nghĩ đến những thành ngữ như “ngựa phi không ngừng”, “ngựa phi nước đại vạn người mê”, “ngựa vươn tới thành công”. Còn người Việt, cư dân lúa nước đi lại bằng thuyền, đánh nhau bằng những “thớt voi” nên khi tiếp nhận con ngựa chiến của người Trung Quốc, người Việt biến thành con ngựa thờ gắn với những anh hùng dân tộc. Ngoài ra trong tiếng Việt hình ảnh con ngựa cũng gây cho người Việt nhiều nhiều ấn tượng âm tính thân phận tôi đòi, bị người khác chi phối “thân trâu ngựa”. Ở Việt Nam, “Ngựa” còn thường được dùng để chỉ một người có tính xấu, như: “ngựa non háu đá”, “ngựa bất kham”.

    Cũng hình tượng con rồng, nhưng con rồng của Trung Quốc là biểu tượng gắn với quyền uy của Nhà Vua nên rất oai phong, lẫm liệt và như một ma lực khuất phục con người. Nhưng ở người Việt, hình tượng con rồng lại gắn với nước (nông nghiệp lúa nước), với cội nguồn dân tộc (con rồng cháu tiên), nên biểu tượng về rồng vừa thiêng liêng tượng trưng cho Tổ quốc, dân tộc vừa thân thương, vui vẻ chơi đùa với lũ trẻ (trò chơi rồng rắn, múa lân, rước rồng). Khi còn trẻ thơ, những đứa bé đã mê chơi trò bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây., lớn chút nữa chúng lại được chơi và hát những bài hát đồng dao về những con vật. Những bài hát đồng dao đó không chỉ dạy chúng nhận biết cái xấu, cái tốt của cuộc đời (như những câu thơ ngụ ngôn đầy hấp dẫn và có tính giáo dục cao) mà còn là những bài học đầu tiên dễ nhớ và đà nhớ là nhớ suốt đời về những con vật và về môi trường thiên nhiên. Thật khó có bài học về môi trường nào cho trẻ lại hay, lại dễ hiểu, dễ nhớ như các trò chơi và những bài đồng dao.

    Người Việt Nam và Trung Quốc đều cho rằng hổ là loài hung ác. Hổ tượng trưng cho nơi nguy hiểm và thế lực. Trong tiếng Trung có “vi hổ ác tướng” (nghĩa là mượn uy danh lớn để hành sự), hổ lang chi tâm (lòng dạ hổ lang), hay trong tiếng Việt và tiếng Trung đều có  “phóng hổ quy sơn” (thả hổ về rừng) tiếng Việt có nghĩa ví hành động vô tình lại tạo thêm điều kiện cho kẻ dữ hoành hành ở môi trường quen thuộc, còn trong tiếng Trung lại ví về việc đưa những kẻ xấu trở lại tổ cũ của chúng, lưu lại hậu họa sau này, “hổ dữ không ăn thịt con” thì cả hai ngôn ngữ đều thể hiện tình cảm ruột thịt, “nhị hổ tương tranh” hai thế lực chiến đấu, “tọa sơn quan hổ đấu” ngồi xem hai tướng, hai thế lực chiến đấu, “cưỡi trên lưng hổ” làm một việc rất khó khăn nguy hiểm nhưng cũng không thể dừng lại được.. Trong tiếng Việt có “hổ tướng”, hổ phụ sinh hổ tử” đây là những cụm từ Hán Việt mà người Việt mượn từ tiếng Hán. Tuy nhiên, từ “hổ” trong tiếng Trung ngoài ra cũng có hàm nghĩa khác mà tiếng Việt không có, ví dụ trong tiếng Trung có: “con hổ điện, con hổ nước, con hổ thuế, con hổ nhà đất” hàm nghĩa của “hổ” ở đây đã được chuyển dịch thành thiết bị quá tiêu hao năng lượng và kẻ phạm tội lợi dụng chức quyền tham ô, chiếm đoạt lượng lớn tài sản của nhà nước. Trong khi đó, người Việt lại gọi hổ là “ông ba mươi”. Việt Nam có một truyền thuyết kể rằng đến 30 tết, hổ thường tìm đến các thôn làng ăn thịt người, mọi người sợ hãi gọi hổ là ông ba mươi. Người Trung Quốc nếu không biết truyền thuyết này thì không thể hiểu được người Việt muốn ám chỉ điều gì.

    Người Việt Nam và Trung Quốc đều cày ruộng bằng sức tiâu, bò. Trâu, bò xuất hiện trong nhóm từ vựng mang hàm ý nghĩa văn hóa trong tiếng Việt và tiếng Hán với tần suất cao. Trâu, bò trong hai ngôn ngữ đều tượng trưng cho sức mạnh “sức chín trâu”, “con trâu sắt”, “khỏe như trâu”, “đàn gảy tai trâu”. Ngược lại, trong tiếng Trung và tiếng Việt có những cách diễn đạt khác, trong đó ý nghĩa biểu trưng của từ trâu, bò không giống nhau, nếu như ở tiếng Trung, trâu biểu trưng cho sự kiễn nhẫn, chăm chỉ “lão hoàng ngưu” (chỉ người chăm chỉ, kiên nhẫn). Trâu biểu trưng cho sự ương bướng, cố chấp “ngưu tinh”, phát ngưu tỳ khí (ương bướng, cố chấp) a miêu a cẩu (tầm thường không đáng giá). Trâu biểu trưng cho sự tài giỏi, cao siêu “nhĩ chân ngưu” (bạn thật là siêu). Với những giá trị nhân bản đẹp đẽ và gần gũi như vậy, mà từ xưa tới nay biểu tượng của chúng không bị phai mờ đi, một điều đặc biệt hơn nữa như một số biểu tượng văn hóa tốt đẹp khác càng bước vào kinh tế thị trường, càng hội nhập với khu vực và quốc tế, khi con người càng giàu lên, giá trị biểu tưởng của chúng lại được đề cao và luôn được nhắc tới những con vật khi đã trở thành biểu tưởng cho đất nước Việt Nam đối với Quốc tế mà điển hình là con trâu đã trở thành linh vật của SEA Games 22 tại Việt Nam (biểu tượng con trâu vàng SEA Games). Còn người Việt thì luôn tự hào mình là con Rồng cháu Tiên.

     Do lịch sử văn hóa hai nước có sự khác biệt nhất định, nên tên các con vật gọi thì giống nhau nhưng nội hàm văn hóa của chúng thì khác nhau. Hay cùng một sự vật hiện tượng sử dụng các con vật khác nhau để miêu tả. Con bò trong tiếng Trung có nghĩa tốt, tượng trưng cho người có tính cách có một tinh thần chịu khó chịu khổ, cống hiến:” bò ăn cỏ, và cho sữa, câu nói này thể hiện tinh thần cống hiến thầm lặng. Nhưng trong tiếng Việt thì con bò lại mang nghĩa xấu dùng để ẩn dụ “ngu dốt, ngang ngạch”, “bò đội nón” ngu ngơ/lơ ngơ như bò đội nón”. Đầu bò đầu bướu: Ngổ ngáo, ngang ngạnh, khó dạy bảo.

    Người Trung Quốc tin rằng ý nghĩa biểu tượng của “thỏ” liên quan mật thiết đến thói quen sống và kỹ năng sống của nó. Con thỏ dựa vào thính giác và thị giác nhạy bén để phát hiện sự chuyển động xung quanh bất cứ lúc nào, nếu có gió và cỏ cây, trước tiên thỏ sẽ bất động chờ thay đổi, nếu thực sự nguy hiểm, nó sẽ bay đi với tốc độ không thể bịt tai. Vì vậy, có một câu nói ở Trung Quốc cổ đại rằng “yên tĩnh giống như một trinh nữ, và chuyển động như một con thỏ”. Vì vậy, con thỏ tượng trưng cho tinh thần cảnh giác cao và tính cách dễ sợ hãi. Hơn nữa, thỏ rất giỏi trong việc đào hang phức tạp nên còn tượng trưng cho những người hay nhầm lẫn, khả năng khẩn cấp đa dạng. Khả năng sinh sản cao của thỏ đã trở thành biểu tượng của sự thèm khát và khả năng sinh sản. Có thành ngữ Trung Quốc về “thỏ” bao gồm “thỏ chết chó nấu ăn”, có nghĩa là khi thỏ chết, chó săn bị người ta nướng chín, ăn thịt, là hình ảnh ẩn dụ cho những người phục vụ kẻ thống trị và bị bỏ rơi hoặc bị giết từ Sử ký. Ở Trung Quốc, con thỏ còn tượng trưng cho tuổi thọ. Vì vậy Đạo giáo đã suy tôn là con thỏ thần tiên có thể làm thuốc trường sinh, cho con thỏ dùng cối dưới cây nguyệt quế để đập thuốc, sau đó con thỏ từ từ tiến hóa thành biểu tượng của ngành y. Trong tiếng Việt, nghĩa biểu tượng của “thỏ” là tính nhút nhát, chẳng hạn như: “Nhát như thỏ đế”.

    Hay trong tiếng Việt một số con vật được coi là những biểu tượng trong tình yêu đôi lứa như: Ai làm cho phượng lìa loan/Dang tay mà bẻ kim vàng làm đôi’, Mèo hoang lại gặp chó hoang/Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai’, Yêu nhau anh đến tận nhà…/Một mình chả dám trao duyên, bướm ong giữa chợ sao nên, có những cặp đôi như: phượng – loan, phượng/ phụng – rồng, nhạn – én (yến), chim uyên/uyên ương, oanh – yến đều là những kỳ vọng có được một tình yêu đẹp, rồng là nam tính, loan là nữ tính cũng là tượng trưng của tình yêu. Thời cổ ở Việt Nam khi kết hôn, chăn gối đều có thêu hình rồng, loan, phượng. Ví dụ: Rồng giao đầu, phượng giao đuôi/Nay tui hỏi thiệt, thươmg tui không mình’, Cậy ông Nguyệt lão với bà Tơ vương/Chăn loan gối phượng sẵn sàng, khăn tay tặng người yêu có thêu uyên ương bởi vì uyên ương là tượng trưng tình yêu trung thành vì thông thường chim uyên ương sống thành cặp. Hình ảnh con tằm cũng xuất hiện, có liên quan đến sản xuất nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm của người Việt: Trách tằm kia chẳng đoái hoài tới dâu. Hình tượng phượng hoàng cũng rất hay được dung ví von trong tình yêu đôi lứa của dân tộc Việt. Theo truyền thuyết, loài chim Phượng Hoàng linh thiêng chỉ đậu trên cây ngô đồng và khi chim Phượng Hoàng về đậu thì sẽ có thánh nhân ra đời. Từ truyền thuyết đẹp này mà hình tượng này được dùng cho đôi nam nữ trong tình yêu. Đôi ta được gặp nhau đây/Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng. Ngoài ra cũng có một số động vật được biểu trưng cho tình yêu bất chính chúng là “bướm ong”. Cho đến nay từ “ong bướm” đã trở thành một từ có nghĩa xấu “lăng nhăng” không chung thủy trong tình yêu. Trong ca dao, trâu được nói đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt nông nghiệp. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, và trong tình yêu nam nữ cũng đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình có sẵn quý hơn vì nó là có thực: Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm. Hay “Trâu đi tìm cọc, chứ cọc không đi tìm trâu”. Trâu và cọc tượng trưng: Trâu tượng trưng cho vật thể động, cọc tượng trưng cho vật thể tĩnh. Chúng ta đã quen hiểu theo hàm ý: Trâu tượng trưng cho phái nam, cọc tượng trưng cho phái nữ. Khi muốn kết hợp đôi lứa thì người con trai sẽ chọn lựa và tìm đến với người con gái họ yêu thương. Với quan điểm này, người con gái giữ vai trò thụ động: nếu người đến với mình là người tốt và phù họp về tình cảm thì thật là may mắn, còn nếu không phải thì chỉ có thể miễn cưỡng chấp nhận hoặc từ chối và đợi chờ duyên phận khác. Người Việt thông qua kinh nghiệm sống và dựa vào các khái niệm đã biết và hiểu, lại cộng thêm sử dụng phương pháp biểu đạt của ngôn ngữ dân tộc đã sáng tạo ra ẩn dụ tình yêu đặc sắc của dân tộc.

     Động vật đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân Trung Quốc và Việt Nam, những câu thành ngữ chứa hình hài loài vật có ý nghĩa sâu sắc và mang tính biểu tượng mạnh mẽ. Bởi vì hai quốc gia có nền tảng xã hội, cách suy nghĩ và phong tục tập quán khác nhau, họ có những cảm nhận và liên tưởng khác nhau với động vật. Sự khác biệt về ngữ nghĩa của các thành ngữ phản ánh nội hàm văn hóa tương ứng của chúng, mà theo nghĩa đen là không thể hiểu được. Nền tảng văn hóa được phản ánh bởi động vật Trung Quốc và Việt Nam được so sánh với nội hàm văn hóa của hình ảnh động vật mà họ sử dụng. Để hiểu thêm về những nét chung và nét riêng của văn hóa Trung Quốc và Việt Nam. Các từ chỉ động vật trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng phản ánh sự khác biệt về văn hóa giữa hai nước. Từ những miêu tả và phân tích trên các từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt đã thể hiện phương thức tư duy của dân tộc Hán Việt và làm nổi bật văn hóa truyền thống hai dân tộc. Điều đặc biệt là thông qua miêu tả, phân tích ẩn dụ ý niệm về từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt thì cũng minh chứng cho lý luận của ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ của Lakoffvà Johnson (1980: 4) cho rằng ẩn dụ kết cấu dựa vào các khái niệm cụ thể (miền nguồn) đi giải thích các khái niệm tương đối trừu tượng (miền đích). Đó cũng chính là những khái niệm trừu tượng vô hình, khó giải thích, phức tạp bắt nguồn từ những khái niệm cụ thể có hình, đã biết, đơn giản, nó đến từ trong cuộc sống của người dân Trung – Việt là những hành vi thói quen hàng ngày hay những kinh nghiệm đã trải. Vì vậy việc chỉ ra những tương đồng và khác biệt của lớp từ này nói riêng và cũng như trường từ vựng- ngữ nghĩa chỉ động vật trong tiếng Hán và tiếng Việt nói chung có vai trò quan trọng trong giảng dạy và nghiên cứu ngôn ngữ – văn hóa Trung Quốc ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

    [ 1 ] Nguyễn Thúy Khanh, Đặc điểm trường từ vựng – ngữ nghĩa tên gọi động vật, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Hà Nội, 1994.

    [2] Nguyễn Thúy Khanh, Một vài nhận xét về thành ngữ so sánh cỏ gọi tên động vật tiếng Việt, Ngôn ngữ, so 3, 1995.

     [3] Black M., More about metaphor/ZMetaphor and thought (2nd edn.), ed., A. Ortony, Cambridge University Press, 1998.

     [4] Lakoff G. & Johnson M., Metaphor ưe live by, First Edition, University of Chicago Press, Chicago, 1980.

    [5] Lưu Tùng Quân, Lý Hành Kiện, Hướng Quang Trung (Chủ biên), Đại từ điển thành ngữ Trung Hoa, Nxb. Văn sử Cát Lâm, 1996.

     [6] …………………, 2001.

Ghi chú: Ngôn ngữ hiển thị tiếng Trung trong bài viết: Kính mời Quý độc giả xem ở tệp PDF đính kèm bên dưới.

Nguồn: Từ điển học & Bách khoa thư, số 1 (69), 1-2021

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Ẩn dụ ý niệm về từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt
(Tác giả: TS. Nguyễn Thị Lê ; TS. Nguyễn Thu Trà)