Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong xây dựng nông thôn mới

Tác giả: Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học BÙI QUANG DŨNG
(1Nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học,
Thành viên Ban Chủ nhiệm Chương trình KHCN phục vụ xây dựng NTM
)

1. Bối cảnh thực tiễn và chính sách

     Nông thôn Việt Nam là cái nôi của nền văn hóa dân tộc, nơi bảo lưu và duy trì các giá trị văn hóa truyền thống. Bảo tồn và Phát huy văn hóa trong phát triển xã hội nông thôn là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là điểm nóng trong sự phát triển ở Việt Nam từ nhiều năm nay. Giải quyết được sự phát triển nông thôn là giải quyết được điểm nút trong bài toán phát triển xã hội của đất nước. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống là có được một nguồn lực vững mạnh để phát triển xã hội Việt Nam nói chung và xã hội nông thôn nói riêng. Tư tưởng chỉ đạo nói trên càng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh Việt Nam, một xã hội còn tới gần 70% đang sống ở nông thôn.

     Xã hội nông thôn nước ta đang đi vào quá trình CNH, HĐH và trong quá trình này, vai trò của văn hóa, đặc biệt là các giá trị văn hóa truyền thống, hết sức quan trọng. Văn hóa không chỉ là những giá trị cốt lõi của đời sống tinh thần, mà còn tác động tích cực tới các hoạt động của con người, tác động tới bản thân quá trình CNH, HĐH đất nước, trong đó có khu vực nông thôn.

     Xây dựng “nông thôn mới” ở nước ta hiện nay là một quá trình bao gồm rất nhiều nhiệm vụ: xây dựng cơ sở hạ tầng cảnh quan nông thôn, nâng cao thu nhập, giải quyết bài toán phúc lợi cho nông dân, nâng cao hiệu lực của hệ thống chính trị cơ sở v.v. Từ bối cảnh thực tiễn đó và nhìn từ góc độ vai trò năng động của văn hóa đối với chính trị, kinh tế thì thảo luận sẽ có những đóng góp tích cực vào việc đánh giá thực trạng văn hóa nông thôn hiện nay, phát hiện các vấn đề bức xúc liên quan tới văn hóa nói chung và di sản văn hóa truyền thống trong quá trình HĐH, CNH đất nước.

     Việc xây dựng xã hội “nông thôn mới” hiện nay, đặt trong khung cảnh CNH, HĐH đất nước, không thể tách rời việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa các nhân tố kinh tế, chính trị và văn hóa.

2. Một số vấn đề về bảo tồn và phát huy văn hóa trong xây dựng nông thôn mới

     2.1. Văn hóa truyền thống và các giá trị văn hóa mới

     Giới nghiên cứu khoa học xã hội đồng tình cho rằng: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc nông dân” (Hà Văn Tấn, 1994: 112). Luận điểm này đặt cơ sở cho việc xác định bản chất văn hóa truyền thống Việt Nam là “một nền văn hóa của xã hội nông nghiệp”, trọng nông và rất thực tiễn. Văn hóa truyền thống ở Việt Nam hình thành trên cái nền “nông thôn, nông nghiệp và nông dân”. Có vô số vấn đề (cả điểm yếu và thế mạnh) liên quan tới di sản văn hóa truyền thống này. Văn học nghệ thuật mang một tinh thần nhân bản; truyền thống văn nghệ dân gian và văn học bác học rất coi trọng đạo đức, coi trọng tính xã hội, lý và tình. Đó là nền văn hóa gắn chặt với cộng đồng gia đình, dòng họ, làng xã và từ đó mở rộng ra cả cộng đồng dân tộc, quốc gia.

     Nét nổi bật của bản sắc văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước. Ý chí dựng nước và giữ nước nảy sinh và phát triển trong cái khung xã hội Việt Nam cổ truyền (làng – nước), trên nền tảng kinh tế xã hội nông thôn. Lòng yêu nước được thể hiện trong cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Làng Việt ở châu thổ Bắc bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng, thể hiện ở chế độ ruộng công, các loại hình và tổ chức xã hội, tín ngưỡng, tục lệ của làng. Để chống lại sự xâm lăng, chống đồng hóa, người Việt Nam phải cố kết lại và trong lịch sử thì phương thức chủ yếu là duy trì các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thủy. Chỉ có sự cố kết cộng đồng mới tạo ra sức mạnh chống xâm lược. Từ đó, tính cộng đồng cao là một nét tâm lý, tính cách (văn hóa) Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới đặc trưng của làng Việt là ý thức cộng đồng, ý thức tự quản thể hiện trong vai trò của các bản hương ước, bộ luật thành văn của làng (Nguyễn Duy Quý và đồng nghiệp, dẫn lại Trần Quốc Vượng, 2012). Con người của xã hội nông nghiệp tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình làng xóm: sống cố định với nhau nên phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận, lấy tình nghĩa làm đầu. Các học giả nhấn mạnh tới đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm của con người Việt Nam (Trần Quốc Vượng, 2012). Lối sống linh hoạt, luôn ứng biến cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc trọng tình cảm cũng là cơ sở của tâm lý hiếu hòa, tôn trọng và cư xử bình đẳng. Nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tới vai trò của người phụ nữ và tính chất “dân chủ” của gia đình Việt. Đây có thể nói là một đặc điểm văn hóa quan trọng của xã hội Việt Nam truyền thống (Insun Yu, 1994) v.v…Tinh thần cần cù và sáng tạo là một nét căn bản của “đạo đức lao động” của truyền thống văn hóa Việt Nam (Nguyễn Hồng Phong, 2005).

     Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, nhỏ lẻ dựa trên lao động phổ thông và lao động thủ công là chính sang phát triển nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, dịch vụ tiên tiến, dựa trên nguồn nhân lực được đào tạo và trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trước hết ở lĩnh vực kinh tế đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam không chỉ chú ý đến tăng trưởng mà còn phải đảm bảo sự phát triển bền vững và bao trùm, tương thích với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thế giới thông qua hàng loạt các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, về kỹ thuật công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý sản xuất, phân phối, tiêu dùng v.v…Bên cạnh các giá trị văn hóa truyền thống nói trên, nền văn hóa Việt Nam hiện nay cần phải bổ sung các giá trị mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đó là các giá trị hướng tới đề cao cá nhân, đề cao giáo dục, khoa học và công nghệ, đề cao sự sáng tạo và nhân văn hướng tới tự do, dân chủ và hạnh phúc của con người. Những giá trị về sự thành đạt, an sinh xã hội, tự do, dân chủ, hạnh phúc không phải chờ chuyển sang mô hình hậu hiện đại mới xuất hiện mà ngày nay, nó trở thành nhu cầu tất yếu của người dân Việt Nam.

     Như vậy, văn hóa truyền thống có thể hiểu là nền văn hóa gắn chặt với cộng đồng gia đình, dòng họ, làng xã và từ đó mở rộng ra cả cộng đồng, dân tộc, quốc gia. Chính vì thế, nghiên cứu sẽ giúp nhận diện về bản thân văn hóa truyền thống, chủ thể và nguyên tắc khoa học trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống ở nước ta hiện nay, rút ra những bài học kinh nghiệm, để làm cơ sở cho các định hướng và giải pháp chính sách sắp tới, nhằm mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

     2.2. Các “chủ thể” và “Kênh” bảo tồn và phát huy văn hóa

     Là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hóa (Trần Quốc Vượng, 2012; Nguyễn Xuân Kính, 2003). Cái khung tự nhiên và xã hội đảm bảo cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống chính là các “xã hội địa phương”. Ở Tây Nguyên đó là “buôn làng”, ở các vùng nông thôn khác (đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long) đó là làng xã, thôn ấp; tại các xã hội vùng núi phía bắc, đó là thôn bản v.v.. (Ngô Đức Thịnh, 2006; Bùi Quang Dũng, 2007; Nguyễn Từ Chi, 1996). Vấn đề đặt ra từ góc độ vùng miền cũng thế: chủ thể văn hóa nơi các không gian văn hóa, các khu vực dân tộc thiểu số chính là những tộc người đang sinh sống ở đó. Chẳng hạn, giới nghiên cứu văn hóa nhận xét rằng chủ thể bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên phải là các dân tộc đang sinh sống tại các buôn làng Tây Nguyên, đó là sự nghiệp của người Tây Nguyên.

     Luật di sản văn hóa xác định rõ chủ thể của công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây gọi là tổ chức) và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (Luật di sản văn hóa, Điều 10). Đặt trong bối cảnh của xã hội nông thôn, và theo tinh thần này, giới nghiên cứu xác định rằng cơ chế kế thừa, bảo tồn văn hóa truyền thống được thực hiện thông qua vai trò chủ thể của các quan hệ gia đình, huyết thống, địa vực, nghề nghiệp v.v2. Trong các “chủ thể” nói trên thì các cộng đồng làng xã, gia đình và dòng họ là những đơn vị có đủ tất cả những yêu cầu về kế thừa, bảo tồn và phát huy vai trò của văn hóa truyền thống (Phan Đại Doãn, 2010). Giới nghiên cứu thống nhất rằng “chủ thể” của việc bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa truyền thống phải là chính người dân, là các cộng đồng dân cư (Vũ Khiêu, 2000; Nguyễn Xuân Kính, 2003; Nguyễn Hồng Phong, 2005). CuốnVăn hoá cổ truyền Tây nguyêncủa Lưu Hùng (1996) nhấn mạnh văn hoá Tây Nguyên tồn tại trong không gian sinh tồn buôn làng. Có thể nói đó chính là bản chất dân chủ của sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa nói chung và văn hóa truyền thống nói riêng (Ngô Đức Thịnh, 2006; Bùi Quang Dũng, 2007).

     Công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống có thể thông qua nhiều phương thức (kênh) khác nhau: thúc đẩy các chương trình điều tra cơ bản, kiểm kê các di sản văn hóa truyền thống để có kế hoạch bảo tồn. Tuy nhiên, biện pháp mấu chốt vẫn là nâng cao nhận thức toàn dân về bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, trả lại những giá trị văn hóa cổ truyền cho nhân dân để nhân dân tự bảo tồn và phát huy trong điều kiện kinh tế xã hội hiện đại.

     Trong bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, thường có hai hình thức khác nhau, đó là bảo tồn tĩnh bảo tồn động (Ngô Đức Thịnh, 2006; Nguyễn Hồng Phong, 2005). Bảo tồn tĩnh là bảo tồn các hiện tượng văn hóa dưới hình thức sách vở, bảo tàng, các trưng bày, kho lưu trữ, triển lãm, v.v. Bảo tồn văn hóa dưới hình thức tĩnh phục vụ cho công tác nghiên cứu, cho công tác tuyên truyền; khi cần thiết có thể phục chế, tái tạo nó. Bảo tồn động là hình thức bảo tồn văn hóa trong chính môi trường xã hội mà nó nảy sinh và tồn tại. Thí dụ, sử thi là một hiện tượng văn hóa truyền miệng độc đáo của các tộc người Tây Nguyên, hiện chúng ta đang thực hiện việc điều tra, sưu tầm, biên dịch và xuất bản.

     2.3. Nguyên tắc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống

     Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu văn hóa truyền thống là ở chỗ xác định các nguyên tắc bảo tồn và phát huy nền văn hóa đó cho sự nghiệp phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới hiện nay. Về mặt lý luận, vấn đề đặt ra là những giá trị và thực tế nào của văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy?

     Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, với mục tiêu giải phóng đất nước, kháng chiến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ba tính chất cơ bản của văn hóa dân tộc là: dân tộc, khoa học và đại chúng3. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II, tháng 7 năm 1948, đồng chí Trường Chinh đã phân tích sâu sắc toàn bộ các vấn đề văn hóa trên lập trường Macxit nhằm làm cho các nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng trở thành kim chỉ nam cho không chỉ công tác văn hóa nói chung mà cả trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống cho phát triển xã hội.

     Một trong những nguyên tắc then chốt của công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống là mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Nhấn mạnh một chiều tới các di sản truyền thống có thể dẫn tới cái gọi là “hệ tư tưởng truyền thống”, là cái trói buộc con người vào quá khứ và không chấp nhận sự tiến bộ. Do bản chất của nó, “chủ nghĩa truyền thống” thù địch với sự đổi mới, đi ngược lại sự phát triển của hiện đại hóa (Myron Weiner, 1966. Dẫn lại Vũ Tuấn Huy, 1994). Trong những xã hội như Ấn Độ, Nhật Bản, người ta thấy những yếu tố truyền thống và hiện đại là không thể tách rời. Tại đó có một sự tương tác lẫn nhau giữa văn hóa hiện đại và văn hóa truyền thống tạo ra những cơ cấu xã hội chính trị và đó là một thứ động lực dẫn tới những sự phát triển kinh tế và xã hội mới (J.C. Herstern, 1973. Dẫn lại Vũ Tuấn Huy, 1994).

     Trong một xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử đều có những điều được xã hội hoặc một số nhóm xem là “giá trị”. Hệ các giá trị này tạo ra một môi trường định hướng tư tưởng và hành động của con người, cho các cá nhân và nhóm, qua đó tạo ra hành động chung và liên kết xã hội. Chẳng hạn, khi bàn về sự thành công của các con rồng và con hổ châu Á, người ta thường nhắc đến các “giá trị châu Á”, đến vai trò của nền văn hóa Khổng giáo. Mặt khác, cần thấy một khía cạnh khác là những nước phát triển thành công ấy, trong khi đề cao các giá trị văn hóa truyền thống, họ đều cam kết rất mạnh mẽ hệ giá trị (văn hóa) của xã hội công nghiệp. Đây là hai mặt không thể tách rời của sự tiếp thu, bảo tồn và vận dụng văn hóa truyền thống cho phát triển (Bùi Thế Cường, 2010).

     Các nhà nghiên cứu lưu ý tới nguy cơ đứt gãy giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình bảo tồn và duy trì bản sắc văn hóa (Ngô Đức Thịnh, 2006). Đó là trường hợp sự đổi mới văn hóa truyền thống diễn ra một cách không bình thường, không có kế thừa và phát triển, không có tiếp thu và loại bỏ, mà chỉ là sự đan xen hỗn loạn giữa cái cũ và cái mới. Quá trình này trên thực tế không tạo nên sự liên kết hữu cơ giữa truyền thống và hiện đại; cái cũ mất đi, cái mới chưa hình thành, tạo nên sự hụt hẫng văn hóa và hệ quả thường là đời sống văn hóa của nhân dân bị suy kiệt và trở nên nghèo nàn. Chính vì thế mà nhiều truyền thống, giá trị và di sản văn hóa quý báu đã và đang bị mất đi nhanh chóng. Về mặt quan hệ xã hội, nhiều chuẩn mực đạo đức và lối sống gắn liền với xã hội cổ truyền trở thành lỗi thời, tuy nhiên các chuẩn mực mới, tiến bộ lại chưa hình thành kịp thời, khiến trong quan hệ xã hội những giá trị đạo đức dễ bị lệch chuẩn và đảo lộn (Ngô Đức Thịnh, 2006).

     Vấn đề trở nên hết sức nghiêm trọng khi nhìn từ góc độ chọn lọc, xây dựng những giá trị văn hóa nào cho xây dựng một xã hội nông thôn mới hiện nay (Nguyễn Hồng Phong, 2005; Vũ Khiêu, 2000).

     2.4. Văn hóa với tư cách động lực phát triển

     Văn hóa được đề cập ở đây theo nghĩa rộng, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu tạo nên đời sống văn hóa như: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; Môi trường văn hóa; Giáo dục và Đào tạo; Khoa học và Công nghệ; Văn học nghệ thuật; Thông tin đại chúng; Giao lưu văn hóa với nước ngoài; Thể chế và thiết chế văn hóa…Với tính cách bao trùm như vậy, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,.. biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

     Xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay là một quá trình bao gồm rất nhiều nhiệm vụ: xây dựng cơ sở hạ tầng cảnh quan nông thôn, nâng cao thu nhập, giải quyết bài toán phúc lợi cho nông dân, nâng cao hiệu lực của hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng hạ tầng văn hóa xã hội v.v. Từ bối cảnh thực tiễn đó và nhìn từ góc độ vai trò năng động của văn hóa đối với chính trị, kinh tế, thì vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống trong xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Các khuôn mẫu văn hóa truyền thống như tình yêu quê hương đất nước, truyền thống gia đình, đức tính cần cù lao động, tình cảm cộng đồng và tham gia xã hội tích cực là những điểm mạnh cần phát huy trong công tác xây dựng nông thôn mới hiện nay. Người nông dân mới với những giá trị tích cực tiếp thu từ văn hóa truyền thống nói trên, sẽ là chủ thể thực sự của sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tinh thần cần cù và sáng tạo là một nét căn bản của “đạo đức lao động” của truyền thống văn hóa Việt Nam (Nguyễn Hồng Phong, 2005). So sánh trên bối cảnh khu vực, tinh thần yêu lao động cũng là đặc trưng văn hóa của một số dân tộc khác. Park Jin-Hwan (2006) trong cuốn sách “The Saemaul Movement” (nội dung trình bày sự thành công của phong trào Làng mới ở Hàn Quốc), đã nhấn mạnh tới điểm này. Điều kiện sinh tồn khắc nghiệt đã rèn giũa cho người nông dân bán đảo Triều Tiên một hệ giá trị về “đạo đức lao động” (Work ethic) tiếp nối qua nhiều thế hệ. Park cho rằng tình yêu lao động, sự đoàn kết và tinh thần dân chủ nông thôn là nhân tố chính cấu thành nên tinh thần Saemau Undong, cái đã biến nông thôn Hàn Quốc nghèo nàn lạc hậu, kiệt quệ sau nội chiến trở thành một mô hình thành công đáng học tập trên toàn thế giới chỉ trong khoảng 20 năm (từ 1970 đến 1990)…

     Nghiên cứu những giá trị văn hóa sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy phù hợp, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại; định hướng được các mục tiêu phát triển. Ở đây, những giá trị văn hóa phải thật sự trở thành nền tảng không thể thiếu trong quá trình xây dựng nông thôn mới thì việc giữ gìn nó mới thật sự đi vào chiều sâu thiết thực. Đó là cách thức giữ gìn thông qua các chương trình phát triển kinh tế, như giữ gìn nghề truyền thống, sản phẩm nông nghiệp địa phương hay các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở nông thôn. Xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn mới là phải giữ cho được cái hồn và cốt cách của nông thôn Việt Nam mà ở đây chính là giữ được các giá trị văn hóa truyền thống. Việc xây dựng làng, xã văn hóa hiện nay phải dựa vào văn hóa truyền thống của làng, xã xưa mới có sức lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, mới thật sự đi vào lòng người. Các di sản và giá trị văn hóa truyền thống không chỉ được bảo tồn mà còn phát huy vai trò của nó trong thực tiễn phát triển hiện nay. Đây chính là nội dung của vấn đề phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển.

     Nội dung này đã được nhấn mạnh trong Luật di sản văn hóa (2011); Văn kiện chính sách này nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc ban hành các “chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (Điều 9, điểm 1). Cùng với quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của công cuộc xây dựng nông thôn mới, điều kiện kinh tế – xã hội của các địa phương và người dân được nâng lên. Với điều kiện kinh tế được cải thiện, lòng tự hào dân tộc, sự trân trọng văn hóa dân tộc mình người dân đã có nhiều cố gắng trong giữ gìn những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc. Có thể nói, yếu tố văn hóa trong kinh tế và kinh tế trong văn hóa đã được biểu hiện trong đời sống mỗi gia đình và sự phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương. Kiến trúc và không gian bao quanh nhà ở, bản làng mang đậm bản sắc dân tộc được giữ gìn, gia cố, bảo vệ. Văn hóa ẩm thực phong phú tiếp tục được giữ gìn, phát huy và lan tỏa trong đời sống của các địa phương. Những làn điệu dân ca, kho tàng văn hóa, văn nghệ bản địa được lưu truyền, nuôi dưỡng trong quá trình sinh sống, lao động sản xuất, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Nét đẹp mang đậm bản sắc dân tộc trong văn hóa ứng xử, lễ hội, cưới hỏi, ma chay, phong tục tập quán được giữ gìn dưới nhiều hình thức có ý nghĩa giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ. Đó chính là những giá trị văn hóa quan trọng, là bản sắc văn hóa cần được nghiên cứu, gìn giữ và phát huy nhằm hướng tới xây dựng nông thôn mới bền vững.

     2.5. Bảo tồn và phát huy văn hóa khu vực dân tộc thiểu số

     Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và các giá trị và sắc thái văn hóa đặc trưng cho các dân tộc thiểu số bổ xung, làm phong phú di sản văn hóa truyền thống. Giới nghiên cứu nhấn mạnh việc quán triệt quan điểm trong văn kiện Đảng là “nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.

     Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Bảo tồn và phát huy văn hóa khu vực đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc; tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trong tình hình mới, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng 54 DTTS anh em.

     Tôn trọng sự đa dạng trong văn hóa truyền thống là nguyên tắc hàng đầu để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Các nhà nghiên cứu thống nhất rằng cần phải làm thay đổi nhận thức của nhân dân các dân tộc thiểu số (Tây bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ v.v.) về nền văn hóa truyền thống của mình, khắc phục tư tưởng tự ti, hướng ngoại, không đánh giá đúng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chỉ trên nhận thức đúng về truyền thống văn hóa dân tộc, thì mới có thể bảo vệ và phát huy nó trong xã hội hiện tại, cũng như có cơ sở để tiếp thu các giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc khác.

     Trong quá trình phát triển nói chung, xây dựng nông thôn mới nói riêng, việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được thực hiện qua rất nhiều cách thức: giữ gìn thông qua hệ thống bảo tồn, bảo tàng; phục dựng, ghi lại, lưu giữ, phổ biến bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại; phục dựng, tái tạo thông qua xây dựng những mô hình làng văn hóa, làng văn hóa du lịch cộng đồng do chính người dân giữ gìn trong đời sống của mỗi gia đình, dòng họ, làng bản với không gian văn hóa chân thực. Với sự giữ gìn đó, những giá trị đậm đà bản sắc văn hóa của dân tộc thiểu số đang tiếp tục được duy trì trong các hoạt động giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, du lịch, thương mại tạo nên sắc thái vừa truyền thống vừa hiện đại ở vùng nông thôn mới.

3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế liệu có là những thách thức đối với bảo tồn và phát huy văn hóa trong xây dựng nông thôn mới?

     Một vấn đề lớn và quan trọng đặt ra là: Nền văn hoá tiên tiến, hiện đại do công nghiệp hoá – hiện đại hoá hình thành nên có mâu thuẫn, có thủ tiêu nền văn hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của văn hoá truyền thống?

     Bên cạnh các giá trị văn hóa truyền thống này, nền văn hóa Việt Nam hiện nay cần phải bổ sung các giá trị mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là các giá trị hướng tới đề cao cá nhân, đề cao giáo dục, khoa học và công nghệ, đề cao sự sáng tạo và nhân văn hướng tới tự do, dân chủ và hạnh phúc của con người. Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, nhỏ lẻ dựa trên lao động phổ thông và lao động thủ công là chính sang phát triển nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, dịch vụ tiên tiến, dựa trên nguồn nhân lực được đào tạo và trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trước hết ở lĩnh vực kinh tế đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam không chỉ chú ý đến tăng trưởng mà còn phải đảm bảo sự phát triển bền vững và bao trùm, tương thích với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thế giới thông qua hàng loạt các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, về kỹ thuật công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý sản xuất, phân phối, tiêu dùng v.v… Những giá trị về sự thành đạt, an sinh xã hội, tự do, dân chủ, hạnh phúc không phải chờ chuyển sang mô hình hậu hiện đại mới xuất hiện mà ngày nay, nó trở thành nhu cầu tất yếu của người dân Việt Nam.

     Nét hằng xuyên của văn hóa Việt Nam là “không chối từ” việc tiếp thu, tiêu hóa và làm chủ những ảnh hưởng văn hóa nước ngoài. Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông Nam Á, Trung Á, Ấn Độ v.v., có tác dụng trung hòa những ảnh hướng to lớn của văn hóa Trung Quốc, khiến cho văn hóa Việt vẫn phân biệt được với văn hóa Hán. Mặt khác, biến những khuôn mẫu vay mượn thành tài sản của mình và phát huy thành nền văn hóa dân tộc. Đấu tranh văn hóa trước hết là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hóa của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt (Hà Văn Tấn, 1994). Giới nghiên cứu lịch sử và văn hóa học nhận định rằng từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy vốn liếng văn hóa bản địa, nội sinh, tích lũy được qua hàng nghìn năm trước. Trong hàng nghìn năm phụ thuộc, nhân dân phải sống trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Mặt khác, người Việt vẫn sống trong một môi trường sinh thái quen thuộc, không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hóa (Trần Quốc Vượng, 2012).

     Công nghiệp hoá – hiện đại hoá nâng cao chất lượng sống, từ đó hình thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến “sự va chạm” giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường như “mặc cảm” với lối sống đô thị và toan tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ “dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong công nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản với nền pháp lý chặt chẽ. Công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá hiện nay ở nước ta thực sự đang là một cuộc tiếp biến lớn lao, rất căn bản của văn hoá Việt Nam với thế giới văn hoá hiện đại. Với truyền thống luôn giữ vững bản sắc của mình, văn hoá Việt Nam không bao giờ bị văn hoá hiện đại làm lu mờ, thôn tính, mà sẽ tiếp thu những yếu tố văn hoá tiên tiến, hiện đại chứa đựng trong khoa học – công nghệ hiện đại, nó cộng sinh, làm phong phú và hiện đại thêm nền văn hoá của chính mình. Theo nghĩa đó, công nghiệp hoá – hiện đại hoá không những không là tác dụng xấu, mà là tác dụng tích cực, hay có thể nói, chúng đem lại những yếu tố mới cho việc làm sâu sắc thêm phong phú thêm bản sắc văn hoá Việt Nam.

     Quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá có kết quả hay không còn phụ thuộc vào quá trình giao lưu hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập công nghệ mà là hoạt động toàn diện khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất – quản lý kinh tế – xã hội. Sự hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hoá, trong đó, bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố không phù hợp với văn hoá truyền thống.

     Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng trở nên sâu rộng, bản lĩnh văn hóa Việt Nam đang phái đối mặt trực tiếp với những thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trong việc xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có ý nghĩa to lớn. Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là nhằm mục đích xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi vì việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống chính là để làm cho văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, còn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại chính là để xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại và cũng góp phần trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó cũng là sự kết hợp chính sách đối nội với chính sách đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực trong lĩnh vực văn hóa.

4. Một số vấn đề thảo luận tại hội thảo

     Hội nhập quốc tế và những thách thức liên quan tới công tác bảo tồn và phát huy văn hóa Công nghiệp hoá – hiện đại hoá nâng cao chất lượng sống, từ đó hình thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến “sự va chạm” giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường như “mặc cảm” với lối sống đô thị và toan tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ “dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong công nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản với nền pháp lý chặt chẽ?

     Văn hóa như là động lực phát triển xây dựng nông thôn mới

     Xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay là một quá trình bao gồm rất nhiều nhiệm vụ: xây dựng cơ sở hạ tầng cảnh quan nông thôn, nâng cao thu nhập, giải quyết bài toán phúc lợi cho nông dân, nâng cao hiệu lực của hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng hạ tầng văn hóa xã hội v.v. Từ bối cảnh thực tiễn đó và nhìn từ góc độ vai trò năng động của văn hóa đối với chính trị, kinh tế, thì vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống trong xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Các khuôn mẫu văn hóa truyền thống như tình yêu quê hương đất nước, truyền thống gia đình, đức tính cần cù lao động, tình cảm cộng đồng và tham gia xã hội tích cực là những điểm mạnh cần phát huy trong công tác xây dựng nông thôn mới hiện nay.

     Chủ thể và kênh bảo tồn phát huy giá trị văn hóa

     Là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hóa (Trần Quốc Vượng, 2012; Nguyễn Xuân Kính, 2003). Cái khung tự nhiên và xã hội đảm bảo cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống chính là các “xã hội địa phương”. Ở Tây Nguyên đó là “buôn làng”, ở các vùng nông thôn khác (đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long) đó là làng xã, thôn ấp; tại các xã hội vùng núi phía bắc, đó là thôn bản v.v.. (Ngô Đức Thịnh, 2006; Bùi Quang Dũng, 2007; Nguyễn Từ Chi, 1996). Vấn đề đặt ra từ góc độ vùng miền cũng thế: chủ thể văn hóa nơi các không gian văn hóa, các khu vực dân tộc thiểu số chính là những tộc người đang sinh sống ở đó. Chẳng hạn, giới nghiên cứu văn hóa nhận xét rằng chủ thể bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên phải là các dân tộc đang sinh sống tại các buôn làng Tây Nguyên, đó là sự nghiệp của người Tây Nguyên.

     Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nào cho xây dựng nông thôn mới

     Giới nghiên cứu khoa học xã hội đồng tình cho rằng: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc nông dân” (Hà Văn Tấn, 1994: 112). Luận điểm này đặt cơ sở cho việc xác định bản chất văn hóa truyền thống Việt Nam là “một nền văn hóa của xã hội nông nghiệp”, trọng nông và rất thực tiễn. Văn hóa truyền thống ở Việt Nam hình thành trên cái nền “nông thôn, nông nghiệp và nông dân”. Có vô số vấn đề (cả điểm yếu và thế mạnh) liên quan tới di sản văn hóa truyền thống này. Văn học nghệ thuật mang một tinh thần nhân bản; truyền thống văn nghệ dân gian và văn học bác học rất coi trọng đạo đức, coi trọng tính xã hội, lý và tình. Đó là nền văn hóa gắn chặt với cộng đồng gia đình, dòng họ, làng xã và từ đó mở rộng ra cả cộng đồng dân tộc, quốc gia.

__________
2 Giới nghiên cứu sử học nhấn mạnh tới các cơ chế (chủ thể) kế thừa văn hóa như sau: theo huyết thống; kế thừa theo nghề nghiệp; kế thừa theo tổ chức địa vực v.v.

3 Nội dung này sẽ thể hiện lại trong bản Đề cương văn hóa Việt Nam (1943). và trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951. Khi miền bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa Xã hội, chủ tịch Hồ chí Minh nhấn mạnh “ để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức” ( Hồ chí Minh toàn tập. tập 10, tr 60).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Quang Dũng. 2007. Gia đình trong các xã hội nông nghiệp. Tạp chí Xã hội học. Số 3: 103 – 112.

2. Bùi Thế Cường. 2010. Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay. NXB Khoa học xã hội.

3. Hà Văn Tấn. 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.

4. Ngô Đức Thịnh. 2006. Văn hóa, Văn hóa tộc người và Văn hóa Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.

5. Nguyễn Hồng Phong. 2005. Văn hóa và phát triển. NXB Khoa học xã hội.

6. Nguyễn Từ Chi. 1996. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin.

7. Nguyễn Xuân Kính. 2003. Con người, môi trường và văn hóa. NXB Khoa học xã hội.

8. Park, Jin-Hwan. 2006. The Saemaul Movement, Korea’ Approach to rural modernization in 1970s. Korea rural Economic Institute.

9. Phan Đại Doãn. 2010. Làng xã Việt Nam: một số vấn đề kinh tế, văn hóa và xã hội.

10. Vũ Khiêu. 2000. Văn hóa Việt Nam: Xã hội và con người. NXB Khoa học xã hội.

11. Vũ Tuấn Huy. 1994. Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam. Nhà xuất bản KHXH.

12. Yu, Insun. 1994. Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII. Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo (Lý luận và thực tiễn trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam),
Chuyên đề: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong xây dựng nông thôn mới

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong xây dựng nông thôn mới
(Tác giả: PGS.TSKH Bùi Quang Dũng)