Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa làng Thổ Hà dưới hình thức bảo tàng hóa
Tác giả bài viết: Tiến sĩ TRẦN ĐỨC NGUYÊN
(Khoa Di sản văn hóa, Trường ĐHVHHN),
Thạc sĩ LÊ MINH CHI (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội)
TÓM TẮT
Thổ Hà là một ngôi làng cổ, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu. Trước đây, làng Thổ Hà có nghề gốm nổi tiếng, tạo nên sự thịnh vượng cho cư dân địa phương cả về vật chất lẫn tinh thần. Hiện nay, nghề gốm xưa không còn nhưng Thổ Hà vẫn còn hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đa dạng, phong phú mang nhiều nét tiêu biểu của văn hóa làng nghề và của vùng văn hóa Kinh Bắc. Những giá trị văn hóa đó nên được bảo tồn và phát huy dưới hình thức bảo tàng hóa – một trong những xu hướng bảo tồn mới của bảo tàng học. Áp dụng hình thức bảo tàng hóa sẽ góp phần gìn giữ được những di sản văn hóa – tài sản quý giá của địa phương trước những ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế – xã hội hiện nay.
Từ khóa: Di sản văn hóa, bảo tàng, bảo tàng hóa, gốm Thổ Hà.
ABSTRACT
Tho Ha is an ancient village where is preserving many typical cultural values. Previously, Tho Ha village had a famous pottery handicraft that made prosperity for its residents both physically and spiritually. At present, the former pottery handicraft is no longer available but Tho Ha still has a rich and multiform system of tangible and intangible cultural heritages, containing many typical features of the craft village culture and Kinh Bac culture. Such cultural values should be preserved and promoted in the form of “museologizing” – one of the new conservation trends of museology. Applying the form
of “museologization” will contribute to preserving the cultural heritages – valuable assets of the locality before the effects of the current socio-economic development.
Keywords: Cultural heritage, museology, museologize, Tho Ha pottery.
x
x x
1. Nhắc tới Thổ Hà, người ta hình dung đến ngay một ngôi làng ở vùng Kinh Bắc nức tiếng với nghề gốm từ lâu đời. Làng Thổ Hà xưa nguyên là một xã (nhất xã nhất thôn) thuộc huyện An Việt, phủ Bắc Hà, nay là một thôn của xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tên làng Thổ Hà có nghĩa là “đất ven sông” – làng nằm ở mảnh đất nơi con sông Cầu lượn thắt, lại đối diện với cửa sông Ngũ Huyện đổ nước vào, tạo ra hình thế với ba mặt giáp sông. Theo phong thủy dân gian thì vị trí ấy cực kỳ “đắc địa”, đã được đúc kết trong kinh nghiệm chọn đất “… khum khum gọng vó chẳng nó thì ai” (12). Địa thế ấy được ngợi ca trong tấm bia Thủy tạo đình miếu bi dựng năm Chính Hòa 13 (1692), hiện đặt trong đình làng: “Nay tả địa hình núi sông của xã Thổ Hà: phía đông đẹp đẽ rồng quay về chốn tổ; phía tây hùng vĩ như dáng hổ ngồi chầu, phía nam có núi Hằng Lĩnh và dòng Nguyệt Đức, đó là sách trời đã định; phía bắc thì có ngọn núi Lát, hun đúc khí thiêng cho làng Thổ Hà”(5, tr.16). Làng ấy, đất ấy thực sự là vùng địa linh, nơi cư dân có thể quần tụ, sinh sôi phát triển.
Với những điều kiện thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng, Thổ Hà từ sớm đã là điểm tụ cư lý tưởng của cư dân Việt. Sự quần cư ngày thêm đông đúc, tạo nên cảnh sum vầy làng trên xóm dưới và càng được tăng lên khi người dân có thêm nghề làm gốm. Nghề gốm ra đời lúc nào, đến nay vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời tường minh, nhưng theo truyền thuyết dân gian ở vùng này thì nghề gốm ở Thổ Hà được hình thành vào khoảng thời Lý, với ông tổ nghề là Đào Trí Tiến. Dấu vết vật chất cổ xưa nhất của nghề vào khoảng thế kỷ XVII được tìm thấy ở cụm di tích đình đền chùa của làng. Người ta vẫn cho rằng, Thổ Hà là một trong ba làng gốm tiêu biểu nhất của vùng châu thổ sông Hồng, sánh cùng với Bát Tràng (Hà Nội) và Phù Lãng (Bắc Ninh).
Nghề quý lại được làm bởi những con người chịu khó, ham làm, bàn tay khéo léo, sản phẩm làm ra là những đồ gia dụng cần thiết cho cuộc sống đã đưa Thổ Hà trở thành một trong những làng gốm, trung tâm sản xuất gốm lớn của vùng Bắc Bộ. Bến sông Thổ Hà xưa, luôn tấp nập thuyền bè với những chuyến hàng đầy ắp tỏa khắp mọi miền của đất nước. Khung cảnh nhộn nhịp, tấp nập của vùng ấy vào khoảng giữa thế kỷ XVIII đã được lột tả trong thơ Lê Quý Đôn: “Đường thông tận bể tôm cua rẻ/ Đất có lò nung chum vại nhiều/ Lên xuống bến đò như mắc cửi/ Mưu tìm lợi nhỏ khổ bao nhiêu…” (4, tr.125).
Sản phẩm gốm Thổ Hà thông dụng trong đời sống hàng ngày của người dân Việt như ang, chum, vại, bình vôi, tiểu sành và cả những đồ thờ cầu kỳ như bát hương, chân đèn, con giống, hay đồ mỹ nghệ trang trí… Ngày trước, hầu hết nhà dân nào ở vùng Bắc Bộ cũng đều có những loại đồ dùng thiết yếu do Thổ Hà sản xuất. Những sản phẩm ấy được coi là một trong những sản vật quý của xứ Kinh Bắc: “Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện/ Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia/ Chĩnh chum thời có Thổ Hà…” (6, tr.55). Gốm Thổ Hà mang nét riêng độc đáo: gốm không tráng men, với bàn tay tài hoa, kỹ thuật nung lại điêu luyện, người thợ đã khéo sử dụng độ nóng tạo nên lớp men màu tự nhiên, sẫm như da lươn, đanh và vang như thép. Sản phẩm gốm được bán đi, thu nhiều về lợi nhuận cho người dân: “lại có chĩnh, ang, chum vại bằng sành… xã Thổ Hà, huyện Việt Yên chế tạo, mối lợi rất to” (7, tr.172). Nghề gốm thời ấy đã góp phần tạo nên một làng quê trù phú, đời sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần cũng vì thế mà đa dạng, thăng hoa đầy bản sắc.
Cho đến nay, làng Thổ Hà vẫn còn lưu giữ được những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu. Trong đó, di sản văn hóa vật thể bao gồm những công trình gắn với tín ngưỡng tâm linh của làng như đình, chùa và từ chỉ.
Đình làng Thổ Hà được xây dựng vào khoảng nửa sau thế kỷ XVII thờ Thái thượng Lão quân (Lão Đam, Lão Tử) – vị khai tổ của Đạo giáo. Trải qua nhiều lần tu bổ nhưng ngôi đình hiện vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc cổ kính cùng hệ thống các di vật, cổ vật đặc sắc. Trên các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc rất tinh xảo mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Tiêu biểu nhất là bộ cửa võng được đánh giá là “bộ cửa võng đẹp hiếm nơi nào có”, “nhờ bức cửa võng sơn son thếp vàng lộng lẫy mà không gian đình sáng lên rực rỡ” (11, tr.323). Trong đình còn bức đại tự “Mỹ tục khả phong” do vua Tự Đức ban tặng, các bia đá như Thủy tạo đình miếu bi, Cung sao sự tích Thánh ghi về quá trình khởi dựng di tích, sự tích vị thần được thờ…
Chùa Thổ Hà có tên chữ là “Đoan Minh Tự” được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI, kiến trúc hiện còn theo kiểu nội công ngoại quốc, với quy mô bề thế. Ngoài ra, chùa Thổ Hà hiện còn hệ thống di vật rất phong phú, mang nhiều giá trị gồm tượng thờ, hoành phi, câu đối, bia đá, sấu đá, rồng đá… có niên đại hai thời Lê – Nguyễn.
Từ chỉ của làng Thổ Hà trước đây được xây dựng ở ven sông, sau được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Từ chỉ thờ Khổng Tử và các vị tiên hiền, trong di tích hiện còn 8 bia đá ghi danh các vị đỗ đạt qua các kỳ thi dưới các triều đại phong kiến, cùng một số người hưng công xây dựng, tu bổ từ chỉ (3).
Nghề gốm thịnh vượng xưa, nay không còn nữa, sự phát triển của công nghệ, của xã hội đã làm những món đồ gia dụng bằng gốm không còn phù hợp với đời sống hiện đại. Nghề xưa đã mất, nhưng dấu ấn vẫn còn in hằn trong từng ngõ, xóm, ở từng công trình kiến trúc… Tất cả vẫn đầy màu sắc, lung linh hấp dẫn. Làng Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ. Từ kiến trúc dân gian, hệ thống xóm, ngõ đến cổng làng, giếng cổ đều được xây dựng bằng chính những sản phẩm làng nghề như gạch nung, tiểu sành… Cổng làng Thổ Hà có kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, được đánh giá là một trong những chiếc cổng làng đẹp nhất ở vùng hạ lưu và trung lưu sông Cầu. Chiếc cổng đó như một biểu tượng của sự thịnh vượng nghề gốm xưa kia.
Cùng với những di sản văn hóa vật thể, Thổ Hà còn lưu giữ được những di sản văn hóa phi vật thể cũng rất tiêu biểu, độc đáo. Đó là lễ hội truyền thống của làng được tổ chức vào dịp đầu xuân thu hút du khách xa gần. Những phong tục tập quán, những món ẩm thực mang đậm nét thôn quê vẫn còn được phổ biến nơi đây. Đặc biệt, Thổ Hà còn là một trong những làng quan họ cổ ở hữu ngạn sông Cầu. Sinh hoạt quan họ vẫn được duy trì theo lề lối cổ với hình thức hát canh, hát trên thuyền trong các dịp lễ hội hay những kỳ cuộc khánh tiết của làng. Đến Thổ Hà, du khách được thưởng thức những làn điệu quan họ mượt mà, đằm thắm, say lòng người… Ngoài ra, dân làng còn gìn giữ và lưu truyền được nghệ thuật tuồng cổ, thường xuyên tổ chức biểu diễn vào các dịp lễ hội của làng với các vở mang tính kinh điển như Sơn Hậu, Đào Phi Phụng, Tam nữ đồ vương, Chinh Đông chinh Tây…
Tất cả hợp thành hệ thống di sản văn hóa, tạo nên cho Thổ Hà một khung cảnh đẹp như tranh, mang đậm nét truyền thống của người Việt. Điểm độc đáo, hấp dẫn của Thổ Hà là vừa là làng nghề, vừa lưu giữ được nét của một làng cổ, điều đó tạo nên sự khác biệt so với nhiều làng nghề khác. Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng cho rằng: “xét trên phong thổ làng Thổ Hà có thể coi là làng đẹp nhất đồng bằng Bắc Bộ có quy hoạch kiến trúc tôn giáo và dân sinh rất rõ ràng” (9, tr.220). Với những nét độc đáo đó, Thổ Hà đã được nhiều đạo diễn chọn làm bối cảnh chính cho một số bộ phim về đề tài làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Một làng quê cổ kính với ký ức về nghề gốm thủ công nổi tiếng, cùng những loại hình di sản văn hóa tiêu biểu còn lại đến nay cần được bảo tồn, gìn giữ, từ đó có thể khai thác nguồn tài nguyên nhân văn này phục vụ phát triển du lịch bền vững, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội của địa phương, nâng cao đời sống của công đồng cư dân. Cùng với hệ thống các di sản văn hóa sẵn có, việc xây dựng, tổ chức trưng bày, giới thiệu lịch sử nghề gốm của làng, những tinh hoa sản phẩm với sự thăng trầm ở mỗi thời kỳ, về mảnh đất, con người,văn hóa nơi đây… là điều cần thiết.
2. Trong những năm qua, Nhà nước ta có sự quan tâm phát triển, mở rộng các loại hình bảo tàng để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 156/2005/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020. Mục tiêu của quy hoạch là “kiện toàn và phát triển hệ thống bảo tàng, phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, học tập, giảng dạy, phổ biến tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học và hưởng thụ văn hóa của công chúng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội”; “phát triển các bảo tàng chuyên ngành về giáo dục, khoa học, kỹ thuật và các bảo tàng ngành nghề truyền thống”. Trong các khu vực quy hoạch phát triển du lịch trọng điểm, ngoài bảo tàng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện có, được phát triển thêm các bảo tàng chuyên đề về ngành nghề thủ công truyền thống, văn hoá nghệ thuật (thuộc các hình thức sở hữu khác nhau) (8).
Quyết định phê duyệt quy hoạch bảo tàng nói trên là văn bản quy phạm pháp luật, đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc xây dựng, ra đời một số loại hình bảo tàng mới nhất là các bảo tàng tư nhân, các bảo tàng của cộng đồng. Theo thời gian, đến nay, đã có một số bảo tàng ngoài công lập thuộc sở hữu của tư nhân ra đời và hoạt động. Bên cạnh đó cũng đã xuất hiện những bảo tàng giới thiệu về nghề, làng nghề ở nhiều địa phương khác nhau trong cả nước như Bảo tàng sinh thái Hạ Long (Quảng Ninh), Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá (Hà Nội), Bảo tàng Văn hóa dân gian, Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch (Hội An, Quảng Nam), Không gian trưng bày Làng Chài xưa (Phan Thiết, Bình Thuận)… Các bảo tàng này ra đời, hoạt động đã giới thiệu đến du khách hình ảnh về làng, về nghề, qua đó góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa đang được lưu giữ tại các địa phương. Đồng thời, các bảo tàng cũng tích cực tham gia vào phát triển du lịch thông qua việc khai thác giá trị các di sản văn hóa của làng, làng nghề.
3. Trong những năm gần đây, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa làng được quan tâm và nhận được sự hưởng ứng tích cực từ phía cộng đồng. Có nhiều hình thức bảo tồn các loại hình di sản văn hóa, trong đó nổi lên xu hướng tiến hành bảo tàng hóa các di sản văn hóa. Hình thức này đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới, đến nay được các nhà bảo tàng học, các chuyên gia bảo tồn di sản văn hóa ở trong nước đề cập tới, bước đầu áp dụng với một số mô hình ở các địa phương. Bảo tàng hóa các di sản văn hóa làng là hoạt động “đưa các di sản văn hóa làng cùng toàn bộ môi trường sinh thái – nhân văn của làng trở thành đối tượng trực tiếp của các hoạt động bảo tàng, tức là trở thành đối tượng của các hoạt động nhằm bảo vệ, nghiên cứu và giáo dục khoa học, cung cấp các dịch vụ văn hóa, đặc biệt là các hình thức nghỉ ngơi, giải trí một cách tích cực” (2, tr.24). Sử dụng hình thức hoạt động bảo tàng hóa di sản văn hóa sẽ mang yếu tố chủ động cho các di sản văn hóa, bởi “các di sản sẽ không bị tách rời đời sống của các cộng đồng – mà nhờ đó, không chỉ linh hồn và sự đa sắc của các di sản văn hóa không bị suy giảm, mà môi trường sinh thái – nhân văn của các làng xã cũng được bảo tồn lâu dài” (2). Bảo tàng hóa các di sản văn hóa làng về thực chất là sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên môn với cộng đồng địa phương (các chủ thể văn hóa) trong việc gìn giữ, phát huy giá trị của các di sản văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu về di sản văn hóa cho rằng đây là phương thức bảo tồn hiện đại, mang tính tối ưu và có hiệu quả tích cực (2; 10).
Xuất phát từ chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề xây dựng, mở rộng hệ thống bảo tàng cũng như lịch sử làng gốm, các di sản văn hóa hiện còn và điều kiện thực tế của làng Thổ Hà hiện nay, chúng tôi thấy các di sản văn hóa ở đây nên được bảo tồn, phát huy giá trị theo hình thức bảo tàng hóa. Điều này, một mặt góp phần thiết thực vào việc gìn giữ các di sản văn hóa truyền thống của địa phương, mặt khác có thể phát huy, khai thác các giá trị di sản nhằm phục vụ phát triển du lịch văn hóa, nâng cao đời sống cộng đồng, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Vì vậy, trên phương diện chuyên môn, theo chúng tôi, một mặt cần hướng tới bảo tàng hoá toàn bộ di sản văn hóa của làng, tức là đưa các di sản văn hóa tiêu biểu cùng môi trường sinh thái, nhân văn ở làng nghề trở thành đối tượng bảo vệ, nghiên cứu, giáo dục, cung cấp dịch vụ văn hóa theo cách thức của bảo tàng học. Với hình thức bảo tàng hóa các di sản văn hóa của làng, việc bảo tồn được thực hiện theo lối mở, không “đóng khuôn” các di sản, mà vừa bảo tồn, vừa tạo điều kiện để có thể phát huy, khai thác các giá trị của chúng phục vụ cho nhu cầu của cộng đồng bản địa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Điều này đồng quan điểm với các quốc gia trên thế giới hiện nay, bởi “không chỉ cố gắng giữ gìn các di sản đó ở dạng ban đầu mà còn cố gắng đưa một cách tích cực di sản đó vào nền móng của đời sống xã hội. Tức là bản thân quá trình lịch sử của văn hóa nghệ thuật xuất hiện ở đây không chỉ như quá trình bảo toàn quá khứ và tích lũy các giá trị văn hóa, mà còn như quá trình phát triển cái mới trong cái cũ” (1, tr.646). Cùng với những lợi ích đó, việc áp dụng hình thức bảo tồn này còn huy động được sự đồng thuận của các chủ thể văn hóa, tức là cộng đồng cư dân làng Thổ Hà, họ sẽ được hưởng những nguồn lợi từ các di sản văn hóa, từ đó có ý thức, thái độ trân trọng đối với di sản và tự nguyện tham gia vào việc bảo vệ, gìn giữ, phát huy các di sản đó.
Mặt khác, bên cạnh đó cũng cần xây dựng nhà trưng bày ngay tại khuôn viên của làng Thổ Hà, bởi lẽ, nghề gốm hiện nay không còn tồn tại nên chỉ có thể tái hiện lại những nét dấu xưa qua hình thức trưng bày các tài liệu, hiện vật hình ảnh. Nhà trưng bày sẽ là nơi giới thiệu về lịch sử làng gốm, các sản phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghề gốm cũng như về đời sống cộng đồng cư dân làng nghề qua các thời kỳ. Xây dựng nhà bảo tàng, tổ chức trưng bày theo các chủ đề phản ánh về lịch sử làng và nghề gốm ở Thổ Hà. Theo hướng này, chúng ta chủ động được thiết kế nội dung trưng bày, lựa chọn những tư liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu nhất sử dụng cho các chủ đề trưng bày ấy. Việc trưng bày sẽ giúp cho người tham quan có thể nắm bắt khái quát về lịch sử của làng nghề, tiếp cận với những sản phẩm tiêu biểu nhất của nghề gốm Thổ Hà qua các thời kỳ lịch sử – nay đã trở thành các di vật, cổ vật đầy giá trị. Để phát huy hiệu quả nhà trưng bày, nhất thiết phải có sự kết nối đối với toàn bộ các di sản văn hóa khác của làng nghề, tạo thành một chu trình khép kín. Khi đó, nhà bảo tàng sẽ trở thành một điểm đến quan trọng trong toàn bộ hành trình du khảo làng Thổ Hà. Nếu chỉ tồn tại riêng lẻ, không có sự kết hợp thì chắc chắn hiệu quả của bảo tàng sẽ không cao. Hình thức này đã được một số địa phương áp dụng hiệu quả khi tổ chức khai thác di sản văn hóa làng phục vụ cho việc phát triển du lịch.
4. Để tiến tới việc bảo tàng hóa các di sản văn hóa của làng Thổ Hà cũng như việc xây dựng nhà trưng bày về nghề gốm Thổ Hà, dẫu chặng đường còn ở phía trước, còn nhiều thủ tục và còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, nhưng ngay từ bây giờ rất cần có những hoạt động chuẩn bị cho sự ra đời đó. Theo chúng tôi, cần thiết phải quan tâm đến một số vấn đề như sau:
– Cần tổ chức nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về làng nghề với các nội dung như lịch sử làng, lịch sử các dòng họ, lịch sử nghề, kỹ thuật chế tác, các loại hình sản phẩm của nghề gốm qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, vấn đề giao thương giữa làng nghề trong khu vực, địa phương khác… Việc nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng để tiến hành sưu tầm các tư liệu, hiện vật, hình ảnh phục vụ cho tổ chức trưng bày, giới thiệu.
– Tổ chức nghiên cứu, xây dựng quy hoạch bảo vệ, phát huy giá trị đối với toàn bộ các di sản tại địa phương. Tiến hành khoanh vùng bảo vệ cho các di tích, các kiến trúc dân gian, các ngõ xóm nằm trong dự án bảo tồn, phát huy để tránh việc thay đổi, xây dựng cơi nới mới các kiến trúc đó. Phân định rõ ràng khu vực cần bảo tồn với khu vực dân cư có thể sinh sống, xây dựng mới đảm bảo cuộc sống, sản xuất. Cần đầu tư kinh phí để tiến hành các hoạt động trùng tu, tu bổ các di tích, công trình kiến trúc dân gian này.
– Tổ chức sưu tầm những tài liệu, hình ảnh, hiện vật như các dụng cụ làm gốm, các loại
hình sản phẩm, sự trao đổi sản phẩm… từ các nguồn khác nhau, các trung tâm lưu trữ, các nhà sưu tập cổ vật trong và ngoài nước. Bảo tàng Bắc Giang là cơ quan chuyên môn cần trực tiếp tiến hành các công việc để xây dựng Bảo tàng nghề gốm, cũng như việc hỗ trợ tài liệu, hiện vật cho nhà trưng bày này. Hiện nay Bảo tàng Bắc Giang đang lưu giữ sưu tập gốm Thổ Hà với hàng trăm đơn vị hiện vật là các sản phẩm thuộc các loại hình khác nhau như gốm thờ, gốm gia dụng, vật liệu xây dựng… Đây là nguồn hiện vật quan trọng để có thể tổ chức trưng bày, cũng có thể để định hướng hoặc phục chế hiện vật sử dụng trong trưng bày.
– Cần lựa chọn địa điểm phù hợp để xây dựng nhà trưng bày, theo chúng tôi nên đặt tại không gian của một lò gốm hiện vẫn còn lưu giữ được, hoặc phục dựng lại một lò gốm theo kiểu lò “con cóc” hay “lò rồng”. Qua đó, khách tham quan có thể hình dung được đặc trưng của lò gốm Thổ Hà trước đây. Đồng thời, trong không gian này, khi đi vào sử dụng sẽ tổ chức hình thức trải nghiệm quy trình sản xuất gốm bằng kỹ thuật đặc trưng của làng nghề như chuốt trên bàn xoay, giáp khuôn cho gốm… ngay tại bảo tàng.
– Bảo tồn các di sản văn hóa cũng như việc khai thác phát triển du lịch cho làng nghề cần tạo sự đồng thuận giữa chính quyền và cộng đồng theo nguyên tắc các bên đều có lợi. Bởi lẽ, định hướng gìn giữ các di sản văn hóa đã là việc quan trọng, nhưng để thực hiện thành công lại cần có sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó cộng đồng địa phương đóng vai trò rất quan trọng. Cộng đồng cư dân phải quan tâm, có ý thức vun đắp cho các thiết chế văn hóa này. Thực tế cho thấy ở nhiều nơi thiếu sự ủng hộ, đồng thuận của người dân nên tính hiệu quả của hoạt động này chưa cao.
– Chính quyền địa phương cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng và nâng cấp các tuyến đường giao thông thuận lợi cho các loại xe đều có thể di chuyển, xử lý môi trường, hình thành các dịch vụ hỗ trợ cho du lịch làng nghề như nhà hàng, cơ sở lưu trú và các dịch vụ khác.
Bên cạnh đó, cần chú ý đến việc xây dựng môi trường du lịch văn hoá tại làng nghề thông qua một số hoạt động như: giáo dục ý thức cho cộng đồng dân cư làng nghề có văn hoá giao tiếp với khách du lịch; phối hợp với các cơ sở đào tạo về quản lý du lịch, mời các giảng viên, chuyên gia trong lĩnh vực quản lý du lịch về giảng dạy các khóa học, các lớp tập huấn ngắn hạn tại làng nghề nhằm trang bị cho cán bộ địa phương và nhân dân làng nghề những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong hoạt động du lịch; giúp cho cộng đồng nơi đây biết cách làm du lịch, biết khai thác giá trị các di sản văn hóa để phát triển du lịch trên cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái – nhân văn bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.A Radughin (chủ biên, 2004), Văn hóa học những bài giảng, bản dịch của Vũ Đình Phòng, Từ Thị Loan hiệu đính, Viện Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
2. Đặng Văn Bài, Nguyễn Hữu Toàn (2006), Bảo tàng di sản văn hóa làng, Cục Di sản văn hóa xuất bản, Hà Nội.
3. Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Giang (2016), Di tích Bắc Giang, Bắc Giang.
4. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb. Giáo dục, tái bản, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Phong (2016), Gốm Thổ Hà Bắc Giang, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
6. Phong thổ Hà Bắc đời Lê (Kinh Bắc phong thổ ký diễn sự) (1971), biên dịch và khảo thích: Trần Văn Giáp, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 4, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
8. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 156/2005/QĐ- TTg ngày 23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020.
9. Phan Cẩm Thượng (2018), Từ một làng gốm cổ, in trong Nghệ thuật thường ngày, tập 2, Nxb. Đà Nẵng.
10. Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Bảo tàng hóa di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
11. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
12. Trịnh Cao Tưởng (2005), Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật Bản – Một nghiên cứu so sánh, Nxb. Văn hóa – Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
Nguồn: Nghiên cứu Văn hóa, Số 26 – Tháng 12 – 2018
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa làng Thổ Hà dưới hình thức bảo tàng hóa (Tác giả: TS. Trần Đức Nguyên, ThS. Lê Minh Chi) |