Bước đầu tìm hiểu “hương ước cải lương” ở Bắc Kỳ trước năm 1921 (Phần 1)

A preliminary study on reformed conventions
in Tonkin before 1921

Tác giả: ĐINH THỊ THÙY HIÊN
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
336 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
)

TÓM TẮT

     “Hương ước cải lương” là một cụm từ tương đối quen thuộc không chỉ trong giới học thuật mà cả trong đời sống thường ngày ở Việt Nam. Mặc dù vậy, vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm, cũng như chưa có hiểu biết xứng tầm về vấn đề này. Dựa chủ yếu trên tài liệu hương ước, bài viết chỉ ra rằng từ khoảng năm 1906 đến năm 1920 là một giai đoạn khá đặc biệt, mang tính chuyển tiếp trong lịch sử hương ước ở Bắc Kỳ. Bên cạnh dòng chính những văn bản vẫn đi theo quỹ đạo của hương ước cổ, đã xuất hiện một số hương ước mang các nét khác biệt về nguyên nhân ra đời, tên gọi, cấu trúc và nội dung. Từ những thay đổi nhỏ mang tính bộ phận, càng về sau yếu tố “cải lương” trong các văn bản hương ước càng đậm nét. Năm 1920, với sự xuất hiện hàng loạt văn bản ban hành theo mẫu đã kết thúc một giai đoạn mà chúng tôi tạm gọi là “cải lương hương ước sơ kỳ” ở Bắc Kỳ.

ABSTRACT

     “Reformed conventions” have been used widely both in Vietnamese daily life and academic field. So far, these sources have not been paid as much attention to as it should be, however. Based largely on village conventions, this paper aims to point out that from 1906 to 1920 was a special period in history of convention in Tonkin. Besides the traditional village conventions, which showed the main trend of convention development, there were also conventions bearing differences from the others in establishments, titles, structures and contents. Beginning with slight changes, reformative aspects of these conventions became more and more transparent. This “period of primarily reformed convention” ended with a series of conventions stereotyped in 1920.

x
x x

1. Mở đầu

     “Hương ước” là một cụm từ quen thuộc cả trong đời sống xã hội lẫn trong lĩnh vực học thuật ở Việt Nam. Tuy vậy, còn rất nhiều vấn đề chưa thực sự được quan tâm xứng tầm. Bản thân quá trình phát triển của hương ước, chẳng hạn, vẫn còn được nhìn nhận rất khác nhau giữa các ngành, và cả giữa các cá nhân nhà nghiên cứu. Một quan niệm về lịch sử phát triển ba giai đoạn với hương ước cổ, hương ước cải lương, và hương ước mới có vẻ là xu hướng chính trong giới học thuật, song bên cạnh đó vẫn tồn tại những ý kiến khác. Có người chia lịch sử hương ước thành hai giai đoạn hương ước cổ [cổ hương ước] và hương ước mới [tân hương ước], trong đó hương ước cổ bao gồm hai tiểu đoạn trước Pháp thuộc và trong Pháp thuộc. Mặc dù thừa nhận có sự thay đổi giữa hai thời đoạn trước và trong thời kỳ thuộc địa, nhưng nhà nghiên cứu này gián tiếp cho rằng hương ước thời Pháp thuộc vẫn nằm trong quỹ đạo cũ của hương ước cổ nói chung [1]. Một số ý kiến gạt bỏ các văn bản quy ước làng văn hóa vốn được xem là “sự trở lại của hương ước”, hay “hương ước mới” ra khỏi lịch sử hương ước, coi “giai đoạn cuối cùng của lịch sử hương ước” kết thúc cùng với sự chấm dứt thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam [2].

     Dù theo quan niệm nào, thì tựu trung lại các nhà nghiên cứu đều tán đồng về một giai đoạn hương ước phát triển sau hương ước cổ, tồn tại trong thời kỳ thuộc Pháp. Ví như, Cao Văn Biền “tạm gọi những Hương ước có từ năm 1921 đến trước năm 1945 là “Hương ước cải lương hương chính”, vì những hương ước này được lập theo các nghị định, các quy chế, các chỉ dụ về cải cách hành chính cấp làng xã ở Bắc Kỳ lúc ấy mà đương thời gọi là “Cuộc cải lương hương chính” và được thể hiện bằng chữ viết hiện đại, chứ không phải bằng chữ Hán, chữ Nôm [3].

     Nghiêm Văn Thái sử dụng một số khái niệm “hương ước cận đại”, hay “hương ước mới” để chỉ những văn bản hương ước thời Pháp thuộc; mặc dù tỏ ra khá cẩn trọng khi dè dặt liên hệ đến thuật ngữ “hương ước cải lương” song xét đến cùng ông cũng đồng nhất chúng với nhau khi viết: “Về những bản hương ước mà chúng ta đang đề cập đến ở đây, một số người gán cho nó cái tên là “hương ước cải lương”. Điều đó cũng có phần hợp lý, vì những bản hương ước này được biên soạn theo yêu cầu của chính quyền thuộc địa”, hay “những bản hương ước được soạn thảo vào thời gian thực thi chính sách “cải lương hương chính”, theo yêu cầu của chính quyền thực dân và theo tinh thần của cải cách “cải lương hương chính” được gọi là “hương ước cải lương” cũng có phần hợp lý” [4].

     Có lẽ ý thức được sự phức tạp của khái niệm hương ước cải lương, nên trong một số công trình, một số khái niệm khác được sử dụng. Viện Thông tin Khoa học Xã hội trong Lời nói đầu cuốn Thư mục hương ước Việt Nam thời kỳ cận đại sử dụng cụm từ “Hương ước mới” để chỉ những văn bản được soạn thảo vào những thập niên của nửa đầu thế kỷ XX, chủ yếu được viết bằng chữ quốc ngữ (có bản có cả phần chữ Hán hoặc chữ Nôm, có bản có cả phần dịch sang tiếng Pháp), mang “nhiều nét khá độc đáo, như sự bảo lưu những giá trị truyền thống lâu đời của làng xã và sự “cải lương trong điều kiện mới của lịch sử, sự cố gắng vươn lên đang thống trị của chính quyền thuộc địa của người Pháp tới các làng xã người Việt và sự tự đề kháng của các cộng đồng cư dân đó v.v..”, để phân biệt với giai đoạn trước đó của những văn bản hương ước được soạn thảo từ thế kỷ XIX trở về trước viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm” [5].

     Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát thì thuật ngữ “hương ước cải lương” được đa số người sử dụng để chỉ loại hình văn bản hương ước ra đời trong thời kỳ cải lương hương chính chính thức áp dụng ở Bắc Kỳ (1921), tồn tại cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là sản phẩm của công cuộc cải lương hương chính, và tên gọi “hương ước cải lương” cũng là xuất phát từ “cải lương hương tục, cải lương hương chính”. Một vài ngoại lệ ít ỏi có thể kể tới Dương Trung Quốc khi ông lưu ý đến giai đọan thử nghiệm của công cuộc cải lương hương chính: “trước khi ban hành nghị định 12- 8-1921, công cuộc “cải lương hương chính” đã được tiến hành thử nghiệm ở một số làng xã thuộc địa hạt cai trị của viên Tổng đốc Hoàng Trọng Phu” [6], hay trường hợp Nguyễn Lan Dung trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân sử học Sinh hoạt làng xã huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông trong cuộc cải lương hương chính giai đoạn 1915-1945 (qua hương ước) với việc bước đầu khảo sát và rút ra một số nhận định về bước thử nghiệm cải lương hương chính, hay giai đoạn tiền cải lương ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) những năm 1915 đến 1920, từ đó mở rộng khung niên đại của hương ước cải lương với giai đoạn thử nghiệm – tiền cải lương (1915-1945 thay vì 1921-1945) [7].

     Một điểm đáng lưu ý nữa là mối quan hệ giữa hương ước cổ với hương ước cải lương hầu như bị bỏ qua trong các công trình nghiên cứu. Hiện nay, hầu hết các nhà nghiên cứu thường chỉ tập trung nghiên cứu một loại hình, hay một giai đoạn phát triển của hương ước. Với các nhà nghiên cứu này, ranh giới giữa hương ước cổ với hương ước cải lương chỉ là một thời điểm cụ thể, với việc ngày 12-8-1921 Thống sứ ban hành nghị định về việc cải tổ bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ. Trong một số trường hợp nhìn suốt lịch sử phát triển của hương ước, thì mối quan hệ của chúng rất mờ nhạt: “Trong hơn 20 năm, từ những năm cuối cùng của thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX,… trong tình hình đó, những bản hương ước vẫn tồn tại và trong những chừng mực nhất định, có tác dụng phục vụ ý đồ nắm chặt làng xã của thực dân Pháp. Một số làng sang đầu thế kỷ XX vẫn còn sọan thảo hương ước… Để nắm chặt nông thôn, thực dân Pháp phải có một chủ trương mới đối với bộ máy quản lý làng xã và các tục lệ ở nông thôn. Họ quyết định cải tổ lại bộ máy hành chính làng xã mà đương thời gọi là cải lương hương chính” ở Bắc Kỳ bắt đầu từ tháng 8-1921 [8].

     Như vậy, mặc dù được sử dụng tương đối rộng rãi song trên thực tế “hương ước cải lương” với tư cách là một khái niệm được giải nghĩa chưa thật rõ ràng, đầy đủ và thống nhất. Thời điểm mở đầu của hương ước cải lương, bản chất của loại hình văn bản này hay mối quan hệ với hương ước cổ trước kia… là những điểm cần được làm rõ, cũng là những khía cạnh mà người viết cố gắng giải quyết bước đầu trên cơ sở nguồn tài liệu hương ước trong bài viết này.

2. Sự xuất hiện khái niệm “hương ước cải lương”

     Lời mở đầu Thụy Phương xã hương ước (văn bản Nôm) – văn bản “cải lương dân tục khoán lệ” năm 1915 của xã Thụy Phương – có ghi: “Chúng tôi là tiên thứ chỉ, chức sắc, kỳ dịch làng Thụy Phương trình lạy, quan lớn làm ơn cho dân chúng tôi một việc như sau này. Trong làng có khoán lệ để tuân theo cũng như nhà nước có bộ luật để cai trị. Năm Thành Thái thứ 18, chúng tôi đã làm khoán lệ cải lương, đã thừa quan trên duyệt y…(1) Căn cứ vào tài liệu này thì năm Thành Thái 18 (1906) dân làng Thụy Phương đã lập hương ước cải lương của cộng đồng mình.

     Tuy nhiên, thực ra thì trong văn bản hương ước lập ngày mùng 4 tháng 11 năm Thành Thái 18 không sử dụng cụm từ “cải lương”, thay vào đó là “tân ước”. Điều này có thể hiểu theo hai khả năng: hoặc ngay từ lúc đầu chủ thể của hương ước Thụy Phương đã hiểu “cải lương” đồng nghĩa với “tân ước”; hoặc cũng có thể vào thời điểm 1915 nhìn lại, họ tự nhận thấy rằng văn bản trước đó đã “cải lương” rồi. Không có cứ liệu nào cho biết chắc chắn về thực tế đã diễn ra, song dù như thế nào thì tài liệu này cũng đã phản ánh quan điểm về hương ước cải lương của chủ thể hương ước.

     So sánh văn bản hương ước Thụy Phương năm 1906 với văn bản năm Đồng Khánh 1 (1886)(2) mặc dù có một số thay đổi, điều chỉnh theo tinh thần châm chước giảm bớt phiền phí, đặc biệt trong nghi lễ tế tự, chúng tôi không thấy có những thay đổi đáng kể về mặt nội dung và hình thức, theo nghĩa đó thì chúng vẫn cùng nằm trong quỹ đạo của hương ước cổ. Vậy khái niệm hương ước cải lương của người Thụy Phương không đồng nhất với những gì mà các nhà nghiên cứu trước nay vẫn đề cập.

     Theo Nam Phong tạp chí, năm Duy Tân 4 (1910) ở Thái Bình đã có ông tiên chỉ Lê Văn Thiệp làng Bộ La, tổng Bội Dịch, huyện Võ Tiên, tỉnh Thái Bình đã xướng xuất việc cải lương [9]. Tuy nhiên, không rõ cụm từ “cải lương” có thực xuất hiện trong hương ước làng Bộ La, hay chỉ là quan điểm của tác giả bài viết ở thời điểm năm 1919 sau này?

     Văn bản sớm nhất xuất hiện hai chữ “cải lương”, thậm chí hiển hiện ngay ở tên gọi chúng tôi tiếp cận được là Tục lệ cải lương: Nghĩa sương Hương ước xã Đề Cầu do Trần Văn Minh soạn, In lần thứ 1 năm 1914, nhưng thực tế đã được soạn muộn nhất cũng từ năm Duy Tân 6 (1912), hiện vẫn được lưu giữ tại Thư viện quốc gia. Trong Tục lệ cải lương: tiểu dẫn do Trần Văn Minh soạn có ghi: “Tục lệ làng không có khoán ước chuẩn định, kẻ trước làm người sau theo, càng ngày càng nặng, đến nỗi người nghèo phải cầm bán vay mượn để làm theo tục lệ, sinh ra công nợ, có kẻ phải bỏ làng. Còn chi tiêu việc công dân; thì không có sổ sách biên chép để làm bằng, cho nên dân làng thường hay kiện cáo về việc hà lạm.

     Những người ở các tỉnh thấy phong tục như thế, không ai muốn về, song làng là chốn quê cha, đất tổ, phần mộ gia tiên ở đấy, chẳng nhẽ bỏ không nhìn.

     Bởi thế chúng tôi phải khuyên nhủ đồng dân lập nghĩa xương, hương ước, trình quan Công sứ và quan Tổng đốc bản tỉnh duyệt y.

     Mấy năm nay dân đã bỏ cựu tục theo tân ước, xem ra việc làm ăn cũng đã khá hơn, người làng ai cũng vui lòng”.

    Tờ quan tỉnh sức được đính kèm có đoạn “Ngày mồng 10 tháng giêng tây năm 1914, quan công sứ và quan Tổng đốc bản tỉnh duyệt y hương ước số 39 có trát sức về cho dân như sau này:

     Quan tổng đốc tỉnh Bắc Ninh họ Đặng, sức cho quan phủ Thuận Thành rằng:

     Vừa rồi có tiếp đệ bẩm bốn quyển hương ước của xã Đề Cầu xét ra xã ấy sửa định hương ước như vậy cũng là một việc cải lương mới thấy, cho tùy ý dân, đã duyệt rồi, và trình quan Công sứ xét nữa” [10].

     Qua các trích đoạn ở trên, có thể thấy hai cách nhìn về cùng một văn bản hương ước. Cư dân xã Đề Cầu xem đó là “tân ước” đã thay thế cho “cựu tục” trước kia. Trong khi đó, những người có trách nhiệm ở cấp trên xem đó như là “một việc cải lương mới thấy”.

     Đi sâu hơn vào nội dung văn bản, Tục lệ cải lương – nghĩa xương – Hương ước xã Đề Cầu có những quy định về sổ thu chi, hội đồng nóc họ… là những nội dung hoàn toàn mới so với hương ước cổ và gần gũi với hương ước được ban hành đồng loạt tại Bắc Kỳ từ năm 1921 trở về sau. Vậy, có thể hiểu đến đây dù “tân ước” cũng được hiểu là “cải lương”, song nội hàm của khái niệm này đã mới mẻ và khác trước đó nhiều.

     Từ năm 1915 trở đi, hàng loạt hương ước với tên gọi “cải lương” đã xuất hiện, có thể kể tới Đông Tác cải lương hương ước (1915); Thổ Quan tu bổ cải lương hương bạ (1916); Hương ước cải lương Khương Trung xã (1919)… Nội dung và hình thức của các bản hương ước cải lương này, như chúng tôi sẽ có dịp phân tích kỹ hơn ở phần sau của bài viết này, đã thực sự bước vào một quỹ đạo mới.

     Tóm lại, cụm từ “cải lương” ít nhất cũng đã xuất hiện từ cuối năm 1913, được cả chủ thể hương ước sử dụng để gọi văn bản hương ước của địa phương mình lẫn sự công nhận của chính quyền quản hạt. Tuy nhiên, “cải lương” còn được hiểu tương đồng với tân ước, vốn đã xuất hiện từ năm 1906. Từ đây có thể thấy khái niệm “cải lương” được sử dụng khác nhau từ những góc độ riêng, và là một khái niệm phức tạp hơn so với thường được hiểu. Vấn đề đặt ra là tại sao các văn bản “cải lương” đó lại ra đời?

     Lý giải được điều này sẽ giúp làm sáng tỏ vấn đề bản chất của hương ước giai đoạn này nói riêng, rộng ra là của hương ước cải lương nói chung.

3. Chính quyền thực dân với vấn đề cải lương hương tục

     Cùng vào năm dân làng Thụy Phương “làm khoán lệ cải lương, đã thừa quan trên duyệt y” (1906) như trên đã đề cập, có hai văn bản khoán lệ thôn Kim Mã và Kim Liên được lập ra trong đó đáng lưu ý lời đề tựa của hai bản hương ước đều ghi rõ rằng việc lập hương ước là do thừa sức của Tòa Công sứ Hà Đông(3) truyền bảo kê rõ dân tục, nhân đó phụng soạn các điều lệ mà thành văn bản này. Cụ thể, Khoán lệ thôn Kim Mã chép rằng: “Kỳ mục, lý dịch thôn Kim Mã, tổng Nội, huyện Hoàn Long bẩm. Có việc bẩm cụ thể này duyên do là thừa quý tòa truyền bảo các xã thôn sửa hương lệ bẩm lên. Nhân đó nay dân phụng soạn các điều lệ, nhất nhất kê rõ ở sau này”(4). Tương tự, khóan ước phường Kim Liên cũng ghi: “Chức sắc, tư văn, hương lão, kỳ mục, lý dịch toàn phường Kim Liên, tổng Kim Liên, huyện Hoàn Long lập khoán ước từ. Việc do thừa quý Tòa truyền thúc kê rõ dân tục khoán ước các điều mục, ghi thành hai bản đệ bẩm. Nhân đó, nay dân phường hội họp tại đình, phụng chiếu dân tục khoán ước các điều mục, phụng kê sau này”(5). Điều này cho thấy ngay từ năm 1906, dưới thời Thành Thái chính quyền thuộc địa đã có ý đồ với tay vào tận đơn vị cơ sở của xã hội Bắc Kỳ. Rất có khả năng còn có những làng, xã, phường, trại khác cũng theo chỉ thị này mà hình thành văn bản hương ước, và không loại trừ trường hợp hương ước “cải lương” của Thụy Phương.

     Năm tiếp đó (1907) lại thấy Tòa công sứ Hà Đông đốc thúc việc cải biên hương lệ. Lần này ta thấy có thông tin cụ thể, thú vị là chính quyền đưa ra hạn định phải đệ trình sau 8 ngày để chính quyền xét duyệt, thẩm định: “Kỳ mục, lý dịch và toàn thôn Thổ Quan tổng Vĩnh An huyện Hoàn Long lập khoán ước. Bởi lẽ vâng thừa quý tòa sức thúc giục dân thôn kỳ mục đến tòa nghe hầu công vụ, thừa truyền tu soạn khoán ước của dân thôn xem có sự cải biên thế nào, hạn định sau 8 ngày đệ lên tòa để trình thẩm xét. Vâng thừa dụ lệnh, dân thôn hội họp tham chước lệ cũ các ngạch tùy nghi mà thêm bớt kê rõ ra sau đây. Tất cả liên danh ký kết, nay lập tờ khoán ước”(6).

     Hiện chúng tôi không tìm được văn bản nào khác hoặc tài liệu lưu trữ của Tòa sứ Hà Đông để biết được 8 ngày đó là ngày nào, hay đây có phải là đơn vị duy nhất thực hiện hay không(7).

     Chủ trương “cải lương” cũng như sự xúc tiến thực thi cải lương của chính quyền càng hiện rõ nét hơn từ những năm đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XX. Ngày 22 tháng 11 năm Duy Tân 6 (1912), nhân dịp khánh thành nghĩa xương của xã Đề Cầu, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quan Phủ Thuận Thành đã diễn dụ rằng: “Còn như tục lệ làng nước ta, nhiều việc làm phiền phí vô ích cho dân, thời cũng nên sửa sang thay đổi, lập ra khoán ước điều lệ, để cho người làng cùng theo, dựng sổ chi tiêu, đặt các chức dịch và kỳ mục nóc họ, mỗi người giữ một việc cho có sở cứ. Những tục lệ thời chiết nạp vào công quĩ, để chi tiêu về việc công ích, như thế thì sự làm ăn trong dân mới có thể tấn tới lên được” [11]. Đến ngày rằm tháng chạp năm Duy Tân 7 (1913), tức ngày 10 tháng 1 năm 1914 dương lịch, dân xã Đề Cầu có đơn xin “lập ra khoán ước, dựng sổ chi tiêu” kèm theo bản hương ước với những nội dung mới theo đúng tinh thần phủ dụ của quan trên. Dù chúng ta không biết được trường hợp xã Đề Cầu có phải là duy nhất ở phủ Thuận Thành hay không, nhưng rõ ràng nó chứng tỏ chính quyền đã có chủ trương cải tổ lại hương tục, hương chính.

     Đông Tác hương cải lương bạ cho biết quan Công sứ, quan Tổng đốc không ngại bỏ công sức về tận đình làng giảng giải việc cải lương cho thôn, phường(8). Sức ép đối với dân làng trong việc cải lương hương tục có thể thấy trong điều thứ nhất của hương ước này: “Bây giờ nhà nước đặt ra các làng có danh sách kỳ mục và cho cải lương nữa mà làng ta không biết lo liệu thế nào thời việc quan không xong, việc làng không yên”(9). Thổ Quan thôn cải lương bạ (1916) trong lời mở đầu cũng ghi: “Chúng tôi là tiên, thứ chỉ, kỳ lý, nhân đinh thôn Thổ Quan, tổng Vĩnh An, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông thiết nghĩ nhà nước bây giờ đang muốn khai trí cho dân càng ngày càng được thịnh, được hay, vào văn minh tiến hóa, thế dân muốn cho được thịnh, được hay, thời phải hợp trí nhau, trước hết sửa hương lệ, phong tục, lại lập thành khoán lệ răn cấm các sự, mà làm các việc ích lợi chung. Nhưng khoán lệ cũng nên làm thế nào cho dân được tiện dương theo chứ không nên làm quá, dân tôi xưa kia đã có khoán lệ lập thành, nay xin nhân mà châm chước lại, sự gì nên theo, sự gì nên bắt, cho hợp thời nghi, lập thành khoán lệ, kê bẩm xin quan lớn lượng xét tỉ cho dân tôi được tuân mà thi hành nay bẩm lạy”(10).

     Từ các dẫn liệu hương ước kể trên, có cơ sở để tin rằng, chính quyền thực dân sớm có chủ trương nắm lấy các cộng đồng cơ sở, can thiệp vào vấn đề hương tục ở Bắc Kỳ khá lâu trước khi cải lương hương chính được chính thức áp dụng rộng rãi năm 1921. Trong khi chủ trương can thiệp vào vấn đề dân tục của thực dân Pháp đã khá rõ ràng, tác động của yếu tố bên ngoài (yêu cầu của chính quyền) chiếm vị trí nào trong việc hình thành văn bản khoán lệ “cải lương” lại là một câu chuyện khác. Để tìm hiểu điều đó, cần phải dựa vào nội dung của những bản hương ước được hình thành trong bối cảnh trên.

__________
(1) Thụy Phương xã hương ước lập năm Duy Tân 9 (1915), văn bản Nôm, lưu tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội, ký hiệu HUN 0642.

(2) Hà Đông tỉnh Hoài Đức phủ Từ Liêm huyện Phú Gia tổng Thụy Phương xã phong tục, bản viết tay chữ Hán Nôm, nằm trong sách Hà Đông tỉnh, Hoài Đức phủ, Từ Liêm huyện, Phú Gia tổng các xã phong tục, kí hiệu AF. a2/63, lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(3) Nguyên văn “Thừa quý Tòa”. Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành tổ chức, sắp xếp lại bộ máy cai trị các cấp, trong đó ở Bắc Kỳ, Tòa sứ do Công sứ đứng đầu điều hành mọi việc công việc ở cấp tỉnh. Cả hai làng đều thuộc huyện Hoàn Long, khi ấy thuộc quyền quản lý của Tòa sứ Hà Đông nên “quý Tòa” ở đây được hiểu là Tòa Công sứ Hà Đông.

(4) Hoàn Long Kim Mã thôn khoán lệ, văn bản chữ Hán, lập ngày 20 tháng 12 năm Thành Thái 18 (1906), kí hiệu AF.a2/29, lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(5) Hoàn Long Kim Liên phường khoán ước, văn bản chữ Hán, kí hiệu AF. a2/26, lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(6) Khoán ước thôn Thổ Quan, lập ngày 10 tháng 2 năm Thành Thái 19 (1907), văn bản chữ Hán lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a2/31.

(7) Bản khoán lệ của thôn Trung Phụng lập ngày 23 tháng 2 cùng năm không tiết lộ điều gì tương tự mặc dù về hình thức khá giống văn bản của thôn Thổ Quan nên chúng tôi chưa có đủ cứ liệu để xác định nó có nằm trong chủ trương này hay không. Xem Trung Phụng thôn khoán lệ, văn bản chữ Hán, kí hiệu AF. a2/32, lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, lập ngày 23 tháng 2 năm Thành Thái 19 (1907).

(8) Lời mở đầu Đông Tác hương cải lương bạ viết rằng: “Trong làng có khoán lệ để tuân theo cũng như trong nước có luật bộ để cai trị, thế mà làng chúng tôi tục lệ chỉ nói bằng miệng, không biết hay là cũng có tục trước để lại bằng chữ song đến nay đã lâu ngày không thể theo được, việc xuất nhập tiền công không có bạ chi tiêu, việc cai trị trong dân thời cứ giao mặc lý trưởng, không có người chuyên trách, và các tục lệ ăn uống nặng nề, đến có người không gánh góp được. Nay trên thời nhờ có quan sứ, quan Tổng đốc có lòng vì dân xin đến tận đình sở mà giảng cho dân chúng tôi các điều công ích, thực lấy làm vui vẻ quá.

(9) Đông Tác hương cải lương bạ lập ngày 1 tháng 5 năm Duy Tân 9 (1915), sao năm 1942, kí hiệu Hưn 188, lưu tại Viện Thông tin KHXH.

(10) Thừa sao chính bản Thổ Quan thôn cải lương bạ, văn bản chữ Nôm, lập năm Khải Định 1 (1916), kí hiệu Hưu198, lưu tại Viện TTKHXH.

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn,
28 (2012) 104‐116

 Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

CÁC BÀI VIẾT CÓ LIÊN QUAN:
1. Bước đầu tìm hiểu “hương ước cải lương” ở Bắc Kỳ trước năm 1921 (Phần 1)

2. Bước đầu tìm hiểu “hương ước cải lương” ở Bắc Kỳ trước năm 1921 (Phần 2)