Cách tiếp cận mới trong nghiên cứu truyện thơ Nôm
Tác giả bài viết: Phó giáo sư, tiến sĩ NGUYỄN PHONG NAM
(Đại học Đà Nẵng)
TÓM TẮT
Truyện thơ nôm là một hiện tượng văn học còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Nguyên nhân chủ yếu là do sự khác biệt trong quan niệm của giới nghiên cứu về đối tượng và phương pháp tiếp cận. Để giải quyết tình trạng này, cần phải thay đổi cách nhận thức về đối tượng. Truyện thơ nôm cần được coi là một loại hình văn học. Nó có những nét đặc thù trong phương thức sáng tác và tiếp nhận; có những đặc điểm riêng về hình thái và tính chất. Muốn nhận diện chính xác lịch sử loại hình, cần đặt nó trong những hệ quy chiếu thích hợp với điểm nhìn rộng lớn, đa dạng hơn.
Từ khóa: Truyện thơ nôm; loại hình văn học; hình thái; phương pháp; thể loại.
x
x x
1. Đặt vấn đề
Truyện thơ nôm là đối tượng đã được giới chuyên môn tìm hiểu một cách kỹ lưỡng từ lâu. Với số lượng rất lớn các công trình, bài viết đã công bố, thoạt nhìn, dễ có ý nghĩ là mọi phương diện của hiện tượng văn học này đều đã được giải quyết. Thế nhưng thực tế lại không phải như vậy. Không ít nội dung từng được luận đàm ráo riết từ giữa thế kỷ XX, vậy mà cho đến tận bây giờ vẫn đang dang dở. Ngay cả đối với những vấn đề cơ bản liên quan đến việc nhận diện đối tượng nghiên cứu (chẳng hạn thế nào là truyện nôm? Bản chất truyện nôm là gì?Truyện nôm xuất hiện như thế nào ?…), câu trả lời vẫn rất mơ hồ.
Nhìn vào thành quả nghiên cứu truyện thơ nôm bấy lâu, có thể thấy vướng mắc nhiều nhất trong quá trình nhận thức chính là do phương pháp tiếp cận, mà điều này lại là hệ quả trực tiếp từ việc nhận diện đối tượng. Có quan niệm cho rằng truyện thơ nôm là một thể loại văn học. Quan niệm này vô hình trung đã đẩy truyện thơ nôm trượt ra khỏi vị thế quan trọng trong cấu trúc của nền văn học dân tộc. Đây chính là điểm mấu chốt dẫn đến những sai lạc không mong muốn trong hoạt động nghiên cứu truyện nôm từ trước tới nay. Muốn thoát ra khỏi những “điểm nghẽn” này, không có cách nào khác ngoài sự thay đổi phương pháp nhận thức.(*)
2. Xung quanh vấn đề nhận diện truyện thơ nôm
2.1. Lâu nay khi bàn về truyện thơ nôm, ý kiến của các nhà nghiên cứu tuy rất đa dạng, nhưng cũng có nhiều điểm thống nhất. Chẳng hạn như, về quá trình hình thành và phát triển, truyện thơ nôm là một thể loại văn học, có quá trình lịch sử chừng ba thế kỷ; nó xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII, với các truyện mở đầu như Vương Tường, Tô công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi… và đạt đến đỉnh điểm vào đầu thế kỷ XIX (với kiệt tác Truyện Kiều), cho đến cuối thế kỷ này thì kết thúc(1). Những căn cứ để xác định thời điểm xuất hiện của các truyện chủ yếu dựa vào đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, cơ sở để suy đoán chính là mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử và nhân vật trong tác phẩm văn học. Chẳng hạn, truyện Vương Tường có cốt truyện dựa trên giai thoại Chiêu Quân nhập Hồ (Trung Quốc), nhưng lại được xem là một tác phẩm có tính ám dụ về lịch sử Việt Nam – sự kiện công chúa Huyền Trân (1287 – 1340) được gả cho vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga(2). Tương tự, truyện Tô công phụng sứ, mặc dù tên nhân vật gợi đến hành tích Tô Vũ nhà Hán, nhưng chính là kể về sứ thần Lê Quang Bí (1506 – ?) thời nhà Mạc… Bản thân các nhân vật, sự kiện lịch sử này là những gợi dẫn về thời gian xuất hiện truyện thơ. Đồng thời, xét về hình thức nghệ thuật, các tác phẩm vừa nêu đều được trình bày theo thể thức thất ngôn bát cú Đường luật. Chính sự “lạc loài” về hình thế câu thơ, nét thô vụng trong cách diễn đạt, cùng một vài yếu tố khác như ngôn ngữ, thể cách viết chữ (nôm)… đã được lấy làm dấu hiệu cho quá trình thử nghiệm loại hình(3)… Từ đấy kết luận được đưa ra, truyện thơ nôm xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII (hoặc XVIII).
Những nội dung vừa nêu trên được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường; được truyền bá rộng rãi thông qua “kênh” giáo dục; mặc nhiên trở thành quan điểm “chính thống”. Về lý mà nói, tri thức nhà trường vốn được xây dựng dựa trên thành tựu khoa học nói chung, lại đã được thẩm định kỹ càng, hẳn nhiên phải đáng tin cậy. Hơn nữa, trước những thông tin như vậy, giới khoa học suốt mấy chục năm qua cũng không có phản ứng gì, tức là coi chuyện đó là ổn thỏa. Thế nhưng xét về phương diện chuyên môn, nếu coi đây là kiến thức “chuẩn” thì lại không được. Những mô tả về lịch sử truyện thơ nôm như trên là không đảm bảo về mặt khoa học. Bởi vì như khẳng định loại hình này xuất hiện vào thế kỷ XVII (hoặc XVIII) mà chỉ dựa trên suy luận, không đưa ra được bằng chứng đảm bảo thì luận điểm đó là không đáng tin. Làm sao có thể nói các truyện Vương Tường, Tô công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi… ra đời sớm nhất, khi mà cho đến nay, chưa ai chứng minh được nó ra đời trong hoàn cảnh nào, ai là tác giả!
Trên thực tế, cũng có học giả do thấy được thấy tính chất phức tạp của văn bản truyện thơ nôm nên đã đưa ra những nhận định chừng mực hơn; không khái quát lịch sử loại hình nói chung mà chỉ đề cập đến đối tượng được gọi là “truyện nôm có tên tác giả”(4). Số truyện này thực ra không nhiều; so với những truyện “khuyết danh” thì tỉ lệ truyện “hữu danh” quá nhỏ. Khi phân biệt như vậy cũng có nghĩa, cái gọi là “lịch sử” này chỉ là một mảnh, còn phần lớn truyện thơ nôm thì hoàn toàn chưa được tính đến. Nhưng với cứ liệu thư tịch hiện có, mốc đánh dấu lối truyện này lại phải nằm vào thế kỷ XVIII mới phải, tức là đúng vào thời điểm xuất hiện Song Tinh truyện của Nguyễn Hữu Hào(5), chứ không thể sớm hơn.
Để chỉ ra những điểm bất hợp lý, sự khiên cưỡng trong phương pháp suy luận thể hiện ở sách giáo khoa là việc đơn giản. Nhưng cũng cần thấy là ở tình huống này, lỗi không hoàn toàn thuộc về người biên soạn. Cái gốc của vấn đề lại chủ yếu thuộc về giới chuyên môn; thậm chí có thể nói trách nhiệm chính thuộc về các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ nôm. Kiến thức học đường đã phản ánh đúng thực trạng nghiên cứu hàn lâm. Khi mà giới nghiên cứu hầu như đều thống nhất rằng truyện thơ nôm ra đời vào thế kỷ XVII và kết thúc cuối thế kỷ XIX thì tài liệu giáo khoa cũng không thể nói khác được.
Cần bàn kỹ hơn một chút về thế kỷ XVII, thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của truyện thơ nôm. Thực ra việc lựa chọn mốc thời gian này chẳng dựa trên một cơ sở khoa học nào cả.(4)Tuy vậy, điều này không hoàn toàn ngẫu nhiên; trái lại nó có căn nguyên từ phương pháp nhận thức của nhà nghiên cứu. Có một hiện tượng khá phổ biến là trong các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam, yếu tố “sử” bao giờ cũng được dùng như một căn cứ để giải thích “văn”. Điều này dường như được bắt nguồn từ quan niệm về tính dung hợp của nghệ thuật ngôn từ (vốn thịnh hành trong quá khứ), lại vừa bắt nguồn từ nhận thức về đặc tính “phản ánh” của văn học với tư cách một hình thái ý thức xã hội (trong quan niệm mác – xít). Nhà nghiên cứu do bị ám ảnh bởi “nguyên lý” này nên khi tư duy thường hướng đến việc phát hiện sự chi phối của lịch sử đối với văn học, hoặc ngược lại, tìm ánh xạ của lịch sử trong văn học. Rút cuộc, các công trình văn học sử thường được “dựng” theo mô thức chung. Bối cảnh lịch sử, đặc điểm văn hóa xã hội… không chỉ đóng vai “phông nền” mà thậm chí còn trở thành một phần của lịch sử văn học. Những nghiên cứu về cái gọi là “lịch sử” hay “nguồn gốc” hình thành truyện thơ nôm cũng không phải là ngoại lệ. Trên thực tế, khi bàn về sự xuất hiện của nó, cái lý do được nhiều người nhấn mạnh hơn cả không hẳn là những yếu tố thuộc về văn học mà lại là những tiền đề lịch sử, xã hội tương ứng. Điều đó gợi ấn tượng rằng sở dĩ mốc ra đời truyện thơ nôm được “đặt” ở thế kỷ XVII không phải vì có những dấu hiệu chứng tỏ quy luật vận động của một “thể loại”/ loại hình văn học, mà vì có sự phù hợp với mối quan hệ “nhân – quả” giữa văn học và lịch sử.
Đối với truyện thơ nôm, trong điều kiện thông tin tư liệu hiện có thì dù chọn thời điểm nào làm mốc lịch sử cũng vậy, nghĩa là cũng đều thiếu rõ ràng. Chỉ có điều, nếu chọn thế kỷ XVII thì cách luận giải về nguyên nhân ra đời của nó có vẻ thuận lý, có cơ sở hơn. Theo đó, trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVII, sự ra đời của hiện tượng văn học này được cho là “phù hợp quy luật”. Truyện thơ nôm cùng với ngâm khúc, sân khấu dân gian… tạo nên một trào lưu văn chương nghệ thuật có tác dụng “cân bằng” đời sống tinh thần, giải tỏa bức xúc của xã hội(6). Tuy nhiên, chính lối nhận thức này đã khiến cho việc cắt nghĩa nguồn gốc một loại hình văn học trở nên gượng ép. Tác phẩm văn chương, một yếu tố của đời sống, bao giờ cũng thuộc về một hoàn cảnh cụ thể; cũng vì thế, bóng dáng đời sống hiện thực được thể hiện trong đó là điều không cần phải bàn cãi. Nhưng cái sản phẩm tinh thần này lại không phải là một bản sao từ thực tế lịch sử, không phải là một kết quả có tính tất yếu; lắm khi nó chỉ là một điều kỳ diệu tình cờ. Thật khó thuyết phục về mặt lý lẽ rằng truyện thơ nôm ra đời là vì những điều kiện lịch sử xã hội như thế. Hơn nữa, lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII cũng không hẳn bi thảm như nhiều người từng nghĩ; trái lại, vẫn có những phương diện thực sự hưng vượng, phát triển. Điều này đã được chứng minh trong nhiều công trình sử học gần đây. Thành ra, giải thích nguyên do phát sinh, phát triển của truyện thơ nôm như một hiệu ứng xã hội (tù hãm, suy thoái) là không thỏa đáng.
2.2. Tuy vậy, rắc rối trong việc nghiên cứu truyện thơ nôm không chỉ là việc chưa xác định rõ thời điểm ra đời của nó; ngay cả việc nhận diện đối tượng cũng còn rất mơ hồ. Một điều khó tin song đó lại là sự thật: hơn nửa thế kỷ bàn đủ mọi thứ về truyện thơ nôm, song diện mạo lịch sử của nó như thế nào thì vẫn là một câu chuyện dở dang.(6)
Truyện thơ nôm là gì? Rất khó mô tả hiện tượng văn học này chỉ bằng mấy câu ngắn gọn. Trong các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, nó được gọi bằng nhiều tên khác nhau; chẳng hạn: tiểu thuyết quốc ngữ (Phạm Đình Hổ), tiểu thuyết bằng văn vần (Dương Quảng Hàm), truyện ngâm (Hoàng Thiếu Sơn), truyện nôm (Đặng Thanh Lê, Kiều Thu Hoạch); rồi những truyện thơ, truyện nôm na, truyện diễn ca, truyện diễn nôm, truyện thơ bình dân, truyện quốc âm... Hiếm có hiện tượng văn chương nào lại mang nhiều danh xưng đến thế.
Trước đối tượng như truyện thơ nôm, người nghiên cứu khi sử dụng một khái niệm cụ thể nào đó (để định danh) chắc chắn đã rất đắn đo. Chẳng hạn khi gọi tiểu thuyết (quốc ngữ, văn vần…), hoặc truyện (nôm, quốc âm, bình dân…), thì các yếu tố “truyện”, “tiểu thuyết” đã hàm ý khẳng định loại hình văn học này thuộc phương thức tự sự. Còn khi kèm thêm các định ngữ thì tính chất của loại hình càng được xác định một cách cụ thể hơn; khi đó, các đặc điểm thuộc về hình thái (thơ Nôm), phong cách (nôm na, bình dân), lối diễn tấu (diễn ca, ngâm)… được đặc biệt chú trọng. Như vậy, tên gọi trong trường hợp này không chỉ là quy ước về đối tượng nghiên cứu mà còn bộc lộ một nhận thức, một quan niệm (của chủ thể) và đương nhiên, điều đó cũng sẽ chi phối sự lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Tình trạng nhiều tên gọi một mặt thể hiện tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, mặt khác, chứng tỏ sự phân tán trong quan niệm của các học giả khi chọn lựa cách tiếp cận và xử lý vấn đề. Cùng với những khó khăn trong việc tìm một tên gọi thống nhất cho đối tượng, thao tác “định dạng” (sắp xếp thành nhóm tác phẩm theo tiêu chí cụ thể) xem ra còn phức tạp hơn nhiều. Lâu nay, giới nghiên cứu thường coi truyện nôm là một thể loại(7). Tuy nhiên, khi dùng khái niệm “thể loại” để chỉ một tập hợp có đến hàng trăm tác phẩm không thuần nhất, rất khác nhau về mọi phương diện như truyện thơ nôm, cũng có nghĩa là đã chấp nhận tình trạng thiếu rành mạch. Bởi vì khi coi nó là “thể loại” thì vô hình trung đã thừa nhận tình trạng nhập nhằng, không phải “thể”, mà cũng không hẳn là “loại”. Trong khi, “loại” và “thể” vốn là những hiện tượng (văn học) không đồng nhất về nhiều phương diện. Nếu như “loại” gắn với mục đích phân biệt các phương thức (cách) “mô phỏng” hiện thực, thì “thể” là cái hình tướng (tức là cái kết quả) đã được hiển lộ ra. Nói khác đi, “loại” (tự sự, trữ tình, kịch chẳng hạn), không phải là “tập lớn” của “thể”, bao trùm “thể” (như tiểu thuyết, truyện ngắn, hoặc thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt, lục bát…); và nói chung, chúng thuộc những phạm trù riêng, chả phải “là gì” của nhau.(7)
Truyện thơ nôm, xét trên bình diện “loại” (theo cách hiểu phổ biến), vốn đã phức tạp; nó vừa thuộc (phương thức) tự sự, vừa thuộc (phương thức) trữ tình, lại cũng có phần liên quan đến cả lối diễn tấu (nói, kể, ngâm). Còn nếu xem xét trên phương diện “thể” (hình thái) của tác phẩm thì việc phân chia lại càng rắc rối. Bởi vì có khi nó xuất hiện dưới dạng thức một văn bản (viết), nhưng cũng nhiều khi là một “ngôn bản”. Nếu đó là văn bản được kí chép bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ…, thì ta dễ dàng nhận ra các thể lục bát, thất ngôn… thậm chí trong đó còn có cả các “thể văn” nhật dụng (văn tế, văn khấn, thư từ…). Nhưng nếu như nó được thể hiện dưới dạng thái “tự nhiên”, “văn bản sống” (living text), tức là câu chuyện được hiện lên trong mối quan hệ tương tác (interactive) giữa nghệ nhân (diễn tấu) với khán – thính giả, những người tham dự… (xin lưu ý, đây mới là dạng thái chủ yếu của truyện thơ nôm), thì tình hình sẽ khác đi, cách hiểu thông thường về khái niệm “thể” sẽ không còn phù hợp. Thành ra, khi coi (truyện thơ nôm) là một thể loại thì, xét về logic hình thức cũng như thực tế tác phẩm, đều bất hợp lý.
Việc định dạng truyện nôm – thể loại văn học mặc dù đã trở nên phổ biến từ lâu, song không thể tìm thấy một lời giải thích nào thực sự rõ ràng. Cho đến bây giờ, cũng không ai có thể hiểu vì sao lại gọi như thế; mặc dù, như đã phân tích ở trên, dùng thể loại ở đây là không hợp lý. Bản thân khái niệm đã thiếu chặt chẽ, lại dùng để chỉ một thực thể quá đa dạng, quá phức tạp về mọi phương diện, từ nguồn gốc, hình thái cho đến chức năng, giá trị…; điều đó càng khiến mọi chuyện trở nên khó hình dung. Truyện thơ nôm có rất nhiều kiểu dạng, phần giống nhau không ít nhưng chỗ khác cũng rất nhiều. Vậy làm sao để có thể dung hòa chúng vào trong một “thể/ loại” được?. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều vấn đề mang tính “cốt tử” trong việc nhận diện hiện tượng văn học này, từng được đặt ra từ khoảng giữa thế kỷ XX (chẳng hạn: truyện thơ nôm là “văn học nói” hay “văn học viết”, là nghệ thuật ngôn từ hay folklore ?…) đến nay vẫn đang “treo” như một món nợ không có khả năng “thanh toán”.
Như vậy, xét từ gốc rễ của vấn đề, cả việc định danh lẫn định dạng đối tượng nghiên cứu đều bất ổn. Điều này ảnh hưởng tiêu cực tới những nghiên cứu chuyên sâu. Thật khó để có thể tìm hiểu truyện thơ nôm một cách hệ thống, có cơ sở khoa học nếu như diện mạo, tính chất của đối tượng chưa được nhà nghiên cứu hình dung chính xác. Thành thử, việc quay lại nhận diện đối tượng là hết sức cần thiết, nếu không, sẽ đối mặt với nguy cơ càng đào sâu càng lạc hướng.
Thực ra, ngay từ năm 1998, cũng đã có ý kiến phản biện về vấn đề này. Trong một bài báo có tiêu đề “Truyện Nôm”, công bố trên Tạp chí Văn học (số 3), Đặng Văn Lung đã bày tỏ sự không đồng tình về việc coi truyện thơ nôm là một thể loại và ông đề xuất nên thay thế bằng khái niệm “kiểu loại”. Tuy nhiên, có lẽ do danh từ “kiểu loại” chưa được làm rõ cho nên sáng kiến đó đã không thuyết phục được các nhà nghiên cứu. Ý tưởng nghiêm túc này nhanh chóng rơi vào quên lãng, không nhận được bất cứ sự chia sẻ nào từ các đồng nghiệp. Trong các bài viết, chuyên luận xuất hiện sau đó, cụm từ “thể loại truyện nôm” vẫn được giới chuyên môn kiên trì sử dụng, như thể tiếp tục khẳng định về tính hiển nhiên của khái niệm.
Tạo khái niệm mới để thay cho thể loại (truyện thơ nôm) là một giải pháp rất cần thiết. Một tên gọi hợp lý, biểu đạt một cách đầy đủ đặc điểm, tính chất của đối tượng thực chất là một sự điều chỉnh trong quan niệm; nó sẽ tạo ra những thay đổi trong quá trình nhận thức hiện tượng văn học đặc biệt này ở các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu coi nó là một kiểu loại, tức chỉ nhìn trên bình diện các phương thức phản ánh, thì vô hình trung lại bỏ qua phương diện hình thái, vốn liên quan chặt chẽ tới những đặc điểm của truyện thơ nôm. Trong khi nó không chỉ là những tác phẩm văn học, theo cái nghĩa sản phẩm ngôn từ trong một kiểu dạng văn bản được định hình, mang tính quy phạm. Truyện thơ nôm là một hiện tượng nghệ thuật gắn liền với những mô thức tư duy của người Việt; nó liên quan đến những yếu tố thuộc tâm thức văn hóa, những phương thức thụ hưởng các giá trị văn hóa tinh thần đặc trưng của cộng đồng mà không một thể loại văn chương nào có được. Chính vì thế, theo chúng tôi có thể coi truyện thơ nôm là một loại hình văn học. Khái niệm loại hình vừa khả dụng trong việc khu biệt về phương thức biểu hiện (so với các loại, kiểu loại), lại vừa thuận lợi trong trường hợp cần phân xuất về hình thái, thể thức của tác phẩm. Khi đã coi truyện thơ nôm là một loại hình văn học, thì việc nhận diện lịch sử nói riêng, nghiên cứu truyện thơ nôm nói chung đương nhiên cần được tiến hành theo một nguyên tắc khác.
3. Tiếp cận truyện thơ nôm trên bình diện loại hình văn học
Truyện thơ nôm là một thành tố có vị thế quan trọng trong cấu trúc của nền văn học dân tộc nhưng bản thân nó lại cũng là một hệ thống, gồm nhiều yếu tố với các mối quan hệ khá phức tạp, không hề thuần nhất. Do đơn giản hóa đối tượng, không nhận thấy (hoặc không chấp nhận) sự thật này, các nhà nghiên cứu luôn gặp khó không chỉ trong việc sắp xếp truyện thơ nôm vào hệ thống mà ngay đến việc tìm hiểu cấu trúc của nó cũng chẳng dễ dàng.
Quả thật không thể tiếp tục giữ mãi quan niệm truyện thơ nôm là một thể loại (một yếu tố) của văn học trung đại hay văn học dân gian bởi vì nó không phải là yếu tố “đồng đẳng”, “bằng vai” với các (thể loại) như thơ luật, truyện ký, tiểu thuyết, tản văn, ca dao, truyện cổ tích... Xét trong tương quan loại hình, truyện thơ nôm là một hiện tượng văn hóa – văn học có những giá trị đặc thù; hình thức/phương thức tồn tại, giao tiếp của nó vừa có điểm giống lại vừa có nhiều điểm khác biệt so với văn học nói, sân khấu truyền thống, văn học viết (bằng chữ Hán, Nôm). Nói cách khác, truyện thơ nôm hoàn toàn vượt ra khỏi mô thức của một thể loại (theo nghĩa thông thường). Do đó, sẽ không thể tránh khỏi sai lầm nếu cứ cố chứng minh nó là một yếu tố thuộc về văn học dân gian, hay văn học trung đại.
Sự phức tạp, đa diện của truyện thơ nôm có thể dễ dàng kiểm chứng khi ta nhìn nhận nó từ những quan điểm khác nhau. Chẳng hạn xét về văn bản, có dạng truyện khuyết danh, truyện có tên tác giả; dựa trên phong cách nghệ thuật, có truyện bác học, truyện bình dân; dựa trên phương thức sáng tác, có truyện hư cấu và truyện chuyển thể; xét về chức năng, có loại truyện tôn giáo, truyện thế tục (thế sự), truyện diễm tình… Mỗi một dạng như vậy thường có những điểm khu biệt về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển. Không phải trường hợp nào ta cũng có thể truy tìm được nguồn gốc, quá trình phát triển của chúng.
Nghiên cứu truyện thơ nôm từ quan điểm loại hình không chỉ gỡ bỏ được những vướng mắc lâu nay mà còn mở ra nhiều triển vọng cho quá trình nhận thức đối tượng này. Chẳng hạn, việc miêu tả cái gọi là “lịch sử thể loại” sẽ trở nên rành mạch, hợp lý hơn. Do loại hình văn học là một khái niệm “phi lịch sử”; nói đúng hơn, yếu tố thời gian không đóng vai trò cốt yếu, cho nên chỉ có đặc điểm về phương thức, hình thái của nó mới đáng kể. Một khi yếu tố thời gian không còn can dự thì cái gọi là quá trình, lịch sử… cần phải được tư duy theo một cách khác.
Trên thực tế, trong toàn bộ số truyện thơ nôm hiện có, chỉ duy nhất một nhóm tác phẩm mà ta có thể hình dung được quá trình sinh thành và phát triển. Đó là nhóm truyện “chuyển thể”, gồm các tác phẩm có cốt truyện “tiền thân” hoặc “giả mạo” (cốt truyện do chính tác giả sáng tác ra nhưng lại được gán cho một nguồn gốc “giả”). Nhóm truyện này có nguồn gốc tương đối rõ ràng, văn bản đã được định dạng. Việc mô tả quá trình vận động của chúng do đó cũng không quá khó khăn. Quá trình đó bắt đầu từ Song Tinh truyện của Nguyễn Hữu Hào (? – 1713), đến những Nhị độ mai, Hoa tiên, Truyện Tây sương, Trinh thử, Bất phong lưu truyện, Ngọc Kiều Lê, Truyện Kiều… cả những tác phẩm tuy được ký chép bằng chữ quốc ngữ nhưng thực chất là truyện thơ nôm, như Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (Phan Châu Trinh), U tình lục (1909) và Vậy mới phải (1918) của Hồ Biểu Chánh… Như vậy, “số phận lịch sử” của nhóm truyện này được khởi đi từ thế kỷ XVIII, kéo sang đầu thế kỷ XX (chứ không phải bị “tuyệt chủng” từ thế kỷ trước); và xem ra nó cũng có những mối liên hệ sâu xa đối với sự chuyển động của văn học dân tộc trên con đường hiện đại hóa.
Tuy nhiên, việc chỉ ra quá trình thời gian của nhóm truyện trên cũng không mang nhiều ý nghĩa. Hiện tượng này chỉ là cá biệt, thiếu hẳn tính chất phổ biến của cả loại hình. Khi chọn lọc để tạo ra “nhóm” tác phẩm theo tiêu chí cụ thể như vậy, nó mang đặc điểm của một bộ sưu tập (selection) hơn là thành tố của loại hình.
Như vậy là, ngoài nhóm truyện “chuyển thể” còn để lại chút manh mối về lai lịch, đối với số còn lại, chúng ta không thể biết chính xác quá trình vận động của nó; ngay cả nhóm truyện “liên hoàn đề vịnh” (kiểu như Vương Tường, Tô công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi…) cũng vậy. Thực ra, đây là nhóm truyện có quá trình hình thành, phát triển độc lập chứ không phải là “khúc dạo đầu” của truyện nôm, lại càng không phải là sản phẩm có tính chất thử nghiệm trước khi bước sang giai đoạn hoàn thiện như nhiều người vẫn nghĩ. Nét đặc trưng của các tác phẩm trong nhóm truyện này là hiện tượng “ẩn giấu” cốt truyện; nói đúng hơn, nó không có một cốt truyện đúng nghĩa. Trong trường hợp này, cái được gọi “cốt truyện” thực chất chỉ là những yếu tố được gợi ra một cách gián tiếp – các giai thoại lịch sử. Vai trò của nó là hỗ trợ “thông tin sự kiện” cho người thưởng thức tác phẩm. Chẳng hạn, khi tiếp nhận truyện Tô công phụng sứ, người nghe/ đọc sẽ hình dung về nhân vật Tô Vũ (thời Hán, Trung Quốc) và qua đó liên tưởng đến Lê Quang Bí thời nhà Mạc, chứ không chỉ là 24 bài thơ cùng chung chủ đề về chuyện ông Tô (Vũ) đi sứ. Cần lưu ý là kiểu truyện này không chỉ là những bài thơ theo thể thất ngôn bát cú Đường luật mà có cả thể thơ lục bát, lục bát biến thể, hát nói… và phát triển đến đầu thế kỷ XX, với những Bồng mạc tân ca, Nam Xương liệt nữ Vũ Thị tân truyện, Đồng tiền truyện(8)…
Đối với các truyện kể tôn giáo, các “bản hạnh”, “chân kinh” (như Quan Âm tống tử bản hạnh, Địa Tạng bản hạnh, Thiên Nam Hương Sơn Quan Thế âm chân kinh tân dịch…) hoặc đối với các “truyện nôm bình dân” (như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Thạch Sanh, Tấm Cám, Hoàng Trừu...) thì việc xác định chính xác xuất xứ của chúng là điều gần như không thể. Bởi vì cái “cơ chế tạo sinh” các tác phẩm này xem ra cũng tương tự như các truyện kể dân gian vậy. Con đường hình thành nên “truyện tôn giáo”, “truyện bình dân” cho đến nay vẫn là một điều bí ẩn. Có ý kiến cho rằng lộ trình lịch sử của nó tương tự như quá trình sinh thành, phát triển của các sáng tác dân gian: thoạt tiên nó được sáng tác bởi một/nhóm người; quá trình truyền tụng, phổ biến bằng phương thức truyền khẩu của cộng đồng sẽ làm cho nó trở nên hoàn thiện (cũng đồng thời tạo nên các dị bản); từ đấy nó bắt đầu “sống” theo đúng phương thức của một tác phẩm truyền khẩu dân gian, nghĩa là tiếp tục được sinh tồn trong môi trường văn hóa cộng đồng; cũng có thể được cố định vào một văn bản viết bằng chữ Nôm hoặc chữ quốc ngữ. Bởi thế, trong một số công trình nghiên cứu văn học sử Việt Nam, truyện thơ nôm (bình dân, tôn giáo) thậm chí còn được xếp vào phần văn học dân gian, được coi là một “thể loại” của văn học dân gian… Điều đó thiết nghĩ cũng không phải hoàn toàn vô lý. Trong trường hợp này, cũng giống như đối với văn học dân gian, cái gọi là “lịch sử loại hình” trên thực tế không hề tồn tại và do đó cũng không nhất thiết phải đặt ra.(8)
Trở lại với câu hỏi về lý do xuất hiện truyện thơ nôm. Chính quan niệm loại hình sẽ giúp người nghiên cứu cởi bỏ nỗi “ám ảnh” của “chủ nghĩa lịch sử” trong việc nhận thức về nguồn gốc của nó. Rõ ràng là, chẳng có cơ sở nào để khẳng định mối quan hệ (có tính nhân – quả) giữa truyện thơ nôm với bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Bởi vì, chỉ cần đặt truyện thơ nôm trong một phối cảnh rộng hơn của loại hình – tương quan văn học các cộng đồng – thì sẽ rõ.
Hãy thử đặt truyện thơ nôm trong tương quan với truyện thơ của các dân tộc thiểu số Việt Nam chẳng hạn; dễ dàng nhận thấy sự tương đồng rất lớn giữa hai đối tượng này. Mối liên hệ giữa truyện thơ nôm với truyện thơ của các dân tộc ít người ở vùng núi phía Bắc (như dân tộc Tày – Nùng, dân tộc Thái, dân tộc Mường, dân tộc H’Mông…) và với truyện thơ của các dân tộc ở vùng Nam Trung Bộ, Nam Bộ… rõ ràng đến mức, một số nhà nghiên cứu coi đấy là mối quan hệ “chuyển tiếp”. Con đường phát triển của chúng đều theo một quy luật chung: diễn ca những vấn đề chủ yếu, liên quan mật thiết đến đời sống cộng đồng như các nghi lễ dân gian, những câu chuyện tình yêu đôi lứa, những tấm gương về đạo lý, đạo đức…
Thoạt tiên là các truyện cổ, các huyền thoại lưu truyền trong cộng đồng; tiếp đến, những nhân vật “trí thức” của cộng đồng như ông then, thầy cúng, thầy mo, Pô Mduôn (nghệ nhân dân gian), Pô Chang, Pô Baxeh (tăng lữ đạo Bà La Môn) góp phần nhuận chính, ghi chép lại bằng thứ chữ của dân tộc mình. Đặc biệt, trong kho tàng truyện thơ của các dân tộc bao giờ cũng có một bộ phận gắn liền với các nghi lễ dân gian hoặc sự tích tôn giáo. Xét về tính năng, những truyện này không đơn thuần là tác phẩm văn chương mà dung hợp trong đó nhiều chức năng khác nhau. Có thể nói chính các truyện thơ này là một trong những yếu tố chủ yếu của các nghi thức sinh hoạt cộng đồng. Trong các nghi lễ có nguồn gốc từ xa xưa như Xên bản, Xên mường (dân tộc Thái), Tết nhảy (dân tộc Dao)…, bao giờ cũng có phần vũ đạo kèm diễn kể các truyện thơ. Những lời thuyết giảng về truyền thống, lịch sử, những giải thích về cội nguồn… trở thành một thứ phương tiện, chất liệu đặc biệt để kiến tạo nên văn hóa tinh thần của một dân tộc. Mà những sinh hoạt này chắc chắn là đã xuất hiện từ rất lâu. Đây đáng coi là những gợi ý lý thú về thời điểm ra đời của truyện thơ nôm.
Nếu nhìn rộng ra văn học vùng Đông Nam Á, ta sẽ thấy có nhiều dân tộc cũng có truyền thống truyện thơ từ lâu đời như vậy. Chẳng hạn, hình thức diễn xướng dân gian được gọi là khắp, lăm, lượng, một lối kể chuyện thơ tổng hợp của người Lào. Đây là những tác phẩm thơ trường thiên, nói về Phật giáo, về tộc người, những câu chuyện tình đôi lứa, những mâu thuẫn xã hội, những vấn đề đạo đức… Văn học Lào có nhiều truyện thơ nổi tiếng như: Truyện Ka-lakệt, Truyện Xú-li-voong, Truyện Thạoxỉ-thôn, Truyện Xẳng-xỉn-xây, Truyện Chăn-thá-khạt, Truyện Nang-teng-oon… Các truyện này đều có xuất xứ từ truyện dân gian và đều nằm trong tình trạng khuyết danh; một bộ phận được các trí thức, các thầy chùa nhuận chính lại và cho in thành sách vào khoảng thế kỷ XVIII trở về sau.
Văn học Campuchia, Thái Lan cũng có tình trạng tương tự. Trong số các tác phẩm văn học truyền thống của Campuchia, nổi tiếng nhất là truyện thơ Riêmkê và Tum Tiêu. Thái Lan có truyện Rama Kiền… Chúng đều xuất hiện từ rất sớm dưới hình thức truyện kể và được hoàn thiện dần để thành những truyện thơ độc đáo. Có vẻ như văn học của các cộng đồng dân cư vùng hạ lưu Mêkông đều có chung đặc điểm thiên về thi ca và đều có truyền thống về truyện thơ. Điều này cho phép nghĩ đến xu hướng giao lưu, tiếp biến của hiện tượng “văn hóa truyện thơ” phổ biến trong khu vực.
Rõ ràng truyện thơ là một di sản văn hóa, cũng như kể chuyện thơ là một sinh hoạt văn hóa rất phổ biến trong đời sống tinh thần các tộc người khu vực Đông Nam Á. Loại hình truyện thơ nôm (theo lối truyện kể của người Việt) không phải là một ngoại lệ, trái lại, nó có một sự tương đồng sâu sắc, một sự ảnh hưởng qua lại rất rõ rệt. Không phải ngẫu nhiên mà truyện thơ của các dân tộc lại có rất nhiều những điểm trùng hợp lạ lùng: nội dung tư tưởng, mô hình cấu trúc, nguồn gốc xuất xứ, phương thức giao tiếp, thậm chí cả quá trình phát triển… Có thể đoán định rằng trong tiến trình lịch sử hàng nghìn năm qua, các dân tộc ở khu vực này đã có những mối liên hệ gốc gác sâu xa cả về đời sống, về văn hóa đã diễn ra hiện tượng tiếp biến văn hóa – văn học – ngôn ngữ hết sức tinh vi… Tất cả đều ít nhiều liên quan đến quá trình hình thành di sản truyện thơ nôm.
4. Kết luận
Nghiên cứu truyện thơ nôm là một công việc đầy khó khăn, phức tạp. Có nhiều lý do khiến cho việc tìm hiểu đối tượng này gặp nhiều trở ngại, trong đó có những vướng mắc do quan niệm, do phương pháp tiếp cận đối tượng đưa đến. Chính vì thế, tìm cách thay đổi nếp tư duy quen thuộc là điều cần thiết. Cần phải đặt truyện thơ nôm ở đúng vị thế của một loại hình văn học, phải quan sát nó từ những điểm nhìn mới mẻ, với những hệ quy chiếu rộng lớn, đa dạng hơn. Điều này sẽ khiến cho việc nhận diện đặc điểm, tính chất của nó trở nên hợp lý và việc xử lý các vấn đề cụ thể đã tồn tại trong quá trình nghiên cứu lâu nay mới trở nên khả thi. Tất nhiên không thể có phương pháp vạn năng trong nghiên cứu khoa học. Nhưng có nhiều lối đi thì việc tìm kiếm sự thật chắc chắn sẽ hiệu quả, chính xác hơn.
__________
(1) Sách giáo khoa bậc phổ thông trung học cho rằng truyện thơ nôm ra đời gắn với sự hoàn thiện thể thơ lục bát, tức là vào thế kỷ XVII (xem Văn học 10, t.1, tr.77-82.); còn theo Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX thì các truyện thơ Vương Tường, Tô công phụng sứ… ra đời vào thế kỷ XV, truyện thơ lục bát xuất hiện vào thế kỷ XVIII.
(2) Dương Quảng Hàm cho rằng truyện Vương Tường có thể được sáng tác từ thời Trần (xem Việt Nam văn học sử yếu, tr. 277-278).
(3) Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.113-117; hoặc Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.253-254.
(4) Kiều Thu Hoạch (2007), sđd, tr.57.
(5) Nguyễn Hữu Hào, tác giả Song Tinh truyện, một công thần của nhà Nguyễn, mất năm 1713, chưa rõ năm sinh.
(6) Mối quan hệ này được giải thích là “cơ sở xã hội của sự hình thành và phát triển truyện nôm”, (Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, tr.50-54).
(7) Theo Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học, “thể loại” là các “dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy”, tr.202.
(8) Trong tập sách của Nhan Bảo, Tích Đồng Văn công bố năm 2005 về 6 truyện – thơ nôm đầu thế kỷ XX, thực ra chỉ có Bồng mạc tân ca, Nam Xương liệt nữ Vũ Thị tân truyện, Đồng tiền truyện là mang tính chất của truyện thơ nôm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhan Bảo, Tích Đồng Văn (2005), 6 truyện – thơ nôm đầu thế kỷ XX, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
2. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Lộc, Chu Xuân Diên, Trần Đồng Minh, Lê Trí Viễn (1997), Văn học 10, t.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Lộc (1997), Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Đặng Văn Lung (1998), “Truyện Nôm”, Tạp chí Văn học, số 3.
9. Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (đồng chủ biên) (2003), Từ điển tác giả tác phẩm văn học dùng trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) – 2015
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Cách tiếp cận mới trong nghiên cứu truyện thơ Nôm (Tác giả: PGS.TS Nguyễn Phong Nam) |